Tổng quan văn hóa phục trang
Quan niệm về mặc và nguồn gốc nông nghiệp trong chất liệu may mặc của người Việt
1. Đối với con người, sau ăn thì đến Mặc là cái quan trọng. Nó giúp cho con người đối phó được với cái nóng, cái rét của thời tiết, khí hậu. Nhân dân ta nói một cách đơn giản : Được bụng no, còn lo ấm cật .Vì vậy, cũng như trong chuyện ăn, quan niệm về mặc của người Việt Nam trước hết là một quan niệm rất thiết thực : Ăn lấy chắc, mặc lấy bền. và Cơm ba bát, áo ba manh, đói không xanh, rét không chết.
Nhưng mặc không chỉ để đối phó với môi trường, mặc có một ý nghĩa xã hội rất quan trọng : Quen sợ dạ, lạ sợ áo. Người ta hơn kém nhau nhiều khi bởi nó : Hơn nhau cái áo manh quần - Thả ra ai cũng bóc trần như ai; và người ta khổ sở nhiều khi cũng vì nó: Cha đời cái áo rách này - Mất chúng mất bạn vì mày áo ơi ! Mặc trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong mục đích trang điểm, làm đẹp cho con người: Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân, chân tốt về hài, tai tốt về hoa.
Mỗi dân tộc có cách ăn mặc và trang sức riêng, vì vậy, cái mặc trở thành biểu tượng của văn hóa dân tộc. Mọi âm mưu đồng hóa sau khi xâm lăng đều bắt đầu từ việc đồng hóa cách ăn mặc.
Từ nhà Hán cho đến Tống, Minh, Thanh, các triều đại phong kiến Trung Quốc xâm lược luôn kiên trì dùng đủ mọi biện pháp buộc dân ta ăn mặc theo kiểu phương Bắc song chúng luôn thất bại. Các vua nhà Lí, Trần cho dạy cung nữ tự dệt vải, không dùng vải vóc nhà Tống. Trong lời hiệu triệu tướng sĩ đánh quân Thanh, Quang Trung viết : Đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng...
Vậy cái riêng trong cách mặc của người Việt là gì ?. Đó trước hết là cái chất nông nghiệp, mà chất nông nghiệp thì thể hiện rõ nhất trong chất liệu may mặc.
Về Chất liệu may mặc, để đối phó hữu hiệu với môi trường tự nhiên, người phương Nam ta sở trường ở việc tận dụng các chất liệu có nguồn gốc thực vật là sản phẩm của nghề trồng trọt, cũng là những chất liệu may mặc mỏng, nhẹ, thoáng, rất phù hợp với xứ nóng.Trước hết, đó là tơ tằm. Cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang có từ rất sớm. Trong những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kì đá mới cách nay khoảng 5000 năm (như di chỉ Bàu Tró), đã thấy có dấu vết của vải có dọi xe chỉ bằng đất nung. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang - đó là hai công việc chủ yếu luôn gắn liền nhau của người nông nghiệp Việt Nam. Người Trung Hoa từ xưa cũng đã luôn xem đó là hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hóa phương Nam; trong chữ "Man" mà Trung Hoa xưa dùng để chỉ người phương Nam có chứa bộ trùng chỉ con tằm.Từ phương Nam. nghề tằm tang đã được đưa lên phương Bắc. Sách Hoàng Đế nội kinh nói về việc này một cách hình tượng là "khi Hoàng Đế chặt đầu Si Vưu thi thần Tằm Tang dâng lụa cho ông" (hiểu là : khi bộ lạc phương bắc do Hoàng Đế làm thủ lĩnh chiến thắng bộ lạc phương Nam do Si Vưu làm thủ lĩnh thì người phương Bắc tiếp thu được bí quyết nghề trồng dâu nuôi tằm của phương Nam). Các sách cổ Trung Quốc như Thủy kinh chú, Tam đô phú, Tề dân yếu thuật đều nói rằng đến đầu công nguyên, trong khi Trung Quốc một năm chỉ nuôi được 3 lứa tằm thì năng suất tằm ở Giao Chỉ, Nhật Nam, Lâm ấp một năm đạt được tới 8 lứa. Để có được nhiều lứa tằm trong năm, tổ tiên ta đã lai tạo ra được nhiều giống tằm khác nhau phù hợp với các loại thời tiết nóng, lạnh, khô ẩm. Đây là một nghề hết sức vất vả cực nhọc : Làm ruộng ba năm không bằng chăn tằm một lứa; Làm ruộng ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng. Từ tơ tằm, nhân dân ta đã dệt nên nhiều loại sản phẩm rất phong phú : tơ, lụa, lượt, là, gấm, vóc, nhiễu, the, đoạn, lĩnh, dũi, địa, nái, sồi, thao, vân,... mỗi loại lại có hàng mấy chục mẫu mã khác nhau.
Đến tk. XVI-XVIII, khi mà tơ lụa Trung Quốc sản xuất với số lượng nhiều đã chiếm lĩnh thị trường thế giới thì tơ lụa Việt Nam vẫn được đánh giá rất cao do chất lượng của nó. Năm 1749, một người phương Tây là Poivre nhận xét: "Tơ lụa Đàng Trong so với Trung Quốc thì hơn hẳn về phẩm chất và sự tinh tế. Tơ đẹp nhất là của vùng Quảng Ngãi. Người Trung Quốc mua đi rất nhiều và kiếm lời được từ 10-15%". Trong số 27 mặt hàng chính mà Nhật Bản nhập của Việt Nam thời kì này (ghi lại trong sách Hòa Hán tam tài đồ sương) thì riêng vải lụa đã chiếm 11 mặt hàng. Thời thuộc Pháp, tơ lụa Việt Nam đã trở thành một nguồn lợi to lớn. Riêng trong khoảng 1909-1913, hằng năm Việt Nam xuất sang Pháp 183,3 tấn tơ lụa các loại Theo điều tra của P- Gourou. trong số 108 nghề thủ còng khác nhau có ở đồng bằng Bắc Bộ vào năm 1935 thì nghề dệt đứng hàng đầu với tổng số trên 54 nghìn thợ dệt.Ngoài tơ tằm, nghề dệt truyền thống của Việt Nam còn sử dụng các chất liệu thực vật đặc thù khác như tơ chuối, tơ đay, gai, sợi bông .
Vải tơ chuối là một mặt hàng đặc sản của Việt Nam mà đến tk. VI, kĩ thuật này đã đạt đến trình độ cao và rất được người Trung Quốc ưa chuộng. Họ gọi loại vải này là "vải Giao Chỉ". Sách Quảng chí chép : "Thân chuối xé ra như tơ, đem dệt thành vải... Vải ấy dễ rách nhưng đẹp, màu vàng nhạt, sản xuất ở Giao Chỉ". Cho đến tận tk. XVIII, loại vải này vẫn rất được ưa chuộng, Cao Hùng Trưng trong sách An Nam chí nguyên còn ca ngợi : "loại vải này mịn như lượt là, mặc vào mùa nực thì hợp lắm".Vải dệt bằng sợi tơ đay, gai cũng xuất hiện khá sớm. Đất đai và khí hậu Việt Nam rất thích hợp cao những loại cây này phát triển, tổ tiên ta không những biết tận dụng khai thác nguồn nguyên liệu sẵn có này mà còn thuần dưỡng chúng thành loại cây trồng phổ biến. Sách Trung Quốc thời Hán, Đường đều nói rằng đay, gai ở An Nam mọc thành rừng, dùng để dệt vải. Vải đay gai bền hơn vải tơ chuối nhiều; đem cây đay gai ngâm nước cho thịt thối rữa ra, còn lại tơ đem xe thành sợi dệt vải thì vải cũng mịn như lượt là . Sử sách nước ta ghi: "cứ mỗi tháng vàongày mồng một, thường triều đều mặc áo tơ gai ".Nghề dệt vải bông xuất hiện muộn hơn nhưng ít ra cũng từ các thế kĩ đầu công nguyên. Sách vở Trung Hoa gọi loại vải này là vải cát bối. Sách Lương thư giải thích: "Cát bối là tên cây, hoa nở giống như lông ngỗng, rút lấy sợi dệt thành vải trắng muốt chẳng khác gì vải đay". Kĩ thuật trồng bông dệt vải từ phương Nam du nhập sang Trung Hoa vào tk X đến tk XI, vải bông trở thành mốt đến nỗi người Trung Quốc dương thời kêu là "vải bông mặc kín cả thiên hạ".
Trong khi sở trường của phương Nam ta là các loại vải nguồn gốc thực vật thì người phương Bắc có sở trường dùng da thú là sản phầm của nghề chăn nuôi làm chất liệu mặc, thêm vào đó, da (và lông) thú lại rất phù hợp với thời tiết phương Bắc lạnh. Mùa lạnh ở Việt Nam, bên cạnh cách mặc đơn giản và rẻ tiền nhất là mặc lồng nhiều áo vào nhau, người ta may độn bông vào áo cho ấm (áo bông, áo mền.. ). Người nông thôn còn dùng loại áo làm bằng lá gồi, gọi là áo tơi mặc đi làm đồng vừa tránh rét,tránh mưa, vừa tránh gió.
Cách thức trang phục qua các thời đại và tính linh hoạt trong cách mặc của người Việt
Theo chủng loại và chức năng, trang phục gồm có đồ mặc phía trên, đồ mặc phía dưới, đồ dội đầu, đồ đi chân và đồ trang sức. Theo mục đích, có trang phục lao dộng và trang phục lễ hội. Theo giới tính, thì có sự phân biệt trang phục nam và trang phục nữ. Cách thức trang phục của người Việt qua các thời đại bị chi phối bởi hai nhân tố chính, của môi trường tự nhiên hoặc có nguồn gốc từ môi trường tự nhiên - đó là: (a) khí hậu nóng bức của vùng nhiệt đới; và (b) công việc lao động nông nghiệp trồng lúa nước.
Đồ mặc phía Dưới tiêu biểu hơn cả, ổn định hơn cả của phụ nữ qua các thời đại là cái váy.
Từ thời Hùng Vương, phụ nữ đã mặc váy, lối mặc đó được bảo lưu một cách kiên trì ở nhiều nơi cho tới tận giữa thế kỉ này. Nó là đồ mặc điển hình của cả vùng Đông Nam á và phổ biến đến mức, ở một số dân tộc Đông Nam á, không chỉ phụ nữ, mà cả nam giới cũng mặc váy. Sở dĩ như vậy là vì mặc váy không chỉ mát, đối phó được một cách có hiệu quả với khí hậu nóng bức, mà còn rất phù hợp với công việc đồng áng.
Là thứ đồ mặc phía dưới đặc thù của phương Nam, chiếc váy khác hắn với chiếc quần có nguồn gốc từ nôi du mục Trung á : thứ đồ mặc này phù hợp với công việc chăn nuôi cưỡi ngựa và khí hậu phương Bắc giá lạnh. Với âm mưu đồng hóa tàn bạo, phong kiến Trung Hoa đã nhiều phen muốn đưa chiếc quần vào thay thế cho chiếc váy của ta. Đến thời thuộc Minh, chiếc quần phụ nữ có lẽ đã phổ biến được ở một bộ phận thị dân. Bởi vậy mà vào năm 1665, vua Lê Huyền Tông đã phải ra chiếu chỉ cấm phụ nữ : không được mặc quấn để bảo tồn quốc tục mặc váy. Trong khi đó. đến cuối tk. XVII để tạo nên sự đối lập với Đàng Ngoài, chúa Nguyễn ở trong Nam đã lệnh cho trai gái Đàng Trong dùng quần áo Bắc quốc (= Trung Hoa) để tỏ sự biến đổi. Thành ra chiếc quần gốc du mục cuối cùng đã thâm nhập vào miền Nam sớm hơn miền Bắc. Đến năm 1828, vua Minh Mạng tiếp tục học theo Trung Hoa một cách triệt để ra chiếu chỉ cấm dân mặc váy, và đã gây nên một sự phản ứng mạnh mẽ trong dân chúng ở vùng Bắc Hà. Phản ứng bởi lẽ người dân Việt rất tự hào về chiếc váy, rất tự tin vào bản sắc và bản lĩnh văn hóa của mình : Cái trống thì thủng hai đầu. Bên ta thì có , bên tàu thì không !Đối với nam giới, đồ mặc phía dưới ban đầu là chiếc khố. Khố là một mảnh vải dài quấn một hoặc nhiều vòng quanh bụng và luồn từ trước ra sau, đuôi khố thường thả phía sau (cũng có khi thả về phía trước). Khố mặc mát, phù bợp với khí hậu nóng bức, và dễ thao tác trong lao động. Vì vây, nó không chỉ là đồ mặc điển hình thời Hùng Vương mà còn được duy trì ở bộ phận dân chúng khá lâu về sau này; thời Nguyễn. các sắc lính tuy phân biệt với nhau bằng màu của thắt lưng (lễ phục) hoặc xà cạp (thường phục), nhưng vẫn dược gọi là "khố": lính khố xanh (địa phương), lính khố đỏ (quân thường trực), lính khố vàng (phục vụ vua). Ngày nay. tuy nam giới không còn đóng khố. nhưng do sự chi phối của khí hậu, lối cởi trần mặc độc một chiếc quần đùi (= quần xà lỏn) lúc ở nhà vào mùa nóng ở người lớn cũng như trẻ con. Nông thôn cũng như thành thị, thực ra cũng chẳng khác cách mặc cởi trần đóng khố thời Hùng Vương bao xa!
Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
Các bài viết cùng chuyên mục:
Đánh dấu