Quốc kì
Quốc huy
Khẩu hiệu quốc gia:
E Pluribus Unum (1776-1956)
(Tiếng Latinh: "Từ nhiều ra một")
In God We Trust (1956 đến nay)
(Tiếng Anh: "Chúng ta tin vào Chúa Trời")
Quốc ca: The Star-Spangled Banner (Lá cờ lấp lánh sao)
Thủ đô Washington, D.C.
38°53′N 77°2′W
Thành phố lớn nhất Thành phố New York
Ngôn ngữ chính thức Không có¹
Chính phủ
• Tổng thống
• Phó tổng thống Cộng hòa liên bang dân chủ
George W. Bush (Cộng hòa)
Dick Cheney (Cộng hòa)
Độc lập
• Tuyên bố
• Công nhận Từ Đế quốc Anh
Ngày 4 tháng 7, 1776
Ngày 3 tháng 9, 1783
Diện tích
• Tổng số
• Nước![]()
9.631.418 km² (hạng 3 ²)
4,87%
Dân số
• Ước lượng năm 2006
• Thống kê dân số 2000
• Mật độ
297.883.322 (hạng 3)
281.421.906
32 người/km² (hạng 140)
HDI (2003) 0,944 (hạng 10) – cao
GDP (2006)
• Tổng số (PPP)
• Trên đầu người (PPP)
13.049,299 tỷ Mỹ kim (hạng 1)
43.555 đô la (hạng 3)
Đơn vị tiền tệ đô la Mỹ ($, USD)
Múi giờ
• Quy ước giờ mùa hè UTC−5 đến −10
UTC−4 đến −10
Tên miền Internet .us .gov .edu .mil .um
Mã số điện thoại +1
¹ Tiếng Anh là ngôn ngữ thực dụng của chính phủ Hoa Kỳ nhưng không có văn bản chính thức nào xác nhận nó là ngôn ngữ chính thức.
² Đôi khi được ghi là hạng tư về diện tích; thứ hạng này đang bị tranh cải với Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.
Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ (thường bị gọi chệch đi thành Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ)[cần chú thích], thường gọi là Hoa Kỳ hoặc nước Mỹ, là một nước cộng hòa liên bang, phần lớn nằm tại Bắc Mỹ nhưng cũng có nhiều đảo rải rác khắp Thái Bình Dương. Hoa Kỳ trải dài từ bờ biển Đại Tây Dương đến Thái Bình Dương, có cùng ranh giới với Canada về phía bắc và Mexico về phía nam, cách với Nga về phía tây qua eo biển Bering. Liên bang Hoa Kỳ bao gồm 50 bang hay tiểu bang, mỗi bang có một mức tự trị địa phương, và một số địa hạt, lãnh thổ, thuộc địa vòng quanh địa cầu.
Hoa Kỳ được thành lập khi 13 thuộc địa cũ của Đế quốc Anh tại Bắc Mỹ tuyên ngôn vào năm 1776 rằng họ là những bang tự do và độc lập. Từ giữa thế kỷ 20, nước này đã vượt xa tất cả các quốc gia khác về lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự và ảnh hưởng văn hóa.
Hoa Kỳ được thành lập theo truyền thống chính phủ dân cử kiểu dân chủ đại nghị. Từ đó nhiều quốc gia, phần nhiều ở Trung Mỹ và Nam Mỹ, đã chịu ảnh hưởng của hệ thống này (có tổng thống và quốc hội).
Tên gọi
Tên "United States of America" được dịch theo Hán-Việt là Mỹ Lợi Kiên Hợp Chúng Quốc (美利堅合眾國). Chữ Chúng dần dần được viết thành Chủng vì nhiều người nghĩ rằng từ đó có nghĩa là "chủng tộc", vì nước này nổi tiếng là một quốc gia đa chủng. Hiện nay tên gọi Hợp Chủng Quốc tại Việt Nam được dùng phổ biến hơn, kể cả trong các văn kiện chính thức. Từ Hán-Việt "Hoa Kỳ" (花旗) được phát xuất từ quốc kỳ của nước này, với nhiều ngôi sao lấp lánh, giống như những bông hoa. Tên này không được dùng nữa trong tiếng Hán. Trong nhiều ngôn ngữ, từ USA cũng được dùng để chỉ đến nước này.
Lịch sử
George Washington, tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ
Sau cuộc xâm chiếm thuộc địa tại Mỹ Châu của các nước Châu Âu, nước Mỹ trở thành nước dân chủ hiện đại đầu tiên sau Chiến tranh Cách mạng với Anh Quốc vào năm 1776 với bản Tuyên ngôn Độc lập. Cấu trúc chính trị đầu tiên của nước này là một liên bang vào năm 1777, được thông qua vào năm 1781 trong Các Điều khoản Liên bang. Sau các cuộc tranh luận kéo dài, Hiến pháp năm 1789 đã thay thế cho Các Điều khoản Liên bang lập ra một chính quyền liên bang có mức độ trung ương hóa cao hơn.
Trong thế kỷ 19, nhiều bang mới được thêm vào Hoa Kỳ với 13 bang đầu tiên, làm quốc gia này được mở rộng ra, trải dài Bắc Mỹ và chiếm được thêm đất hải ngoại. Thời kỳ này cũng là khoảng thời gian Hoa Kỳ trở thành một quốc gia công nghiệp. Hai sự kiện đáng chú ý trong lịch sử nước này là Nội chiến (1861–1865) và Cuộc khủng hoảng kinh tế (1929–1939). Hoa Kỳ đã tham gia vào một số cuộc chiến tranh lớn trên thế giới như Chiến tranh 1812 chống lại Vương quốc Anh, là đồng minh của Anh trong Đệ Nhất Thế Chiến và Đệ Nhị Thế Chiến cũng như tham gia vào các cuộc Chiến tranh Triều Tiên và Việt Nam. Sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh vào năm 1991 sau khi Liên Xô tan rã đã làm cho Hoa Kỳ trở thành cường quốc độc nhất thế giới về kinh tế và quân sự.
Chính trịChính trị Hoa Kỳ
Hoa Kỳ gồm có 50 bang với quyền tự trị hữu hạn (luật liên bang có địa vị cao hơn luật tiểu bang). Nói chung, các việc nội bộ của một tiểu bang là trách nhiệm của riêng tiểu bang đó. Các việc đó gồm có việc liên lạc nội bộ; luật liên quan đến tài sản, công nghiệp, thương mại, và các ngành phục vụ công cộng; luật hình sự tiểu bang; và tình trạng việc làm trong tiểu bang. Thủ đô Washington, D.C. là một đơn vị hành chính đặc biệt, gọi là Đặc khu Columbia, dưới quyền của Quốc hội Hoa Kỳ, nhưng cũng có một ít quyền tự trị.
Các hiến pháp tiểu bang có một số điểm khác nhau, nhưng nói chung theo các nguyên tắc của hiến pháp liên bang, thường bao gồm một câu tuyên bố các quyền của người dân và kế hoạch tổ chức chính phủ. Trong các vấn đề như việc điều hành thương mại, ngân hàng, dịch vụ công cộng và tổ chức từ thiện, các hiến pháp tiểu bang thường cụ thể hơn hiến pháp liên bang. Trong các năm gần đây, chính quyền liên bang đã nắm lấy nhiều trách nhiệm hơn trong các lãnh vực như y tế, giáo dục, phúc lợi, giao thông và nhà cửa.
Tổng thống đương nhiệm George W. Bush
Chính quyền liên bang theo thể thức tam quyền phân lập gồm có ba bộ máy: bộ máy hành pháp (do Tổng thống đứng đầu), bộ máy lập pháp (Quốc hội) và bộ máy tư pháp (do Tòa án Tối cao đứng đầu). Tổng thống được bầu theo số phiếu đại cử tri cho mỗi nhiệm kỳ bốn năm. Số lượng phiếu đại cử tri được phân bổ theo dân số từng bang cùng với đặc khu Columbia. Ứng viên tổng thống nào chiếm đa số phiếu bầu trong tổng số phiếu bầu của các cử tri trong bang sẽ giành được toàn bộ số phiếu đại cử tri của bang đó. Các nhà lập pháp (nghị sĩ) được các cử tri trong 50 tiểu bang bầu ra. Quốc hội Mỹ gồm hai viện là Thượng nghị viện và Hạ nghị viện. Các nghị sĩ tương ứng của hai viện này là Thượng nghị sĩ và Hạ nghị sĩ (cũng gọi là dân biểu). Trong Hạ nghị viện, các thành viên được bầu cho mỗi nhiệm kỳ hai năm; trong Thượng nghị viện, các thành viên được bầu cho mỗi nhiệm kỳ sáu năm. Các thẩm phán trong Tòa án Tối cao được tổng thống bổ nhiệm suốt đời với sự chấp thuận của Thượng nghị viện. Mô hình tam quyền phân lập này cũng được lặp lại trong phần lớn các chính quyền tiểu bang. Chính quyền địa phương thì có nhiều hình thức khác nhau.
Tư tưởng chính trịTuy có nhiều quan điểm cấp tiến cũng như bảo thủ trong vấn đề trật tự xã hội, Hoa Kỳ chủ yếu là một xã hội tự do nếu được so sánh với các các văn hoá chính trị có tính chất xã hội chủ nghĩa hơn trong các quốc gia dân chủ tại châu Âu. Người Mỹ tin tưởng rằng quốc gia nói chung và mỗi công dân nói riêng sẽ được lợi hơn nếu quyền cá nhân được ưu tiên trước quyền tập thể.
Các tư tưởng và chính sách của tổng thống đương nhiệm thường giữ một vai trò chính trong việc định hướng của đảng cầm quyền, cũng như cương lĩnh của đảng đối lập.
Đảng phái
Chính quyền liên bang và tiểu bang phần lớn do hai đảng chính điều hành: đảng Cộng hoà và đảng Dân chủ. Đảng Cộng hoà thường có chính sách bảo thủ trong khi đảng Dân chủ có chính sách cấp tiến. Một số đảng phái nhỏ hơn cũng hiện diện, nhưng không được sự ủng hộ của nhiều người.
Các đảng phái tại Hoa Kỳ không có những nhân vật lãnh tụ chính thức như ở một số quốc gia khác, tuy nhiên chúng cũng có nhiều tôn ti trật tự phức tạp trong các đảng phái trong các uỷ ban trong bộ hành pháp. Trong mỗi đảng, các quan điểm chính trị là vấn đề cá nhân, cho nên trong mỗi đảng cũng có những nhân vật ôn hoà cũng như những nhân vật cực đoan.
Hai đảng chính hiện diện trong các cấp liên bang, tiểu bang và địa phương, tuy nhiên tổ chức, cương lĩnh và quan điểm không cần phải giống nhau trong mọi cấp chính quyền.
Cả hai đảng chính đều có sự ủng hộ của người dân trong mọi tầng lớp trong xã hội đa sắc tộc của Hoa Kỳ. Các tập thể thương mại cung cấp phần lớn việc đóng góp tài chính cho cả hai đảng, nhưng thường cho đảng Cộng hoà nhiều hơn. Đảng Cộng hoà thường được nhận ủng hộ tinh thần và tài chính từ các nhóm thương mại, các người sùng đạo Kitô giáo và người ở nông thôn, trong khi đảng Dân chủ thường nhận được ủng hộ từ các công đoàn và các nhóm người thiểu số. Do việc bầu cử ở Hoa Kỳ rất tốn kém nên hệ thống chính trị cần nhiều tiền. Vì thế, các công đoàn, công ty và tổ chức khác mà đóng góp tiền bạc cho các đảng và các nhà chính trị đóng một vai trò quan trọng trong việc định đoạt chương trình chính trị nhà nước.
Các đảng phái nhỏ và các ứng cử viên độc lập thỉnh thoảng được bầu, thường cho các chức vụ địa phương hay trong tiểu bang, nhưng hệ thống chính trị Hoa Kỳ từ xưa đã theo hướng "một đảng thắng hết", không cho phép chính phủ liên hiệp.
Chính sách đối ngoại
Ưu thế vượt bậc về quân sự, kinh tế, và văn hoá của Hoa Kỳ đã làm chính sách đối ngoại trở thành một đề tài quan trọng trong chính trị Hoa Kỳ.
Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đã trải qua nhiều chu kỳ trong lịch sử của nước này: từ chủ nghĩa biệt lập đến chủ nghĩa đế quốc và các chủ nghĩa khác mang tính trung gian.
Vì Hoa Kỳ có ảnh hưởng chính trị và văn hoá đến các nước khác cho nên nhiều người có cảm nghĩ sâu sắc và có khi phi lý về nước Mỹ; các cảm nghĩ này có thể là yêu thích hay căm thù. Một ví dụ cụ thể là tên mà giáo chủ Khomeini gắn cho nước Mỹ, đến nay (2005) vẫn được chính quyền Iran sử dụng: "Quỷ chúa Satăng".
Các bài viết cùng chuyên mục:
- Sách hay giá rẻ
- Sổ tay toán,lý, hóa cấp 3 trên điện thoại...
- Vua chúa triều Nguyễn & 1 số hình ảnh thời...
- VÌ sao facebook bỊ chẶn ?
- Công nghệ quay bài kỹ thuật cao ;))
- Audio Luyện nghe Tiếng Anh Hiệu Quả từ Căn...
- 10 quy tắc vàng để đọc sách nhanh
- Chiến lược dài hạn của Trung Quốc?
- Mạng Trung Quốc và Biển Đông
- Hành trang vào đời
Đánh dấu