Chào các bạn,

ChuyenHVT.net thành lập 2005 - Nơi lưu trữ rất nhiều kỉ niệm của các thế hệ học sinh trong hơn 15 năm qua. Tuy chúng mình đã dừng hoạt động được nhiều năm rồi. Và hiện nay diễn đàn chỉ đăng nhập và post bài từ các tài khoản cũ (không cho phép các tài khoản mới đăng ký mới hoạc động). Nhưng chúng mình mong ChuyenHVT.net sẽ là nơi lưu giữ một phần kỉ niệm thanh xuân đẹp nhất của các bạn.


M.

Kết quả 1 đến 11 của 11

Chủ đề: Điển hay tích lạ

Hybrid View

  1. #1

  2. Những người đã cảm ơn :


  3. #2
    Chưa kích hoạt
    Ngày tham gia
    18-07-2009
    Tuổi
    40
    Bài viết
    3
    Cảm ơn
    0
    Đã được cảm ơn 1 lần ở 1 bài viết

    Mặc định

    Trích dẫn Gửi bởi Mr_K Xem bài viết
    mod box truyện chữ bắt đầu ra tay
    khôi thằng cận lòi mắt nữa
    chỉ những ai ham đọc truyện mới lòi mắt thôi
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

  4. #3
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Cỏ đỏ trên mộ Chiêu Quân


    Tỉnh Tuy Viễn ở Trung Hoa, bắc giáp Mông Cổ. Thị trấn tỉnh hội là Quy Tuy. Cách 10 cây số về phía nam có mộ của Vương Chiêu Quân, người cung phi tuyệt đẹp của Hán Nguyên đế, được tiếng là "trầm ngư", một trong "tứ đại mỹ nhân" ở cổ Trung Hoa.
    Nơi đây có 3 tòa cổ miếu xây bằng đá và 4 tấm bia xoay mặt về hướng nam. Đó là mộ của nàng Chiêu Quân ở giữa; hai bên là mộ của 2 nữ tỳ đã cùng thác với nàng. Trên bia đá có khắc tên tuổi của ba người.
    Mộ của Chiêu Quân đặt ở dưới ngôi miếu giữa. Trên mộ bia có khắc mấy dòng chữ đã mờ vì thời gian "Vương Chiêu Quân chi mộ". Trên một tấm bia chót to hơn, có ghi qua sự tích của nàng kỳ nữ Chiêu Quân.
    Đây là cuộc đời của Chiêu Quân, vì lịnh vua, vì để làm một công việc hòa bình cho đất nước trong lúc vận nước suy đồi nên đem tấm thân liễu yếu đào tơ, vượt qua hai cửa ải Nhạn Môn và Đắc Thắng để sang cống Hồ.
    Chiêu Quân tên là Vương Tường quê ở Tùy Quy là một cung phi của vua Nguyên đế đời nhà Hán (48-53 trước D.L.). Lúc bấy giờ vua Hán có đến ba ngàn mỹ nữ cung phi nên không thế nào biết mặt cả thảy được. Vua truyền tên thị vệ Mao Diên Thọ bảo họa sĩ vẽ hình tất cả những cung phi để vua ngắm và chọn làm hậu cung khi cần thiết.
    Mao Diên Thọ được dịp "nước đục thả câu", ăn hối lộ của cung nhân. Hễ ai đút tiền thì truyền thần mặt xinh tươi, đẹp đẽ để dâng lên nhà vua. Cung nhân cũng nhờ đó mà hưởng được chút ơn mưa móc của quân vương, cho cuộc đời tài sắc của mình đỡ tẻ lạnh. Chiêu Quân đẹp hơn các cung phi khác nên không chịu đút lót tiền, lại còn xỉ vả nặng lời Diên Thọ. Do đó, khi cầm lấy bức ảnh Chiêu Quân, hắn lấy viết chấm dưới mắt ảnh nàng một chấm làm thành nốt ruồi. Rồi khi dâng tranh lên nhà vua, hắn lại xàm tấu cho rằng Chiêu Quân tuy đẹp nhưng vì có nốt ruồi mà sách tướng gọi là "thương phu trích lệ", đó là ruồi sát phu. Nhà vua nghe lời nên không đoái hoài đến nàng.
    Rợ Hung Nô bấy giờ đánh thắng nhà Hán. Chúa Hung Nô buộc Hán Nguyên dến phải cống phẩm vật và một cung phi tuyệt sắc mới chịu bãi binh. Trong tình thế nguy của nước nhà, Nguyên đế phải đồng ý.
    Vừa sợ việc làm bị bại lộ, vừa ghét Chiêu Quân nên Mao Diên Thọ mưu với bọn gian thần đem Chiêu Quân đi cống. Nguyên đế trước đã xem hình của Chiêu Quân nên bằng lòng đem nàng đi cống Hồ. Nhưng đến lúc Chiêu Quân vào triều bái để lên đường sang Phiên thì nhà vua mới trông thấy rõ mặt thật là một tuyệt thế giai nhân. Vua tức giận lắm, điều tra mới rõ mưu mô gian xảo của Diên Thọ, định đem trị tội. Thọ hay được trốn sang đầu hàng Hung Nô. Bây giờ sự thực đã rồi, không thể thay người khác được. Vì sứ giả đã nhận được mặt của Chiêu Quân.
    Thế là Chiêu Quân từ biệt xứ sở cố hương, tới ải biên thùy Nhạn Môn. Nỗi thương nhớ nước nhà, nỗi giận kẻ gian thần, xót xa phận bồ liễu, nàng xuống kiệu song loan hướng về quê hương cố quốc, gảy một bản đàn biệt ly. Giọng đàn bi ai thảm thiết, những kẻ theo đưa tiễn đều não lòng rỏ lệ. Cây cỏ bên đường cũng héo xào gục xuống mặt đất như để xớt thảm chia sầu...
    Chiêu quân chẳng những có sắc mà còn có tài đàn hay thơ giỏi. Nhìn một con chim lẻ cánh bạt gió về chiều, nàng xót xa cảm cho thân thế, cất tiếng ngâm:
    Cánh én cô đơn đượm tủi sầu,
    Ngang trời gió cuốn bạt về đâu?
    Quan san ngàn dặm vương thương nhớ,
    Hồ Hán từ đây cách biệt nhau.
    Và:
    Mây trắng trời trong gió ngạt ngào,
    Hồn hoa mờ mịt dưới trăng sao,
    Đêm đêm thổn thức, đêm đêm mộng,
    Có phải trời xanh cợt má đào.
    Và, khi mùa thu đến, nhìn mây thu, trời thu, sắc thu nhuộm úa lá vàng, dưới bầu trời ảm đạm lá vàng rơi lả tả, bài "Thu phong oán" của nàng còn truyền tụng do một tình cảm sâu đậm của một kỳ nữ vì nước ly hương:
    Thu mộc lê thê,
    Kỳ diệp nuy hoàng.
    Hữu điểu xử sơn,
    Tập ư bào tang.
    Dưỡng dục mao vũ.
    Hình dung sinh quang.
    Ký đắc thanh vân,
    Thượng du khúc phường.
    Ly cung tuyệt khoáng.
    Thân thế tồi tàn.
    Chí niệm ức chẩm,
    Bất đắc hiệt ngoan.
    Tuy đắc ẩm thực,
    Tâm hữu hồi hoàng.
    Y hà ngã độc,
    Vãng lai biến thường!
    Phiên phiên chi yến,
    Viễn tập Tây Khương,
    Cao sơn nga nga.
    Hà thủy ương ương
    Phụ hề mẫu hề.
    Đạo lý du trường.
    Ô hô ai tai
    Ưu tâm trắc thương!
    Thái Bạch dịch:
    Cành thu hiu hắt lá thu vàng,
    Trên đỉnh non cao, đó rõ ràng.
    Có một chim kìa hay đáo để,
    Ở ăn tự lúc mớ ra dàng.
    Ra dàng đã đủ cánh lông bay,
    Thấy rõ hình dung quý giá thay.
    Trên nóc lầu cao đá đổ xuống.
    Chín từng mây thẳm đã tung bay.
    Tung bay, nhưng khốn biết sao rầy;
    Sự thế than ôi, nỗi nước này!
    Nỗi nọ dường kia khôn tả xiết;
    Gan sầu ruột héo, ngỏ ai hay!
    Ai hay cho khúc đoạn trường này,
    Cho nỗi quan hoài ở chốn đây!
    Uống uống ăn ăn khôn đắp lại,
    Những hờn những oán, những sầu cay!
    Sầu cay riêng nghĩ xiết bàng hoàng,
    Biết đến bao giờ hận mới tan.
    Én nọ tung bay xập xòe cánh,
    Đường xa mấy mấy dặm quan san.
    Quan san thăm thẳm nỗi lòng đau,
    Biển rộng non cao chất tủi sầu.
    Vòi vọi đường xa muôn dặm cách,
    Mưa nắng sân Lai, xót dãi dầu!
    Dãi dầu ai hỡi thấu cho chăng?
    Lấp đặng cho ai những bất bằng.
    Những nhớ những thương tầy núi biển,
    Tình thu chan chứa hận sầu vương!
    Khi đến Lạc Nhạn đài bên sông Hắc Thủy, Chiêu Quân bắt được chim nhạn, liền viết thư buộc vào chân nhạn, rồi thả cho bay đi, mong nó mang tin về quê hương. Nhìn chiếc nhạn bay, nhìn dòng sông Hắc Thủy, nàng xót xa đau đớn, ngao ngán thở dài:
    Thủy hà sóng lạnh gió đìu hiu,
    Cánh nhạn lê thê giải nắng chiều.
    Thấp thoáng mây về nơi lữ thứ,
    Mơ màng một giấc mộng cô liêu.
    Ngâm thơ xong, nàng lao mình xuống sông Hắc Thủy. Cái chết trinh liệt của nàng khiến cho mọi người, kể cả chúa Hung Nô cũng ngậm ngùi thương tiếc, cảm phục người kỳ nữ nhà Hán. Nhứt là chúa Hung Nô tưởng là hoa nọ về tay, người mang tiếng là chúa của một nước rợ oai hùng sẽ được cùng người ngọc Trung Nguyên âu yếm, tận hưởng tất cả những khoái cảm của cuộc đời người, không ngờ mối hy vọng nay đã hoàn toàn tan vỡ.
    Văn thơ đời Hán và đời sau có nhiều bài nói về cuộc đời và ca tụng đức tính hy sinh cao khiết của Chiêu Quân. Đến đời nhà Tấn (265-419), Tấn chúa Tư Mã Chiêu đổi tên Chiêu Quân là Minh Phi. Thạch Sùng sáng tác khúc ca gọi là Vương Minh Quân. Có khúc cổ nhạc phủ được phổ biến ở Trung Hoa xưa gọi là khúc "Chiêu Quân oán", "Chiêu Quân cống Hồ".
    Tương truyền cỏ ở chung quanh đất nầy đều màu trắng, chỉ riêng cỏ mọc trên mộ Chiêu Quân màu đỏ, là giống màu cỏ ở Trung Nguyên mà thôi. Phải chăng đó là hồn thiêng của đất nước của người kỳ nữ đã hun đúc tạo thành một vật lạ lùng để tiếng muôn đời.
    Trong tác phẩm "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn tả khúc Kiều đánh đàn cho Kim Trọng nghe buổi sơ ngộ có câu:

    Quá quan này khúc Chiêu Quân,
    Nửa phần luyến chúa, nửa phần tư gia.

    Trong tác phẩm "Lục Vân Tiên" của cụ Nguyễn Đình Chiểu cũng có câu:

    Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,
    Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên.

    *: theo tư liệu khác, tứ đại mỹ nhân được mô tả theo 4 vẻ đẹp:Tây Thi "trầm ngư", Điêu Thuyền "nguyệt thẹn", Chiêu Quân "lạc nhạn" (vì chim nhạn thấy nàng đi cống Hồ, mải nhìn mà đâm vào đá(!?)), Dương quý phi(Dương Ngọc Hoàn) "hoa nhường". Mỗi vẻ đẹp đều có tích riêng. Tôi ghi thêm vào đây chứ phần này không có trong tác phẩm.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  5. #4
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Bạo chúa xem quỳnh hoa


    Đời nhà Tùy (587-617), ở Dương Châu thuộc huyện Giang Ninh, một phồn hoa đô hội nước Tàu, có ngôi chùa tên Dương Ly. Một đêm giữa lúc canh ba, ngoài chùa bỗng có ánh sáng lòe như lửa dậy. Trên không lại có tiếng nổ vang, rồi có một vật gì sa xuống như sao rơi, mùi thơm xông nên nực mũi.
    Người trong nhà mở cửa đổ ra xem.
    Gần bên giếng của chùa bỗng mọc lên một cây hoa lạ. Cây cao một trượng, trên ngọn có một đóa hoa ngũ sắc cực kỳ tươi đẹp. Trên hoa chia làm 18 cánh lớn, dưới có 24 cánh nhỏ. Người ta gọi là Quỳnh Hoa.
    Lúc bấy giờ có người tên Vương Thế Sung ở thành Lạc Dương, nguyên trước can án giết người nên chạy trốn đến chùa trú ngụ. Vương vốn biết vẽ, thấy thế mới lấy bút mực ra vẽ đóa hoa ấy.
    Vua nhà Tùy là Dương đế, nhân một đêm nằm mộng thấy hoa, nay được tin có hoa lạ trổ tại Dương Châu mới yết bảng nếu ai vẽ được đóa hoa ấy, đem dâng cho nhà vua thì sẽ được trọng thưởng. Vương Thế Sung mang bức tranh ấy đến dâng, được nhà vua tha tội giết người lại được phong chức Quỳnh Hoa thái thú.
    Chùa Dương Ly đổi thành chùa Quỳnh Hoa.
    Vì hoa trong tranh còn đẹp lộng lẫy, cố nhiên hoa thực còn đẹp gấp ngàn lần. Gợi lòng tò mò ham thích nên nhà vua định ngự giá ra Dương Châu xem hoa.
    Vốn đường đất từ Lạc Dương (kinh đô nhà Tùy) đến Dương Châu ở Giang Nam rất xa xôi, khó đi. Nhà vua cho đi xe giá nhọc nhằn nên truyền cho người đốc uất dân chúng lao dịch khai kinh bắc cầu từ Long Trì thẳng qua ải Trường Bình, thông với sông Huỳnh Hà cho đến Dương Châu để ngự thuyền rồng cho tiện. Đồng thời lại truyền cho người xây cất cung điện nơi ấy để nghỉ ngơi.
    Việc lực dịch quá gian lao, bọn quan lại tham tàn thừa nước đục thả câu càng bóc lột nhũng nhiễu dân chúng. Nhân dân cực khổ chết chóc, tiếng thán oán kêu khóc ngập trời. Vì dục vọng xem hoa mà làm khổ trăm họ. Nhưng nhà vua không nghĩ đến, lại ra lịnh cấp tốc hoàn thành công việc đào kinh trong vòng một tháng. Chậm trễ hoa sẽ tàn mất. Đàn ông cung cấp không đủ thì đàn bà cũng bị bắt đi làm. Sử chép: đào con kinh ấy lao dịch có đến một triệu dân phu. Cung phi, mỹ nữ, ngự binh, cước điện (người kéo thuyền) có đến 80 ngàn người. Dân chúng trong vòng 500 dặm dọc theo kinh phải mang thức ăn cung phụng cho đoàn du hành quý phái ấy.
    Nhưng khi thuyền rồng ngự đến Dương Châu và chuẩn bị ngày mai Tùy đế xe giá đến xem thì khuya hôm ấy, mưa gió đầy trời, hoa thần rụng mất.
    Vì đây là thần hoa, hiện ra không phải để cho bạo chúa xem mà là để cho nhân dân và chơn chúa xem; đồng thời để chỉ rõ sự diệt vong của nhà Tùy. Mười tám cánh trên của hoa biểu hiệu 18 vị phản vương, 24 cánh nhỏ dưới biểu hiệu 24 trấn khởi loạn chống lại Tùy đế. Và, cơ nghiệp nhà Tùy sẽ chuyển sang nhà Đường do con của vị đại thần Lý Uyên là Lý Thế Dân khai sáng, đánh bại 18 phản vương và dẹp yên 24 trấn, thống nhứt lãnh thổ. Đó là một chơn chúa.
    Vì vậy, trong khi lãnh sứ mạng bảo giá Tùy đế ra Dương Châu, Lý Thế Dân đến chùa trông nom lính dọn dẹp, chuẩn bị cho ngày mai Tùy đế đến xem, Thế Dân thừa dịp đến xem hoa trước. Quỳnh hoa nhún lên xuống ba lần như đón chào. Rồi ngay đêm hôm ấy, sau một cơn mưa to, hoa tàn rụng. Mộng xem hoa của tên bạo chúa tan vỡ. Dục vọng ngông cuồng của nhà vua đã làm cho hàng vạn sinh linh điêu đứng, chết chóc, lầm than!
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  6. #5
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Đàn ông làm hoàng hậu, trai đẹp làm cung nga


    Vua Lý Thái Tông (627-649) là Lý Thế Dân đời nhà Đường, năm Đinh Dậu chỉ truyền kén chọn gái xinh. Có quan thứ sử đất Kinh Châu kén được một nàng tên Võ Mị Nương nên trang quốc sắc, đáng giá khuynh thành. Nghĩ rằng: "Nếu để tên Mị Nương, sau vào cung thì khó xưng làm nương nương", bèn cải tên nàng lại là Võ Minh Không đem dâng lên cho nhà vua.
    Thái Tông trông thấy cả đẹp, phong làm Tài Nhơn, nên gọi là Võ Tài Nhơn.
    Võ Tài Nhơn vốn là một tuyệt thế giai nhân, lại hay chữ nhưng rất đa dâm. Vua Thái Tông bấy giờ đã già, không đủ sức bù đắp lại được lòng xuân phơi phới đương chuyển động mạnh trong các sớ thịt đường gân của con người nàng. Nhân Thái Tông phải bịnh, nằm tại cung của Võ Tài Nhơn, đông cung thái tử là Lý Trị vào thăm. Thấy Võ Tài Nhơn thật một trang quốc sắt thì bắt động lòng nên thỉnh thoảng liếc mắt đưa tình.
    Lạ gì gái đẹp thường tình, thái tử người đương trẻ tuổi, thật xứng đôi vừa lứa, đồng sức, đồng tài nên Tài Nhơn cũng đưa mắt tống tình đáp lại. Thái tử Lý Trị hớn hở, lòng nở đầy hoa nhưng không có dịp tỏ nỗi lòng, liền giả đi tiểu tiện.
    Võ Tài Nhơn liền lấy bồn vàng đựng nước, quỳ xuống dâng lên cho thái tử rửa tay. Nhân dịp Lý Trị liền rảy nước trên mặt Tài Nhơn, cất tiếng ngâm nhỏ hai câu:
    Mơ tưởng Vu Sơn biết mấy lần,
    Dương đài cách trở khó toan gần.
    Tài Nhơn hiểu ý thái tử nên mỉm cười ngâm tiếp:
    Tuy chưa vầy cuộc phong vân hội,
    Song đã được nhờ võ lộ ân.
    Lý Trị mừng rỡ nghĩ:
    - Nàng này quả thật tài sắc gồm đủ, rất đẹp lòng ta.
    Đoạn, bạo dạn đưa tay đỡ Tài Nhơn dậy rồi cùng dắt nhau đến chỗ vắng vẻ tư tình. Nàng bỗng rơi lệ, nói:
    - Từ ngày thiếp chầu hoàng thượng vẫn được yêu vì, nay may mắn được điện hạ tỏ lòng thương hương mến ngọc, nhưng biết về sau, khi điện hạ lên ngôi rồi có còn đoái tưởng đến tấm thân bồ liễu này chăng?
    Lý Trị nói:
    - Ngày sau ta lên ngôi sẽ phong nàng làm chánh hậu.
    Võ Tài Nhơn mừng rỡ nói:
    - Xin điện hạ hãy cho thiếp một vật để làm tin.
    Lý Trị liền cởi chiếc nhẫn co chạm chín con rồng trao cho Tài Nhơn.
    Lúc bấy giờ có quan Tư thiên giám xem thiên văn, tiên đoán nhà Đường sau bị nữ chúa họ Võ chuyên quyền nên yêu cầu nhà vua phải trừ trước để dứt hậu hoạn. Vua không tin, nhưng chiều ý quan Tư thiên giám nên cho Võ Tài Nhơn ra ở chùa Hưng Long mà tu hành, suốt đời không được cải giá.
    Lý Trị thương nhớ Tài Nhơn, lén cho người đến chùa dặn nàng đừng xuống tóc, chờ ngày triệu vào cung.
    Tài Nhơn vốn hiếu dâm, ăn quen nhịn không quen. Cảnh chùa lại thanh vắng. Ngày ngày chẳng làm gì khiến lòng xuân càng bồng bột. Nàng mưu cùng mụ vãi già làm mối để được tư thông cùng lão thày sãi ở chùa Bạch Mã cho cuộc đời đỡ lạnh, đỡ khát, đỡ thèm.
    Chẳng bao lâu vua Thái Tông phát bịnh thăng hà, Lý Trị lên ngôi xưng hiệu Cao Tông, truyền đem xe giá lên chùa rước Võ Tài Nhơn về, phong làm Chiêu Nghi, cải tên là Võ Tắc Thiên. Rồi nàng được phong làm hoàng hậu.
    Cao Tông ở ngôi được 34 năm, vì té bị trọng thương mà chết. Võ Tắc Thiên dùng mưu lập kế phế con. Cuối cùng lên ngôi hoàng đế, xưng hiệu Tắc Thiên hoàng đế, đổi quốc hiệu là Đại Chu.
    Làm vua tất phải có hoàng hậu, Võ Tắc Thiên liền lập hai người đàn ông là Trương Xương, tôn làm chánh hậu, Trương Diệc Chi làm thứ hậu. Đây là hai người chồng trẻ đẹp lực lưỡng của nhà vua. Lại truyền chỉ kén chọn con trai xinh đẹp làm cung nga, còn cung phi mỹ nữ trước kia nay trở thành vô dụng nên đều được cho về xứ sở.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  7. #6
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Giang thần trảo trảo


    Năm Nhâm thân (1572), nhà Mạc sai tướng là quận công Lập Bạo đem quân đánh Thuận Quảng là đất chúa Nguyễn ở miền Nam. Lập Bạo huy động cả thảy lục quân tiến vào. Thủy quân gồm có 60 chiến thuyền do cửa Việt đổ vào sông; lục quân độ 1000 người khởi hành từ Khang Lộc (giữa Quảng Bình) theo con đường Hồ Xá (con đường đại lộ số 1 bây giờ) tiến đến chùa Thanh Tướng thuôc. làng La Nguyễn hạ trại. Chỉ còn cách xã Ái Tử, nơi Nguyễn Hoàng đóng binh chừng vài chục dặm.
    Quân của Lập Bạo đi đến đâu là tàn phá nhà cửa ruộng vườn xơ xác đến đấy. Tài sản bị cướp đoạt, già trẻ trai gái bị giết chóc rất bi thảm. Thế lực của chúa Nguyễn bấy giờ còn yếu. Trước lực lượng quá hung bạo của địch, Nguyễn Hoàng rất lấy làm lo, chưa tìm được cách gì để phá địch.
    Tương truyền, một đêm, Nguyễn Hoàng đương ngủ, chợt nghe như có tiếng kêu "trảo trảo" ở trên sông. Giựt mình thức dậy, chúa khấn rằng:
    - Nếu giang thần có quyền lực vô biên xin hãy giúp tôi kháng giặc.
    Ngay đêm đó, trong giấc mơ, chúa Nguyễn thấy một thiếu nữ mặc áo xanh hiện đến, bảo rằng:
    - Nếu tướng công muốn giết giặc phải dùng kế mỹ nhân để dụ nó đến đồi Cát, kẻ tiện tỳ này xin giúp sức.
    Đoạn nàng từ giã biến mất.
    Nguyễn Hoàng tỉnh dậy, nhớ lời dặn, chọn người đẹp thân tín để thực hành kế hoạch. Lúc bấy giờ ở làng Thế Lại, huyện Hương Trà có nàng thanh nữ diễm lệ tên Ngọc Lâm được Nguyễn Hoàng chọn giao cho công tác ấy. Vì muốn chống giặc, Ngọc Lâm đành phải hy sinh. Chúa Nguyễn liền đưa Ngọc Lâm cùng vàng bạc gấm lụa sang dinh Mạc xin cầu hòa, hẹn uống máu ăn thề, kết nghĩa đồng minh với nhau.
    Lập Bạo vốn người hiếu sắc, nghe giọng oanh thỏ thẻ của Ngọc Lâm rót vào tai nên rất tin lời Nguyễn Hoàng là thật. Hơn nữa, Bạo biết giữa Nguyễn và Trịnh vốn có mối thù bất cộng đái thiên, cho rằng Nguyễn muốn kết đồng minh với Mạc để đánh Trịnh nên Bạo mừng rỡ nhận lời chúa Nguyễn và đến ngay chỗ hẹn.
    Nhờ Ngọc Lâm báo trước nên chúa Nguyễn cho người thiết lập một cái gò ngay bên bờ sông, chờ nghe thấy tiếng nước để làm nơi tế lễ và ăn thề.
    Lập Bạo cùng đi với nàng Ngọc Lâm trên một chiếc thuyền nhỏ, bên cạnh có vài chiếc khác hộ vệ. Tuy vậy, Bạo vẫn còn ngờ, liếc mắt xem chừng đối phương có động tịnh gì không. Nhưng chỉ thấy Nguyễn Hoàng cùng vài người tùy tùng không võ khí, đứng trên bờ đưa tay vẫy. Bạo yên lòng, dưới thuyền bước lên tiến thẳng đến chỗ của đàn lễ. Nhưng vừa đến nơi thì thốt nhiên, quân Nguyễn đã núp sẵn dưới hố, đồng loạt nhảy lên xông vào bắt. Lập Bạo và bọn tùy tùng khiếp đảm vội chạy xuống thuyền.
    Nhưng thuyền đã xa bờ quá rồi, Bạo vội vàng nhảy xuống sông. Chưa kịp lặn trốn thì đã bị quân Nguyễn đổ đến, rồi cả hàng chục cây giáo đâm bổ xuống. Máu tuôn đỏ trên mặt sông. Xác Bạo chìm luôn dưới đáy nước. Không để mất cơ hội, Nguyễn huy động quân lính tiến đến chùa Thanh Tướng tiêu diệt cả toán quân Mạc đóng ở đấy.
    Những quân còn sống sót vội đổ xuống thuyền, tìm đường tẩu thoát. Bấy giờ vào tháng 10, gió bấc thổi mạnh. Thuyền bè không thể nào ra khơi cửa Việt khi có gió bấc nên chiến thuyền của Mạc vỡ lung tung. Những kẻ thoát chết đuối đều về hàng Nguyễn cả.
    Quân Nguyễn đại thắng. Chúa Nguyễn trọng thưởng Ngọc Lâm và chọn hàng quan lại, gả Ngọc Lâm cho một kẻ xứng đôi vừa lứa với nàng. Lại truyền lập đền thờ vị giang thần đã báo mộng giúp mình bên khúc sông đó gọi là miếu "Giang thần Trảo Trảo".
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Các Chủ đề tương tự

  1. Trả lời: 5
    Bài viết cuối: 17-05-2009, 07:14 PM
  2. Mở lại Box Tuyển dụng - Tuyển Mod cho các Box chưa có Mod
    Bởi M.Com trong diễn đàn Tuyển dụng
    Trả lời: 22
    Bài viết cuối: 23-08-2008, 06:26 PM
  3. Những Tai Nạn ..... Không Thể Hiểu Nổi
    Bởi Ji Eun Gun trong diễn đàn Góc hài hước
    Trả lời: 14
    Bài viết cuối: 05-08-2008, 01:44 AM
  4. Trả lời: 25
    Bài viết cuối: 05-10-2007, 09:00 PM
  5. Sanblock feat sandy (chuyenhvt.net ko ai biết nghe thể loại nhạc này ah)
    Bởi X8ThieuGia8X trong diễn đàn Nhạc quốc tế
    Trả lời: 7
    Bài viết cuối: 30-08-2007, 03:25 PM

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •