TuyÊn NgÔn ĐỘc LẬp 1776" CỦa HỢp ChỦng QuỐc Hoa KÌ:
văn kiện lịch sử của nhân dân Mĩ trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Anh giành độc lập và thành lập nhà nước Hợp chủng quốc do Oasinhtơn (G. Washington) công bố ngày 4.7.1776. Từ 1774 - 75, nhân dân Bắc Mĩ đã tiến hành tổ chức 2 lần Hội nghị lục địa nhằm phát động cuộc chiến tranh chống chính sách thuộc địa tàn khốc của Anh. Chủ trương đấu tranh giành độc lập được các đại biểu Ađam (J. Adams), Li (R. H. Lee) đề nghị trong Hội nghị lục địa lần II (10.5.1775) và được hội nghị chấp thuận. Một Uỷ ban 5 người đứng đầu là Jefơxơn (T. Jefferson) được giao soạn thảo tuyên ngôn. Nội dung cơ bản của tuyên ngôn là khẳng định quyền con người và quyền tự do dân chủ của công dân, quyền thiết lập chính quyền và huỷ bỏ chính quyền (khi nó đi ngược lại quyền lợi của quần chúng) đều và chỉ thuộc về nhân dân. Tuyên ngôn lên án mạnh mẽ chế độ cai trị của nhà vua Anh, khẳng định quyền độc lập của các quốc gia ở Bắc Mĩ, quyền tự do gia nhập các liên minh. Mặc dù còn một số hạn chế (không có điều khoản thủ tiêu chế độ nô lệ), "TNĐL 1776" CHCQHK là một văn kiện lịch sử đánh dấu quá trình ra đời của Nhà nước Hợp chủng Quốc Hoa Kì. Ngày 3.9.1783, sau những thất bại liên tiếp trên chiến trường, Chính phủ Anh phải kí với Hoa Kì "Hiệp ước Vecxay" công nhận nền độc lập của 13 thuộc địa cũ của Anh ở Bắc Mĩ.
Ảnh hưởng Bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ trên thế giới
Ngày 4 tháng 7 năm 1776, 57 dân biểu của 13 tiểu bang thuộc địa vương quốc Anh tại Bắc Mỹ đã hội họp Đại Hội tại Đại Sảnh Độc Lập, thành phố Philadelphia để đồng ký tên vào bản Tuyên Ngôn Độc Lập, đoạn tuyệt với triều đình nước Anh. Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ với lá cờ 13 ngôi sao trắng trên nền xanh và 13 vạch gồm 7 vạch đỏ, 6 vạch trắng đã ra đời. Và cũng từ đó, đã 231 lần, ngày 4 tháng 7 là ngày Lễ Độc Lập, ngày Quốc Khánh của Hoa Kỳ. Thiết tưởng, nhân ngày lễ lớn của Hoa Kỳ, cũng nên tìm hiểu về ý nghĩa cũng như ảnh hưởng của bản Tuyên Ngôn Độc Lập này không những trên đất nước Mỹ mà còn trên toàn thế giới từ ngày nó ra đời cho đến ngày hôm nay.
Nói đến Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ, người ta không thể không nhắc đến một nhân vật mà tên tuổi đã gắn liền với bản Tuyên Ngôn lịch sử này. Đó là ông Thomas Jefferson, vị Tổng Thống thứ Ba của nước Mỹ. Vào năm 1776, ông Jefferson 34 tuổi và là dân biểu Quốc Hội tiểu bang Virginia. Lúc đó Phong trào giải thực tại Tân Thế Giới đang lên cao, cuộc chiến tranh giữa các tiểu bang thuộc địa chống lại quân đội hoàng gia Anh bắt đầu từ năm 1775, đang ở vào giai đoạn khốc liệt. Ý chí đoạn tuyệt với mẫu quốc, giành độc lập đang phổ quát trong mọi tầng lớp quần chúng, sôi sục oán hận vì sưu cao thuế nặng do triều đình nước Anh giáng xuống các thuộc địa Mỹ Châu. Các tiểu bang thuộc địa đã giao cho một ủy ban gồm 5 vị đại biểu soạn bản dự thảo Tuyên Ngôn Độc Lập trước khi đưa ra Đại Hội duyệt xét biểu quyết. Ủy ban này mệnh danh là "Ủy Ban 5 Người", trong đó có Thomas Jefferson. Tiếng là bản dự thảo do 5 người biên soạn, nhưng thực chất Thomas Jefferson mới là người chính thủ bút. Ông hoàn tất bản thảo ngày 21/06/1776, đệ trình Ủy Ban và đưa ra Đại Hội liên bang thông qua ngày 4/7/1776.
Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ được viết tay trên giấy da và mang chữ ký của 57 vị đại biểu của 13 tiểu bang đầu tiên của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Ý chính của bản văn là Tự Do. Không phải là tự do chung chung, tự do tập thể mà là quyền Tự Do Cá Nhân. Tư tưởng này đã được nêu lên một cách trang trọng ngay trong phần dẫn nhập. Bản văn viết: "Những Chân Lý sau đây đã được chúng tôi công nhận như lẽ đương nhiên: Tất cả mọi con người đã được dựng nên bình đẳng; (họ) đã được Tạo Hóa ban cho những quyền bất khả xâm phạm; trong những quyền đó có quyền sinh sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Ý tưởng thứ nhì mang tính quan trọng nòng cốt trong bản văn là tư tưởng chống độc tài, tàn ác. Và để bảo vệ các quyền tối thượng của con người, thể theo nguyện vọng của toàn dân, các thuộc địa Anh tại Châu Mỹ long trọng tuyên bố trở thành những tiểu bang Tự Do và Độc Lập. Tuy rằng nền độc lập của Hoa Kỳ chỉ được chính thức công nhận vào năm 1783 với Hiệp Định Paris, các sử gia đã đồng ý, đây là bản Tuyên Ngôn Độc Lập của quốc gia thuộc địa đầu tiên trên thế giới thoát ách cai trị thực dân.
Các nội dung trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ đã trở thành tài liệu gợi ý cho nhiều quốc gia trên thế giới. Người ta thường nhắc tới Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền và Dân Quyền của Pháp sau cuộc Cách Mạng 1789. Các sử gia đã chứng minh rằng cả văn bản này cũng lấy ý từ bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ. Từ đó, một cách trực tiếp hay gián tiếp, những tư tưởng về Tự Do căn bản của con người đã được phổ quát trên trái đất này. Tuy không sao chép nguyên văn bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ, nhiều quốc gia đã dựa trên những tư tưởng này để xây dựng cho đất nước mình một nền dân chủ tôn trọng mọi Nhân Quyền của người dân. Nhưng cũng có những nước, đặc biệt là CSVN, Hồ Chí Minh dùng những câu cú nguyên văn của bản tuyên ngôn của Hoa Kỳ để dẫn nhập cho bản Tuyên Ngôn Độc Lập 1945 của Việt Nam, nhưng lại không tôn trọng những quyền tự do căn bản của người dân Việt Nam.
Nhân chuyến công du Hoa Kỳ của Nguyễn Minh Triết, chủ tịch nước CSVN, ký giả Mike Benge trên tờ Washington Times điện tử ngày 1/7/2007 vừa qua, đã viết rằng "Ông Thomas Jefferson có thể đã phải lật sấp trong mồ khi biết rằng Hồ Chí Minh đã lợi dụng những lời bất tử của mình để làm phần mở đầu Tuyên Ngôn Độc Lập của Việt Nam...". Ông cho rằng từ ông Hồ Chí Minh đến ông Nguyễn Minh Triết đều là những kẻ đại gian dối, đại bịp khi viết rằng con người Việt Nam có quyền sinh sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc; nhưng lại áp dụng chính sách độc tài, hôn quân, bạo chúa, chà đạp Nhân Quyền tại Việt Nam. Hồ Chí Minh chỉ sao chép câu nói bất tử của Thomas Jefferson, nhưng ông ta không dám chép câu tiếp theo sau là: "Các chính phủ, do chính những con người thiết lập để bảo đảm những quyền đó, và quyền hành chính đáng của các chính phủ này xuất phát từ sự chấp nhận của nhân dân. Bất cứ hình thức chính phủ nào trở nên phá hoại đối với mục đích đó, nhân dân có quyền thay thế nó, có quyền hủy bỏ nó và thiết lập một chính phủ mới...". Hồ Chí Minh cũng như những người CSVN kế vị ông không hề chấp nhận tư tưởng Dân Chủ này. Vì thế họ luôn đàn áp những người tranh đấu đòi Dân Chủ.
Nói theo ký giả Mike Benge theo kiểu Việt Nam là CSVN "treo đầu dê, bán thịt chó". Hành động này, dân ta từ ngàn xưa cũng đã kết án và khinh bỉ vì đây là hành động gian dối không thể chấp nhận được.
Diễn văn Thuyết trình về dân chủ
Diễn Văn Thuyết Trình Về Dân Chủ Của Tổng Thống George W. Bush đọc tại Praha Ngày 5-6-2007 Nhân Chuyến Ghé Thăm Cộng Hòa Czech Ngày 5 tháng 6, 2007
Tổng thống Bush: Kính thưa Tổng Thống IIves, Bộ Trưỏng Ngoại Giao Schwarzenberg và qúy khách danh dự:
Laura và tôi rất vui khi được trở lại Prague, và chúng tôi tri ân sự chào mừng nồng hậu của qúy vị tại sảnh đường lịch sử này. Ngày mai, tôi sẽ tham dự Thượng Định G-8, nơi mà tôi sẽ gặp gỡ các nhà lãnh đạo của những nền kinh tế hùng mạnh nhất thế giới. Trưa ngày hôm nay, tôi đang đứng cùng những con người là đại diện cho một sức mạnh còn vĩ đại hơn - đó là sức mạnh của lương tri.
Trong sảnh đường này có sự hiện diện của những nhà đối kháng và hoạt động dân chủ từ 17 quốc gia khắp năm châu. Qúy vị có những truyền thống khác biệt, có niềm tin tôn giáo khác nhau, và phải đương đầu với những thử thách khác nhau. Nhưng qúy vị đã đoàn kết trong một niềm tin vững chắc rằng: tự do là quyền bất khả thương lượng của mỗi con người, và con đường dẫn đến một nền hòa bình vững bền trong thế giới của chúng ta con đường giải phóng.
Hội nghị này là do sáng kiến của ba nhà hoạt động cho tự do nổi tiếng trong thời đại của chúng ta: Jose Maria Aznar, Vaclav Havel, và Natan Sharansky. Tôi cám ơn họ đã mời tôi đến nói chuyện với một cử tọa đáng ngưỡng mộ, và tôi cám ơn họ vì đã chứng minh cho thế giới thấy rằng một cá nhân có đạo đức và dũng cảm có thể thay đổi tiến trình của lịch sử.
Thật là xứng đáng khi chúng ta tụ họp tại Cộng Hòa Czech - trái tim của Âu Châu và cuộc tranh đấu vì tự do tại lục địa này. Chín thập niên trước đây, Tomas Masaryk đã công bố nền độc lập của Czechoslovakia dựa trên "lý tưởng dân chủ hiện đại." Nền dân chủ đó đã bị ngắt quãng, đầu tiên là bởi chế độ Nazis, và kế đến là Cộng Sản đã cướp chính quyền trong một cuộc đảo chánh đáng xấu hổ dẫn đến cái chết của Bộ Trưởng Ngoại Giao ngay tại sân của sảnh đường này.
Xuyên qua sự chiếm đóng kéo dài trong tăm tối của Soviet, thể diện thực sự của quốc gia này đã không bao giờ bị ngờ vực. Thế giới đã mục kích thể diện đó trong cuộc cải cách Mùa Xuân Prague và những yêu sách hợp lý của Hiến Chương 77. Những nỗ lực này đã được đáp trả với xe tăng, dùi cui, và sự bắt bớ của mật vụ. Nhưng bạo lực đã không thể có tiếng nói sau cùng. Năm 1989, hằng ngàn người đã tụ họp tại Quảng Trường Wenceslas đòi tự do. Những nhà hát như Magic Lantern đã trở thành bộ chỉ huy của những nhà đối kháng. Công nhân đã rời bỏ xưởng để ủng hộ cuộc đình công. Chỉ trong vài tuần lễ, chế độ đã sụp đổ. Từ một tù nhân, Vaclav Havel đã trở thành lãnh đạo quốc gia. Và dân tộc Czechoslovakia đã giựt sập Bức Màn Sắt bằng cuộc Cách Mạng Nhung.
Khắp Âu Châu, bối cảnh tương tự cũng đang xảy ra. Tại Ba Lan, một phong trào khởi xướng từ một xưởng đóng tàu đã giải phóng cả một quốc gia. Tại Hungary, nhiều người đã tụ tập tại Quảng Trường Anh Hùng để tiễn đưa một nhà cải cách đã bị giết- và đồng thời chôn luôn cả chế độ Cộng Sản. Tại Đông Đức, nhiều gia đình đã tụ tập để cầu nguyện - và họ đã tìm thấy sức mạnh để kéo sập một bức tường. Chẳng bao lâu sau, các nhà tranh đấu đã xuất hiện từ những gác xép và hầm nhà thờ để giành lại chủ quyền trên những con đường của Bulgaria, Romania, Albania, Latvia, Lithuania, và Estonia. Hiệp Ước Warsaw đã bị tan rã một cách ôn hòa ngay tại sảnh đường này. Và sau bảy thập niên đàn áp, Liên Bang Soviet đã không còn tồn tại.
Sau những thành quả đầy kinh ngạc này là sự chiến thắng của tự do trong cuộc chiến tư tưởng. Người cộng sản có ý thức hệ đế quốc mà họ tự nhận biết rõ hướng đi của lịch sử. Nhưng sau cùng, nó đã bị khuất phục bởi những con người bình thường muốn sống cuộc đời theo ý của họ, muốn thờ phượng Thượng Đế của họ, và muốn nói sự thật với con cái của họ. Người cộng sản có sự cai trị tàn khốc của Brezhnev, Honecker, và Ceausescu. Nhưng sau cùng, nó đã thua xa tầm nhìn của Walesa và Havel, thua xa sự dũng cảm của Sakharov và Sharansky, thua xa quyết tâm của Reagan và Thatcher, thua xa sự vô úy của (Đức Giáo Hoàng) John Paul. Từ kinh nghiệm này, một bài học rõ ràng đã xuất hiện: Tự Do có thể bị kháng cự hoặc trì hoãn, nhưng Tự Do không thể bị từ chối.
Từ ngày được giải phóng, những quốc gia Trung và Đông Âu đã trải qua nhiều khó khăn trên bước đường chuyển tiếp qua nền dân chủ. Lãnh đạo các quốc gia này đã phải tiến hành những cải cách khó khăn cần thiết để gia nhập NATO và Liên Âu. Người dân đã giành lại tự do trong vùng Balkans và xa hơn. Hiện nay, sau nhiều thế kỷ của chiến tranh và đau khổ, Âu Châu cuối cùng đã được an hưỏng hòa bình.
Thời đại mới đã mang lại những mối đe doạ mới cho tự do. Ở những góc tối tăm và bị ức chế của thế giới, nhiều thế hệ đang lớn lên không có tiếng nói đối với chính quyền của họ và không có hy vọng gì ở tương lai. Cuộc sống bị ức chế tạo nên sự hận thù, và đối với nhiều người, sự hận thù biến thành chủ nghĩa giáo điều, cực đoan và bạo động. Thế giới đã chứng kiến hậu quả ngày 11 tháng 9 năm 2001, khi khủng bố có căn cứ tại Afghanistan đã gửi 19 kẻ quyết tử để giết gần ba ngàn người vô tội tại Hoa Kỳ.
Một số người quan niệm chỉ nên phản ứng trong phạm vi nhỏ đối với cuộc tấn công này. Trên thực tế, vụ khủng bố 9/11 là bằng chứng của mối nguy hiểm rộng lớn hơn nhiều - đó là một phong trào Hồi Giáo bạo động quốc tế đang đe dọa con người ở khắp mọi nơi. Tham vọng của những người cực đoan là xây dựng một đế quốc độc tài bao phủ lãnh địa Hồi Giáo hiện nay và trước đây, bao gồm một phần của Âu Châu. Chiến lược của họ để đạt được mục tiêu là làm cho cả thế giới sợ hãi tới độ phải đầu hàng họ bằng cách tiến hành những chiến dịch khủng bố giết người tàn bạo.
Để đối phó với kẻ thù này, Hoa Kỳ và đồng minh đã tấn công với lực lượng quân đội, tình báo và cảnh sát. Tuy nhiên, trận chiến này không chỉ là một cuộc xung đột quân sự. Như thời Chiến Tranh Lạnh, nó là một cuộc chiến ý thức hệ giữa hai quan điểm hoàn toàn khác nhau về nhân loại. Một bên là những thành phần cực đoan hứa hẹn thiên đàng, nhưng thực hành lối sống đánh đập công khai, đàn áp phụ nữ và nổ bom tự sát. Bên kia là đại đa số những người trung dung - kể cả hằng triệu tín hữu Hồi Giáo - với niềm tin rằng đời sống mỗi người đều có nhân phẩm và giá trị mà không một thế lực nào trên trái đất có thể lấy đi.
Vũ khí mạnh nhất trong công cuộc chống lại chủ nghĩa cực đoan không phải là đạn hay bom - mà là lời kêu gọi toàn cầu cho tự do. Tự Do là thiết kế của Tạo Hóa, và là khát vọng của mọi tâm hồn. Tự do là cách tốt nhất để phát huy sự sáng tạo và tiềm năng kinh tế của một quốc gia. Tự do là trật tự xã hội duy nhất dẫn đến công lý. Và tự do của con người là cách duy nhất để đạt tới nhân quyền.
Mở rộng tự do không chỉ là điều bắt buộc của luân lý - nó là con đường thực tế duy nhất để bảo vệ người dân lâu dài. Nhiều năm về trước, Andrei Sakharov đã từng cảnh báo rằng quốc gia nào không tôn trọng quyền của công dân mình thì quốc gia đó sẽ không bao giờ tôn trọng quyền của những quốc gia lân bang. Lịch sử đã chứng minh rằng Andrei Sakharov nói đúng. Những quốc gia có trách nhiệm với nhân dân của mình không tấn công lẫn nhau. Dân chủ giải quyết các vấn đề bằng phương thức chính trị thay vì đổ lỗi cho những con dê tế thần bên ngoài. Khi người trẻ có thể bất đồng ý kiến với lãnh đạo công khai sẽ ít có khuynh hướng theo chủ thuyết bạo động. Những quốc gia tôn trọng tự do của công dân của họ sẽ không ủng hộ những thành phần cực đoan - họ sẽ liên kết để đánh bại khủng bố.
Vì tất cả những lý do này, Hoa Kỳ cam kết phát huy tự do và dân chủ như là phương cách để loại trừ cực đoan và đàn áp. Và chúng ta có một mục tiêu mang tính chất lịch sử trước mặt. Trong diễn văn đăng quang nhiệm kỳ hai, tôi đã thề là Hoa Kỳ sẽ đạt tới mục tiêu tối hậu là tiêu diệt độc tài trên thế giới. Có người cho rằng việc làm này khiến tôi đủ tiêu chuẩn để trở thành "tổng thống đối kháng". Nếu tranh đấu vì tự do trên thế giới khiến tôi trở thành nhà đối kháng, tôi hãnh diện được mang danh hiệu này.
Hoa Kỳ theo đuổi nghị trình tự do bằng nhiều cách - có cách công khai và có thể nhìn thấy rõ, có cách im lặng không mục kích được. Chấm dứt khủng bố đòi hỏi sự hỗ trợ đối với những lực lượng của lương tâm để phá hủy từ ngay trong lòng những chế độ đang trấn áp xã hội. Nhà đối kháng Soviet Andrei Amalrik so sánh một quốc gia độc tài như là một người lính luôn luôn chĩa súng về phía kẻ thù - cho đến khi mỏi tay và tù nhân trốn thoát. Mục tiêu của thế giới tự do là tạo áp lực lên cánh tay của những nhà độc tài trên thế giới - và tăng cường sức mạnh cho những tù nhân đang cố gắng đẩy nhanh sự sụp đổ của độc tài.
Vì vậy tôi đã đích thân gặp gỡ những nhà đối kháng và hoạt động dân chủ từ những quốc gia độc tài nhất bao gồm Belarus, Burma, Cuba, Bắc Hàn, Sudan và Zimbabwe. Tại hội nghị này, tôi mong muốn được gặp những nhà đối kháng khác từ Iran và Syria. Một trong những nhà đối kháng là Mamoun Homsi. Trong năm 2001, ông là thành viên độc lập của quốc hội Syria đã công bố một tuyên ngôn đòi hỏi chính quyền phải tôn trọng nhân quyền. Vì hành động ôn hòa này, ông đã bị bắt và bị cầm tù nhiều năm cùng với những nhà tranh đấu khác cho một Syria tự do.
Một nhà đối kháng khác mà tôi sẽ gặp tại đây là Rebiyah Kadeer từ Trung Hoa, những người con trai của bà đã bị cầm tù, mà theo chúng tôi nghĩ, là để trả thù những hoạt động tranh đấu cho nhân quyền của bà. Những tài năng như Rebiyah là tài nguyên lớn lao nhất của quốc gia họ, có giá trị hơn gấp nhiều lần những vũ khí của quân đội hoặc dầu hòa dưới lòng đất. Hoa Kỳ kêu gọi những quốc gia đang bóp nghẹt đối kháng hãy chấm dứt đàn áp, hãy tin tưởng người dân, và tôn trọng quyền tự do mà công dân của họ xứng đáng được hưởng.