Chào các bạn,

ChuyenHVT.net thành lập 2005 - Nơi lưu trữ rất nhiều kỉ niệm của các thế hệ học sinh trong hơn 15 năm qua. Tuy chúng mình đã dừng hoạt động được nhiều năm rồi. Và hiện nay diễn đàn chỉ đăng nhập và post bài từ các tài khoản cũ (không cho phép các tài khoản mới đăng ký mới hoạc động). Nhưng chúng mình mong ChuyenHVT.net sẽ là nơi lưu giữ một phần kỉ niệm thanh xuân đẹp nhất của các bạn.


M.

Kết quả 1 đến 2 của 2

Chủ đề: Hoàng Sa - Trường sa- những sự thực giới trẻ cần biết

Hybrid View

  1. #1
    Moderator thử việc
    Ngày tham gia
    15-09-2009
    Tuổi
    31
    Bài viết
    1,267
    Cảm ơn
    554
    Đã được cảm ơn 320 lần ở 179 bài viết

    Mặc định Hoàng Sa - Trường sa- những sự thực giới trẻ cần biết

    Sông núi nhà dòng châu rơi

    Khắp nước non mờ tối dưới trời

    ….

    Vì đâu vua Trưng nữ ra quân

    Vì non sông tử tiết vong thân

    Nước cuốn réo rắt như thiết tha gọi quốc hồn

    Thiên thu trên Hát Giang vang tiếng lòng

    Lễ khao lề thế lính hôm nay đã được tổ chức ở Âm linh tự thuộc huyện đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi, Việt Nam, dành cho những người được gọi là “nghĩa sĩ trận vong”. Không hiểu trong cái lễ dành cho những hùng binh Hoàng Sa đó, khúc bi hùng của bản Hát Giang Trường Hận có được vang lên!?

    Có lẽ là từ thời vua Minh Mạng, những chuyến đi về phía mặt trời đã đầy những bất trắc. Hoàng Sa trời nước mênh mông/Người đi thì có mà không thấy về. Mỗi người lính, trước khi lên thuyền ra đảo Hoàng Sa, làm “quân vụ biên phòng”, đã có sẵn cho mình một hình nhân thế mạng để trong Âm linh tự, có sẵn theo mình hai vật bất ly thân: Tấm thẻ bài có khắc tên họ, bản quán, để khi thành tử sĩ, không phải là một cái xác vô danh. Và, những chiếc bài gỗ có khắc dòng chữ: “Minh Mạng thập thất thiên…” để đánh dấu chủ quyền quốc gia.

    Một người lính, vẫn còn lưu tên đến tận bây giờ, đó là ông Phạm Hữu Nhật. Theo từ điển Wikipedia, Phạm Hữu Nhật, tên huý là Phạm Văn Triều, ở cù lao Ré, là thuỷ quân chánh đội trưởng suất đội Hoàng Sa. Năm Minh Mạng thứ 17 (1836), vua Minh Mạng châu cải: “Báo gấp cho Quảng Ngãi thực thụ ngay, giao cho tên ấy (Phạm Hữu Nhật) nhận biên” và châu phê: “Thuyền nào đi đến đâu, cắm mốc tới đó để lưu dấu”. Bài gỗ lưu dấu có khắc dòng chữ: "Minh Mạng thập thất niên, Bính Thân, Thuỷ quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương độ chí thử lưu đẳng tự" (có nghĩa là: Năm Minh Mạng thứ 7, năm Bính Thân-1836, Thuỷ quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật vâng mệnh đi Hoàng Sa xem xét đo đạc đến đây để ghi nhớ).

    Phạm Hữu Nhật mất trong một lần ra biển. Tên ông được đặt cho đảo Hữu Nhật, một hòn đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam nay đã rơi cả vào tay Trung Quốc.

    Những người lính ấy, khi sống, thì làm ma sống, lúc chết trở thành nghĩa sĩ. Lúc sống, cũng như khi chết, chẳng bao giờ biết đòi hỏi gì cho riêng mình, ngay cả một cái danh xưng. Sự “trận vong” của họ, những tấm bài gỗ lưu dấu, cũng như Lễ khao lề thế lính còn lưu lại hàng trăm năm nay, còn có ý nghĩa gấp trăm ngàn lần những cái cột đá vô tri, ít nhất là trong lòng những con dân Việt trong ý thức và sự tự hào về giang sơn đất nước mà những tiền nhân đã khai phá.

    Thôi thì sau mấy trăm năm lạnh tanh hương khói, mộ ông ở Lý Sơn giờ cũng đã có được một tấm bia và mỗi độ khao lề thế lính chắc ông cũng đã có thể ngậm cười khi biết rằng cháu con của mình hôm nay đã không phụ máu xương của cha ông.

    Nhưng!

    Giá như không có những chữ nhưng.

    Thế còn bao nhiêu người lính đã ngã xuống ở Hoàng Sa năm 1974, ở biên giới năm 1979, ở Trường Sa năm 1988?

    Wikipedia đã mô tả về trận chiến Đồng Đăng vào ngày 17-2-1979 như sau:

    Trận chiến tại Đồng Đăng bắt đầu ngay từ ngày 17 và là trận ác liệt nhất. Đây là trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, Sư đoàn 3 Sao Vàng. Tấn công vào Đồng Đăng là 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, có sự chi viện của 6 trung đoàn pháo binh Trung Quốc. Lực lượng phòng thủ không được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được cho đến ngày 22. Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hoá chất độc vào các lỗ thông hơi thiêu sống và đầu độc tới chết những người bên trong, cả thương binh cũng như dân thường đang lánh nạn.

    Sau đó, “Ngay cả khi Bắc Kinh tuyên bố rút quân, ngày 5-3-1979, ngay cả khi Việt Nam tuyên bố rằng: Để thể hiện "thiện chí hòa bình", Việt Nam sẽ cho phép Trung Quốc rút quân, thì dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết. Một ví dụ là Vụ thảm sát ngày 9-3 tại thôn Tổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện Hoà An, Cao Bằng, khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối”.

    Theo tạp chí Time, trong cuộc chiến kéo dài chỉ hơn 30 ngày này, khoảng 10.000 lính Việt Nam đã tử trận.

    Không thể để mất một tấc đất, cha ông ta, những người lính đã đánh đến viên đạn cuối cùng, đến hơi thở cuối cùng và chấp nhận đổ máu trên mảnh đất của cha ông, còn hơn để lọt vào tay giặc.

    Không ai có thể không xúc động khi nghe câu chuyện “trận vong” của thiếu uý hải quân Trần Văn Phương trong cuộc hải chiến ngày 14-3-1988. Ông, cùng với hai người lính đã tay không giữ cờ trước lưỡi lê lính Trung Quốc. Trần Văn Phương bị bắn tử thương. Trước khi chết ông đã hô: "Thà hy sinh chứ không chịu mất đảo, hãy để cho máu của mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân”. Trong trận chiến ngày 14 tháng 3 năm 1988, 64 người lính đã tay không đứng thành một vòng tròn để chấp nhận hy sinh bên lá cờ của tổ quốc. Chấp nhận tay không để đối đầu với súng đạn quân thù. Không còn ai có thể nói cho cháu con họ vào giây phút đó họ đã nói với nhau những gì. Không ai biết.

    Sự hy sinh của họ đã bảo vệ được đảo Cô Lin và Len Đao nhưng không đủ khi đảo Gạc Ma thì vẫn bị quân thù chiếm giữ.

    Ngày 19-1-1974, 50 thủy binh Việt Nam cộng hoà của các tàu Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt, Trần Bình Trọng, Khu trục hạm Trần Khánh Dư và Hộ tống hạm Nhật Tảo cũng đã hy sinh khi quyết tử để giữ các đảo Quang Hoà, Duy Mộng, Vĩnh Lạc thuộc quần đảo Hoàng Sa. Trong cuộc chiến lúc 10h22 ngày 19-1-1974, Hộ tống hạm Nhật Tảo đã đánh trả quyết liệt các tàu chiến Trung Quốc. Khi Nhật Tảo hư hại nặng và bốc cháy, thuyền trưởng Nguỵ Văn Thà đã ra lệnh cho thuỷ binh xuống bè. Còn ông cùng một số thuỷ binh khác quyết không rời tàu, quyết chết theo tàu.

    Hành động tuẫn tiết đó có thể hiện khí tiết của những tiền nhân Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương?

    Thắng làm vua, thua làm giặc, dù vẫn bị coi là binh sĩ của “chế độ Việt Nam cộng hoà” thì hành động của họ không thể gọi khác hơn. Đó chính là sự hy sinh, sự quyết tử cho tổ quốc, cho đất nước, cho đồng bào. Đó là hành động của những anh hùng liệt sĩ.

    Vì sao chỉ có vụ thảm sát Mỹ Lai, mà không có vụ thảm sát Tổng Chúc?

    Vì sao cũng là việc ngã xuống để bảo vệ tổ quốc thì có người được gọi là liệt sĩ, có những người lại không?

    Và đến bao giờ thì con cháu những người đã ngã xuống mới có thể tự hào một cách công khai để có thể kể về sự hy sinh, tấm gương tuẫn tiết của cha ông mình?

    Cái gì đáng khép lại thì có thể khép lại, cái gì đáng quên thì có thể quên. Nhưng con cháu cần được biết cha ông chúng đã anh dũng ngã xuống như thế nào. Chúng cần phải biết rằng Hoàng Sa, và cả một phần Trường Sa, những tấc đất thiêng liêng mà cha ông chúng đã phải đổi bằng máu bây giờ vẫn đang bị quân thù chiếm giữ. Chúng cần phải biết sau khi chiếm Hoàng Sa, Trung Quốc đã thẳng tay xé bỏ Hòa ước Pháp-Thanh xác nhận chủ quyền quần đảo thuộc về Việt Nam, đã đập phá các văn bia chủ quyền, đã đào mồ quật mả những người Việt từng chôn trên đảo, đã xoá bỏ mọi di tích lịch sử của người Việt. Chúng cần được biết sự thật để có thể, bất cứ khi nào cũng sẵn sàng trở thành những Trần Văn Phương, những Nguỵ Văn Thà hy sinh cho tổ quốc.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

    Các bài viết cùng chuyên mục:

    Mạnh vì gạo, bạo vì tiền

  2. Đã có 5 người nói lời cảm ơn.


  3. #2
    Moderator thử việc
    Ngày tham gia
    15-09-2009
    Tuổi
    31
    Bài viết
    1,267
    Cảm ơn
    554
    Đã được cảm ơn 320 lần ở 179 bài viết

    Mặc định

    Công nhận là khâm phục tinh thầnnhững người dân ở đảo...họ anh dũng và can trường
    Những người như chúng ta ra đấy chưa được vài ngày đã nhanh cóng thu xếp đi về rồi
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    Mạnh vì gạo, bạo vì tiền

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •