Chào các bạn,

ChuyenHVT.net thành lập 2005 - Nơi lưu trữ rất nhiều kỉ niệm của các thế hệ học sinh trong hơn 15 năm qua. Tuy chúng mình đã dừng hoạt động được nhiều năm rồi. Và hiện nay diễn đàn chỉ đăng nhập và post bài từ các tài khoản cũ (không cho phép các tài khoản mới đăng ký mới hoạc động). Nhưng chúng mình mong ChuyenHVT.net sẽ là nơi lưu giữ một phần kỉ niệm thanh xuân đẹp nhất của các bạn.


M.

Kết quả 1 đến 11 của 11

Chủ đề: Thiên Long Bát Bộ

Threaded View

  1. #7
    Thành viên gắn bó
    Ngày tham gia
    25-09-2007
    Bài viết
    2,379
    Cảm ơn
    315
    Đã được cảm ơn 849 lần ở 589 bài viết

    Mặc định

    Hồi 30: Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa

    Vương phu nhân nói:

    - Gã này vô lễ. Trước hết chặt chân gã rồi sẽ móc mắt và cắt lưỡi gã đi.

    Một ả thị nữ cao lớn, nước da ngăm ngăm khom lưng đáp:

    - Xin vâng!

    Đoàn Dự lo thầm: "Họ làm thế này thì giết mình đi còn hơn". Đằng này họ chặt chân, móc mắt, cắt lưỡi, sống không sống được, chết chẳng chết cho, cái đó mới thực khổ cho mình". Đến bây giờ chàng quả thấy trong lòng sợ hãi. chàng quay đầu lại nhìn A Châu, A Bích một lần nữa thì thấy hai mặt xám như gà cắt tiết, người đứng đờ ra như tượng gỗ.

    Phu nhân lên bờ rồi, hai tên thị nữ áo xanh ở thuyền ra sau rốt, trong tay đều cầm đầu dây lôi một chàng thanh niên mi thanh, mục tú, có vẻ là con nhà giàu sang và một người nữa, ngoại hiệu là Nộ Giang Vương Tần Nguyên Tôn. Lúc Tần đến vây đánh Mộc Uyển Thanh thì oai phong là thế mà bây giờ bị trói chặt, lão cúi gầm mặt xuống chẳng khác gì cái xác không hồn hay như cá nằm trên thớt tuỳ người muốn băm vằm mổ xẻ gì thì làm.

    Đoàn Dự rất lấy làm kỳ tự hỏi: "Ông này ở Vân Nam sao cũng bị Vương phu nhân bắt về đây... ".

    Bỗng nghe Vương phu nhân quay sang hỏi Tần Nguyên Tôn:

    - Rõ ràng mi là người nước Đại Lý, làm sao không chịu nhận đi...

    Tần Nguyên Tôn đáp:

    - Tôi ở Vân Nam, quê quán tôi không thuộc về nước Đại Lý.

    Vương phu nhân lại hỏi:

    - Nhà ngươi cách nước Đại Lý bao xa...

    Tần Nguyên Tôn đáp:

    - Hơn bốn trăm dặm.

    Vương phu nhân nói:

    - Chưa đầy năm trăm dặm, thế cũng là người Đại Lý rồi. Đem y chôn sống dưới gốc Mạn Đà La để bón cho cây.

    Tần Nguyên Tôn kêu lên:

    - Nhưng tôi phạm tội gì mới được chứ... Nếu không nói rõ thì chết cũng không nhắm mắt.

    Vương phu nhân cười lạt đáp:

    - Cứ là người Đại Lý hoặc người họ Đoàn mà gặp ta là ta chôn sống, chỉ có thế thôi. Tuy ngươi không phải ở Đại Lý, nhưng là người lân cận nước Đại Lý thì cũng thi hành như nhau.

    Đoàn Dự lẩm bẩm: à ra mụ này nói có vẻ châm chọc mình. Ta chẳng cần chờ mụ hỏi, cứ nhận trước đi cho rồi. Nghĩ vậy chàng lớn tiếng nói:

    - Ta là người nước Đại Lý, lại chính trong họ Đoàn. Ngươi muốn chôn sống ta thì hạ thủ ngay đi!

    Vương phu nhân lạnh lùng nói:

    - Ngươi đã báo danh rồi. Tên là Đoàn Dự chứ gì... được lắm! Người họ Đoàn nước Đại Lý đâu có được chết dễ dàng thế...

    Phu nhân vẫy tay một cái, tên thị nữ kéo Tần Nguyên Tôn đi. Nhưng Tần vừa bị điểm huyệt vừa bị trọng thương, không sao kháng cự được, lão kêu to lên:

    - Thế gian sao lại có cái luật lệ kỳ dị như vậy... Mấy trăm vạn nhân dân nước Đại Lý liệu có giết hết được không...

    Lão kêu gào thế nào cũng mặc, thị nữ lôi tuột lão đi vào rừng trà mỗi lúc một xa, tiếng la cũng nhỏ dần. Phu nhân nghiêng đầu đi một chút nhìn chàng thanh niên mày thanh, mắt sáng hỏi:

    - Mi có điều chi muốn nói nữa chăng...

    Chàng thanh niên vội quỳ rạp xuống đất, dập đầu lạy luôn mấy cái nói:

    - Gia phụ làm quan tại triều, dưới gối chỉ có mình tôi là con. Xin phu nhân tha mạng cho. Dù phu nhân muốn điều chi, gia phụ cũng nhất định vâng theo.

    Vương phu nhân lạnh lùng đáp:

    - Cha mi làm quan lớn trong triều, lẽ nào ta không biết... Ngươi muốn sống cũng chẳng khó gì. Chỉ có điều hôm nay mi phải về nhà giết vợ con đi, rồi sáng mai đem đủ sáu lễ cưới Miêu thị là người đã có tư tình với mi. Mi có bằng lòng không...

    Chàng thanh niên đáp:

    - Về việc đang tay... chém giết vợ con, tôi không dám làm. Còn việc cho mối lái và cưới xin đàng hoàng để lấy Miêu thị thì song thân tôi nhất định không chịu. Không phải là tôi...

    Chàng chưa dứt lời phu nhân đã ra lệnh:

    - Đem gã chôn sống đi!

    Tên thị nữ dắt chàng lúc nãy chỉ "Vâng" một tiếng rồi kéo chàng đi.

    Chàng thanh niên sợ run bắn người vội nói:

    - Tôi... tôi xin tuân mệnh.

    Vương phu nhân nói:

    - Tiểu Thúy! Mi áp giải gã về thành Cô Tô và chính mắt mi phải nhìn thấy rõ gã ra tay giết vợ, cùng Miêu cô nương thành thân rồi hãy về đây phục mệnh.

    Tiểu Thúy vâng lời, lôi chàng bỏ xuống chiếc thuyền nhỏ Đoàn Dự đang ngồi. Chàng thanh niên miệng vẫn năn nỉ:

    - Xin phu nhân mở lượng từ bi, phu nhân không có thù oán gì với vợ tôi, lại không quen biết Miêu cô nương. Tôi cũng chưa từng quen biết phu nhân, hà tất phu nhân bắt tôi giết vợ để lấy người khác làm chi... Từ nay tôi không dám làm điều gì để đắc tội với phu nhân.

    Vương phu nhân nói:

    - Mi đã có vợ con, sao còn đi dùng lời ngon ngọt để chàng màng với các cô gái khác... Ta không biết thì thôi, một khi đã biết ra ta đều xử theo đường lối này. Vả mi có phải mới phạm một lần này mà thôi đâu... Còn oán hận gì nữa... Tiểu Thúy vụ này là vụ thứ mấy rồi hả...

    Tiểu Thúy đáp:

    - Những chỗ tiểu tỳ quen biết như những vụ xảy ra ở Đan Dương, Vô Tích, Gia Hưng cả thảy bảy vụ. Còn những vụ nào nữa thì phu nhân hỏi Tiểu Lan, Tiểu Thi sẽ rõ.

    Chàng công tử nghe mà bủn rủn cả người, luôn miệng kêu than.

    Tiểu Thúy buông mái chèo, bơi thuyền đi luôn.

    Đoàn Dự thấy Vương phu nhân hành động cực kỳ khốc liệt, không đếm xỉa đến lý lẽ thì miệng há hốc ra, mắt mở trừng trừng như người sắp nổi cơn điên. Trong lòng chàng vẫn quanh quẩn với ý nghĩ: "Sao lại có con người vô lý đến như thế... ". Bất giác chàng buột miệng la lên:

    - Có lý nào thế được... Có lý nào thế được...

    Phu nhân "hừ" một tiếng rồi nói tiếp:

    - Mi còn hỏi việc thiên hạ có lý nào thế được ư... Này này ta bảo còn nhiều việc hơn thế nữa là khác.

    Đoàn Dự vừa thất vọng lại vừa khó chịu. Chàng nhớ lại bữa trước chàng vào thạch động gần sông Thương Lan, thấy pho tượng thần tiên mà chàng xiết bao ngưỡng mộ, bây giờ chàng thấy Vương phu nhân tướng mạo giống pho ngọc tượng như đúc mà hành vi chẳng khác gì yêu ma quỷ quái.

    Đoàn Dự đang cúi đầu lầm lỳ chán nản thì bốn con nữ tỳ chui vào thuyền bê ra bốn chậu hoa. Chàng vừa trông thấy, tự nhiên tinh thần lại thấy phấn khởi. Nguyên bốn chậu hoa này đều là những thứ sơn trà rất hiếm. Khắp thiên hạ đều ca tụng sơn trà Đại Lý là quý hơn hết. Trong phủ Trấn Nam Vương không biết bao nhiêu là sơn trà có danh tiếng thì bốn chậu trà này cũng đứng vào hàng nhất trong phủ. Từ thuở nhỏ Đoàn Dự xem trà đã quen. Lúc rồi chàng thường ngồi nghe thợ làm trà bàn tán phê bình về tính chất cùng ưu liệt điểm của từng thứ trà. Chàng không học tập nghề trồng trà nhưng trong lòng cũng thuộc như cháo, khác nào con nhà nông phân biệt lúa má hay con cháu ngư ông sành sỏi về các loại cá tôm... Lúc trước chàng đã đi lại mấy dặm để ngắm xem rừng trà mà chưa thấy có một gốc trà nào vào hàng giai phẩm, trong lòng chàng đã nghĩ đến cái tên "Mạn Đà sơn trang" đặt cho khu trại này thật uổng.

    Bỗng nghe Vương phu nhân gọi:

    - Tiểu Trà! Bốn chậu trà "Mãn nguyệt" này khó kiếm lắm đấy! Mi phải trông nom chăm chút nghe!

    ả thị nữ tên gọi Tiểu Trà đáp:

    - Vâng!

    Đoàn Dự nghe giọng hách dịch kiêu điệu thì hề hề cười lạt. Vương phu nhân không thèm nói gì đến chàng lại dặn tiếp:

    - Đi trên mặt hồ gió to, bốn chậu trà để luôn trong thuyền mấy ngày, thiếu ánh mặt trời chiếu vào, mi phải đem ra phơi nắng và gia công bón vào.

    Tiểu Trà lại "Vâng" một tiếng.

    Bây giờ thì Đoàn Dự lớn tiếng cười ha hả. Vương phu nhân nghe tiếng cười có vẻ hỗn xược hỏi:

    - Mi cười gì...

    Đoàn Dự đáp:

    - Ta buồn cười cho mi đã chẳng biết tý gì về sơn trà lại ưa trồng trà. Những thứ trà quý thế kia lọt vào tay ngươi thật là uổng, chẳng khác gì chim cú đậu cành mai.

    Vương phu nhân nổi giận nói:

    - Mi bảo ta không hiểu sơn trà, dễ thường cái ngữ mi hiểu được chăng...

    Rồi dường như phu nhân sực nhớ ra điều gì lẩm bẩm: ừ mà gã này là con cháu họ Đoàn nước Đại Lý, không chừng gã hiểu sơn trà cũng nên. Nghĩ vậy thì nghĩ nhưng phu nhân vẫn ra vẻ kiêu kỳ:

    - Mi không nghe nói bản trang đây xưng danh "Mạn Đà sơn trang" hay sao... Và không thấy khắp sơn dã trà Mạn Đà chỗ nào cũng tốt như rừng đấy ư...

    Đoàn Dự cười lạt đáp bằng giọng khinh khỉnh:

    - Tuồng chi rừng Mạn Đà của ngươi chẳng khác chi giống người vai u thịt bắp, vứt đâu mà chẳng to chẳng lớn... Ta nói là nói bốn chậu chà này này, nếu ngươi trồng được nó tươi tốt thì ta quyết không phải người họ Đoàn.

    Vương phu nhân vốn rất ưa hoa trà, không kể tốn phí, đi tìm khắp nơi để mua giống quý nhưng cứ đem về Mạn Đà sơn trang trồng thì các thứ trà hiếm có chỉ được một năm hay dăm bảy tháng rồi sinh bệnh mà chết. Phu nhân thường buồn phiền về những vụ này. Giờ thấy Đoàn Dự nói vậy, không giận mà lại mừng thầm, tiến lại hai bước hỏi:

    - Bốn chậu trà này có gì đặc biệt... Muốn trồng cho tươi tốt phải làm thế nào...

    Đoàn Dự nói:

    - Nếu ngươi muốn thỉnh giáo thì phải có đủ lễ nghi, còn người muốn làm oai làm phước thì chặt chân ta trước rồi hỏi cũng chưa muộn mà.

    Vương phu nhân tức mình nói:

    - Mi muốn chặt chân phỏng có khó gì... Tiểu Thi đâu! Mi đem chặt chân trái gã đi nghe!

    Ả nữ tỳ tên gọi Tiểu Thi "Vâng" một tiếng rồi chống kiếm bước ra.

    A Bích vội la lên:

    - Thưa phu nhân! Không nên chặt chân Đoàn quân. Cậu là người rất quật cường, thà chết chứ không chịu nói đâu.

    Thực ra Vương phu nhân cũng chỉ hăm dọa chàng mà thôi, liền giơ tay trái lên, Tiểu Thi vội dừng bước.

    Đoàn Dự cười nói:

    - Sao không chặt hai chân ta để chôn bên gốc bốn khóm bạch trà này để bón cho tốt... Bốn khóm trà này quý vô cùng, hoa nó lớn bằng miệng bát chậu. Ha ha thật là thứ trà rất đẹp, rất quý.

    Trong lòng Vương phu nhân chỉ mong có thứ trà quý nhưng nghe giọng lưỡi chàng toàn là bướng bỉnh, phu nhân không biết nói thế nào, ngẫm nghĩ hồi lâu rồi bảo:

    - Mi chỉ toàn nói ba hoa. Ta hỏi mi: bốn chậu bạch trà của ta quý thì quý ở chỗ nào... Mi nói cho ta nghe thử! Nếu đúng ta sẽ theo lễ đối đãi với mi cũng chưa muộn.

    Đoàn Dự đáp:

    - Vương phu nhân! Ngươi bảo bốn chậu bạch trà này tên là "mãn nguyệt" là láo toét. Một thứ tên gọi "Hồng trang tố lý", một thứ là "Trảo phá mỹ nhân kiểm"...

    Phu nhân lấy làm lạ ngắt lời:

    - "Trảo phá mỹ nhân kiểm"... Tên trà gì mà kỳ thế... Vậy chậu trà nào có tên thế...

    Đoàn Dự nói:

    - Ngươi muốn thỉnh giáo ta thì phải theo đúng lễ ta mới chỉ bảo cho.

    Vương phu nhân không biết làm thế nào nhưng thấy mình vô tình lấy được mấy khóm trà có những tên đặc biệt trong lòng hớn hở vui mừng liền mỉm cười nói:

    - Hay lắm! Tiểu Thi đâu! Mi bảo nhà bếp sửa tiệc tại lầu Vân Cẩm để ta khoản đãi Đoàn tiên sinh nghe!

    Tiểu Thi vâng dạ đi ngay. A Châu, A Bích chỉ nhìn nhau. Hai nàng thấy Đoàn Dự chẳng những không chết lại còn được Vương phu nhân tiếp đãi vào hạng thượng tân thì khác nào như mơ mộng.

    Phu nhân quay lại dặn ả thị nữ cầm ba cái đầu lâu:

    - Mi đem ba cái thủ cấp này chôn xuống bên khóm hoa hồng trước lâu Hồng Hà.

    Thị nữ vâng lệnh đi ngay, Vương phu nhân quay lại nói với Đoàn Dự:

    - Nào xin mời Đoàn công tử lên đây!

    Đoàn Dự đáp:

    - Vãn sinh mạo muội! Xin hiền chủ nhân thứ lỗi.

    Vương phu nhân nói:

    - Đại hiền giá lâm khác nào rồng đến nhà tôm...

    Hai người vừa đối đáp những câu khách sáo vừa đi rất ung dung, khác hẳn lúc nãy, tính mạng Đoàn công tử dường như ngàn cân treo đầu sợi tóc. A Châu, A Bích theo sau. Hai người biết tính Vương phu nhân hốt hỷ hốt nộ, nói cười đấy rồi trở mặt ngay đấy nên trong lòng vẫn phập phồng lo sợ.

    Vương phu nhân dẫn Đoàn Dự đi qua một chiếc cầu đá, theo con đường chật hẹp đến trước một tòa lầu nhỏ. Đoàn Dự ngẩng đầu lên trông thấy dưới mái hiên có treo tấm biển đề ba chữ vàng: "Vân Cẩm lâu". Bốn mặt tòa lầu này trồng toàn hoa trà. Những bông trà ở đây đem so với trà bên Đại Lý chỉ đáng đứng vào hàng thứ ba, thứ tư trở xuống. Đình tạ, lầu các cực kỳ lịch sự mà cỏ hoa lại tầm thường nên mất cả vẻ tương xứng.

    Vương phu nhân lộ vẻ đắc ý hỏi Đoàn Dự:

    - Đoàn công tử! Bên quý quốc nhiều trà thật nhưng có lẽ còn thua bên này.

    Đoàn Dự gật đầu đáp:

    - Vâng! Bên Đại Lý quả không trồng những thứ trà này.

    Vương phu nhân lại càng tự đắc hỏi:

    - Vậy ư...

    Đoàn Dự đáp:

    - Vì bên nước tôi từ kẻ dân dã, ngu phu tục tử cũng rất sành về các loại trà. Họ cho trồng những thứ trà tạp nham này làm cảnh chơi sẽ làm mất cả phẩm giá con người.

    Vương phu nhân tức thời biến sắc hỏi:

    - Công tử nói sao... Những trà của ta đây là những thứ không ra gì... Thế thì công tử khinh người quá!

    Đoàn Dự đáp:

    - Phu nhân không tin tôi thì đó là quyền của người.

    Chàng vừa nói vừa chỉ một khóm hoa trà có vân ngũ sắc trước lầu nói tiếp:

    - Tỷ như khóm trà này phu nhân cho là quý lắm! Chà cái lan can bên cạnh mới thực là đẹp. Chàng tấm tắc khen cái giàn hoa đẹp còn chính cây hoa lại không đếm xỉa gì đến, có khác gì người bình phẩm chữ viết chỉ khen mực đen bóng mà không đả động đến nét chữ. Khóm hoa trà này có bông hồng, bông trắng, bông tía, bông vàng rất là sặc sỡ, trước nay Vương phu nhân vẫn cho là quý báu lắm giờ xem Đoàn Dự có ý mỉa mai thì tỏ vẻ không bằng lòng.

    Đoàn Dự hỏi:

    - Thưa phu nhân! Miệt Giang Nam gọi tên thứ hoa này là gì...

    Vương phu nhân đáp:

    - Ở đây không có tên riêng, chỉ gọi là ngũ sắc trà hoa.

    Đoàn Dự nói:

    - Bên Đại Lý chúng tôi gọi nó là "Lạc đệ tú tài".

    Vương phu nhân bĩu môi nói:

    - Tên gì mà khó nghe thế... Chẳng qua là công tử muốn đặt ra vậy thôi. Khóm hoa này đủ mầu mỹ lệ đường hoàng, có vẻ gì gọi là cậu tú hỏng thi đâu...

    Đoàn Dự nói:

    - Phu nhân thử đếm coi! Khóm trà đó có bao nhiêu kiểu hoa khác nhau...

    Vương phu nhân đáp:

    - Ta đã đếm rồi! ít ra cũng có đến 15, 16 thứ.

    Đoàn Dự nói:

    - Cả thảy có 17 thứ mới đúng. Bên Đại Lý tôi có thứ trà kêu bằng "Thập bát học sĩ". Đó là thứ quý nhất thiên hạ. Cả khóm có 18 bông mà mầu sắc không bông nào giống bông nào: hồng thì toàn hồng, tía cũng toàn tía, chứ không hỗn tạp. Về hình dạng cũng khác nhau, mỗi bông có một vẻ đẹp riêng. Cả 18 bông nở cùng một lúc, tàn tạ cũng trong một giờ. Phu nhân đã được xem chưa...

    Vương phu nhân lắc đầu đáp:

    - Thiên hạ có thứ trà quý thế kia ư... Tôi chưa từng nghe thấy ai nói đến.

    Đoàn Dự lại nói tiếp:

    - Sau hạng "Thập bát học sĩ", còn có những thứ kém đi từng bậc một, tỷ như "Bát tiên quý hải", một gốc sinh ra tám bông hoa khác nhau, "Thất tiên nữ" có bảy bông, "Phong trần tam hiệp" có ba bông, "nhị kiều" có hai bông một trắng một hồng. Tất cả các bông hoa phải thuần một sắc, nếu hoa hồng có pha mầu trắng, hoặc hoa trắng có pha sắc tía đều là hạng kém.

    Vương phu nhân vừa nghe vừa gật đầu. Đoàn Dự lại nói tiếp:

    - Riêng về thứ "Phong trần tam hiệp" lại chia ra làm hai: hạng chánh và hạng phó. Trong ba bông thì bông tía phải lớn hơn hết tượng trưng cho Cầu Nhiêm Khánh, bông trắng thứ nhì tượng trưng cho Lý Tĩnh, bông hồng đẹp và nhỏ nhất tượng trưng cho Hồng Phất Nữ. Nếu bông hồng lớn hơn hai bông kia là hạng phó, như thế là giá trị kém đi nhiều.

    Vương phu nhân ngồi nghe ra chiều thú vị, than rằng:

    - Ngay hạng phó tôi cũng chưa được thấy qua chứ đừng nói đến hạng chánh.

    Đoàn Dự lại trỏ thứ trà bông ngũ sắc phê bình:

    - Luận về tư cách loại này so với "Thập bát học sĩ" thì còn thiếu một bông, ngoài ra các mầu sắc lại còn bác tạp, không được thuần nhất, bông to bông nhỏ, hay nở sớm, nở muộn không đều phỏng có khác chi bì phấn với vôi... tỷ như sĩ tử văn bài kém cả phân điểm, lẽ tất nhiên thi rớt nên mới có cái tên "Lạc đệ tú tài".

    Vương phu nhân nghe có lý thích quá, bật cười nói:

    - Kể ra đúng đấy. Nhưng cái tên có vẻ mỉa mai khinh bạc.

    Vương phu nhân nghe tới đây biết Đoàn Dự rất sành sỏi về sơn trà đem lòng tín phục. Phu nhân dẫn chàng lên lầu "cẩm vân", chẳng mấy chốc đã thấy gia nhân bày tiệc rượu. Các món ăn của A Bích mời chàng thì lấy sự đơn giản tinh khiết, khéo tay khéo chân làm sở trường còn tiệc của Vương phu nhân lại chú trọng về những món ăn trân tu làm sang. Nhưng Đoàn Dự đã sinh trưởng ở nơi Đế Vương đài các nên thứ gì chàng cũng coi là thường, chàng có vẻ thích những món ăn của A Bích hơn.

    A Châu, A Bích được các tỳ nữ bồi tiếp và ăn uống riêng biệt ở chỗ khác. Vương phu nhân đối với Đoàn Dự rất mực cung kính. Bà ngồi chỗ dưới để bồi tiếp chàng. Rượu đã ba tuần Vương phu nhân hỏi:

    - Vừa rồi công tử cho nghe những lời bình phẩm xác đáng về các thứ trà tôi rất đồng ý, còn bốn chậu trà tôi mới lấy về đây thì những thợ trồng hoa ở đất Cô Tô này kêu bằng trà "mãn nguyệt" mà công tử lại bảo một chậu là "Hồng trang tố lý", một chậu "Mỹ nhân trảo phá kiếm", vậy có những điểm nào để phân biệt... Xin công tử nói rõ cho biết!

    Đoàn Dự nói:

    - Chậu hoa trắng mà lớn có vân đen nho nhỏ mới kêu là "mãn nguyệt" những vân đen đó tượng trưng các cành quế ở cung trăng. Chậu hoa cánh trắng mà có vân hồng gọi là "Hồng trang tố lý". Cánh trắng mà có điểm một tia đỏ nhỏ như sợi tơ là "Mỹ nhân trảo phá kiếm". Thứ giống như "Mỹ nhân trảo phá kiếm" nhưng cánh có nhiều tia hồng thì gọi là "Ỷ lan kiều". Phu nhân thử nghĩ coi: đã là mỹ nhân thì phải thuần nhã ôn nhu, trên má lỡ tay cào toạc ra một dây máu thì chả hại gì nhưng khắp mặt sây xát, tỏ ra đã bao phen cùng người xô xát thì còn đâu là vẻ mỹ nhân...

    Vương phu nhân đang chăm chú nghe, thốt nhiên sa sầm nét mặt quát lên:

    - Quân này to gan thật! Mi dám mạt sát ta ư...

    Đoàn Dự cả kinh:

    - Khi nào tôi dám thế... Tôi có mạo phạm phu nhân ở chỗ nào đâu...

    Vương phu nhân hỏi:

    - Ngươi nghe ai sai khiến đến đây nói hươu nói vượn để nhục mạ ta... Ai bảo mi đàn bà học võ công là mất vẻ mỹ miều... Nhuần nhã ôn nhu thì đã hơn ai...

    Đoàn Dự giật mình đáp:

    - Vãn sinh nói đây chỉ là theo lẽ thông thường. Thiếu gì đàn bà con gái giỏi võ mà vẫn kiều diễm đoan trang...

    Không ngờ câu nói này đã làm cho Vương phu nhân chối tai hơn. Bà hỏi vặn:

    - Ta có đoan trang hay không...

    Đoàn Dự đáp:

    - Đoan trang hay không thì phu nhân tự biết, vãn sinh đâu dám nói càn. Đại khái những việc như bắt người ta giết vợ để đi lấy vợ khác người đoan trang không làm.

    Chàng nổi cơn bực tức nên mấy câu sau chàng không kiêng nể gì nữa. Vương phu nhân khẽ đập tay ba cái, ba ả thị nữ vội chạy lên lầu, bỏ thõng tay đứng chờ lệnh. Vương phu nhân nói:

    - Bọn mi dẫn tên này đi tưới hoa.

    Bọn thị nữ vâng lời. Phu nhân quay lại bảo Đoàn Dự:

    - Ngươi đã ở nước Đại Lý, lại là người họ Đoàn đáng chết lắm nhưng hiểu biết tính chất các loại trà vậy ta hãy tạm để tội chết lại, phạt ngươi phải trông nom bón tưới những khóm trà ở xung quanh trang, nhất là bốn chậu trà mới lấy về, lại càng phải trông nom cẩn thận. Ta bảo cho ngươi biết trước nếu trong bốn khóm trà này mà ngươi để chết một khóm sẽ bị chặt một tay, chết hai khóm sẽ bị chặt hai tay, chết hết bốn khóm thì chân tay sẽ bị chặt hết đó.

    Đoàn Dự cười nói:

    - Còn trường hợp bốn khóm trà sống cả thì sao...

    Vương phu nhân đáp:

    - Nếu bốn khóm trồng được tươi tốt cả thì ngươi phải kiếm những giai phẩm như "Thập bát học sĩ", "Bát tiên quá hải", "Thất tiên nữ", "Nhị kiều" mỗi thứ mấy cây, không kiếm được cho ta sẽ bị móc mắt.

    Đoàn Dự nói:

    - Thế thì mụ giết quách ta đi còn hơn. Hôm nay chặt tay, ngày mai móc mắt, ta chịu sao nổi...

    Vương phu nhân quát mắng:

    - Tên này giỏi thật, trước mặt ta mà dám buông lời càn rỡ! Chúng bay lôi cổ nó đi!

    Ba ả thị nữ chạy lại, hai ả túm đằng trước, còn một ả phía sau đẩy đi. Ba ả này đều có võ, Đoàn Dự không thể kháng cự lại được đành để bọn thị nữ kéo xuống lầu, đưa đến một chỗ trong vườn hoa. Một ả đưa cho chàng cái xuổng xới đất, một ả lấy cho chàng cái bình tưới và bảo chàng:

    - Ngươi đã nghe rõ lời phu nhân dặn bảo. Thôi chịu khó ở đây trồng cây tưới hoa để bảo toàn sinh mạng. Thế là đại phước lắm đó. Những chàng trai đã đặt chân lên Mạn Đà sơn trang chưa có ai sống mà trở về đấy nhé.

    Một ả nữa nói:

    - Ngươi chỉ biết việc ở đây trồng tỉa sơn trà, đừng len lỏi vào các nơi cấm địa mà nguy đó! Nếu không nghe lời ta tức là tự đi tìm lấy cái chết không ai cứu được đâu.

    Ba ả thị nữ dặn dò cẩn thận rồi mới bỏ đi. Đoàn Dự đứng thừ người ra, chàng lâm vào tình trạng khóc dở mếu dở. Tại nước Đại Lý chàng ở vào địa vị thế tử, phụ thân chàng là Trấn Nam Vương, một ngày kia lên kế vị Bảo Định Đế, thì tự nhiên chàng lên bậc Hoàng thái tử, có ngờ đâu bị người bắt đem xuống Giang Nam định đốt, định giết, toan chặt chân tay, móc mắt. Rồi bây giờ bị người bắt ép làm kẻ trồng cây tưới hoa. Tuy nhiên tính chàng bình dị vui vẻ, lúc ở nhà tại hoàng cung cũng như ở Vương phủ thường nhật chàng vẫn xem thợ sửa hoa cắt cỏ, xới đất bón cây rồi cùng bọn thợ cười cười nói nói. Chàng đang ở địa vị công tử vương tôn, giờ phải xuống làm nghề hạ tiện nhưng may chàng vốn tính linh lợi vui tươi nên dù gặp nghịch cảnh đầy đọa chàng có âu sầu chăng nữa cũng chỉ được một lúc rồi lại cao hứng như thường. Chàng lại khai thác nguồn hứng thú ở ngay cái việc hiện tại đang đẩy vô mình. Chàng lý luận: lúc ta vào thạch động đã hạ bái thần tiên tỷ nương nhận làm thầy. Nay Vương phu nhân tướng mạo giống thần tiên tỷ nương, bất quá phu nhân nhiều tuổi hơn mà thôi, thế thì ta thờ phu nhân làm sư phụ cũng được chứ sao... Sư phụ đã ra mệnh lệnh, đạo làm đệ tử là phải vì thầy xuất lực có chi quá đáng... huống chi trồng hoa là công việc thanh nhã của bọn văn nhân so với việc khai thương múa đao học võ thì trồng hoa còn cao thượng hơn nhiều. Thoát khỏi tay Cưu Ma Trí định đem mình đốt sống trước mộ Mộ Dung tiên sinh để được ra đây làm cái việc trồng hoa khoái lạc này là vinh hạnh lắm rồi. Chỉ đáng tiếc có một điều là các loại trà hoa kém cỏi này mà phải dùng đến vương tử nước Đại Lý ra tay trồng tỉa kể cũng hơi phí. Lý luận hồi lâu lòng chàng khoan khoái, miệng bật lên khúc hát vang lừng, vác xuổng cất bước. Chàng tự nhủ thầm: "Vương phu nhân giao cho ta cái trọng trách phải trồng cho đặng sống bốn bồn bạch trà này phải lắm! Trà này cũng vào hạng có tên tuổi rồi đây, phải được tay văn nhã như mình trồng mới thành thân". Đoàn Dự vừa đi vừa ngắm phong cảnh đột nhiên chàng cười ha hả nghĩ bụng: "Vương phu nhân kể ra cũng kỳ, chẳng hiểu mảy may gì về sơn trà mà lại ưa trà hoa, chỗ nào cũng trồng trà, rồi lại đặt tên cho trang trại của mình là Mạn Đà sơn trang, nghe ra có vẻ hay ho lắm. Phu nhân có biết đâu rằng trà ưa khí âm chứ không hợp với khí dương. Trồng trà vào nơi giải nắng thì chẳng chết cũng chột, khó lòng tươi tốt được, vun bón thế nào cũng vô ích. Biết bao nhiêu thứ trà quý để phu nhân làm hỏng hết. Đáng tiếc, đáng tiếc! ". Chàng tránh những lối nắng chang chang tìm vào những nơi rậm rạp âm u, đi quanh hết hòn núi nhỏ bỗng nghe tiếng suối khe róc rách, bên tả toàn là trúc mọc xanh rì, bốn bề tịch mịch, mặt trời không chiếu vào đến nơi, đúng là khu âm trái núi. Vương phu nhân thấy nơi này đất cớm cho là không thể trồng hoa được nên tuyệt không có một gốc trà nào. Đoàn Dự cả mừng lẩm bẩm: "chỗ này trồng trà tuyệt diệu". Đoạn chàng rảo bước quay về chỗ cũ bưng hai chuyến, bốn chậu trà đến đó. Chàng khoét lỗ bên cạnh khóm trúc, ghè cho vỡ chậu sành rồi đặt cả bầu xuống. Tuy chàng chưa làm qua công việc trồng tỉa nhưng đã được xem nhiều, cứ theo cách thức mà làm cho được chu đáo. Hồi lâu chàng trồng xong cả bốn khóm bạch trà ngay cạnh rặng trúc: đầu bên trái là khóm "Trảo phá mỹ nhân kiểm", đầu bên hữu hai khóm "Hồng trang tố lý" và "Mãn nguyệt", còn khóm "Ỷ lan kiều" thì trồng chênh chếch mé sau khối đá lớn bên bờ suối cho hợp với câu:

    E thẹn ôm đàn che nửa mặt

    Ai kêu ai gọi cũng mần thinh

    Đoàn Dự rất đắc ý đã trồng khóm "ỷ lan kiều" vào nơi nửa kín nửa hở cho hợp cảnh và tăng thêm vẻ đẹp.

    Người Trung Quốc từng đem hoa ví với mỹ nhân, việc trồng hoa cũng như việc trang điểm cho mỹ nhân.

    Đoàn Dự xuất thân tại chốn hoàng cung, đọc thi thư từ thuở nhỏ, cách thức trồng cây cỏ cũng hơn người một bậc. Trồng xong bốn khóm hoa chàng xuống suối rửa sạch chân tay ngồi sau phiến đá lớn ngắm nghía khóm "ỷ lan kiều" lấy làm khoái chí. Bỗng nghe có tiếng chân bước sột soạt, hai thiếu nữ ngang qua, một cô nói:

    - Chỗ này tịch mịch, không có ai qua lại...

    Đoàn Dự thoáng nghe đã giật nảy mình vì chàng nhận ra vị nữ lang mặc áo trắng lúc trước. Đoàn Dự nín hơi, không dám ho he một tiếng, nghĩ bụng: "Nàng đã bảo không nhìn mặt chàng trai nào không có liên quan gì tới nàng. Ta chỉ cần nghe nàng nói mấy câu phỏng có khác gì được nghe giọng ca nhạc của tiên nương, cũng đã phúc lắm rồi. Nhất quyết ta phải cố giữ cho nàng không trông thấy mình mới được. Chàng chỉ ngấp nghe nhìn chênh chếch chứ không dám nhìn thẳng mặt. Chàng vừa nghiêng đầu nghẹo cổ nhìn trộm vừa sợ *****ng chạm phát ra tiếng làm kinh động nữ lang.

    Nữ lang tiếp tục nói chuyện với thị tỳ:

    - Tiểu Thi! Mi được tin gì về chàng...

    Đoàn Dự nghe hỏi bất giác chua xót trong lòng. Chàng biết rằng tiếng "chàng" mà nữ lang gọi đó là chỉ công tử Mộ Dung. Chàng đã nghe Vương phu nhân gọi gã bằng tên là Mộ Dung Phục mà thôi. Chàng lại thấy nữ lang hỏi vặn thị tỳ về tin tức công tử Mộ Dung có vẻ thiết tha mong nhớ. Chàng nghĩ thầm: "Giả tỷ cô nương này đối với mình tha thiết như vậy thì dù mình có phải chết ngay tức khắc cũng rất vui lòng. Nực cười Đoàn Dự là một gã si tình lạ lùng. Nào chàng đã được nhìn rõ mặt nữ lang áo trắng đâu, chẳng biết nàng đẹp hay xấu, chẳng hiểu tên họ nàng là gì, chẳng rõ nàng hiền lành hay hung dữ tính tình nàng tốt hay xấu. Từ lúc Đoàn Dự mới nghe tiếng nữ lang áo trắng nói vài câu ngoài bờ hồ ban nãy chàng đã nặng tình rồi. Giả tỷ chàng có vì nàng mà phải hy sinh tính mạng cũng không ăn năn hối hận chút nào. Tại sao chàng đã nẩy ra tâm ý như vậy chính chàng cũng không hiểu nữa. Chàng thấy nàng bất cứ lúc nào hay chỗ nào cũng chỉ bàn tới việc công tử Mộ Dung thì chàng hoặc ngưỡng mộ nàng hoặc tự thương cho mình.

    Nghe thiếu nữ hỏi, Tiểu Thi ấp úng hồi lâu, dường như sợ không dám nói thẳng. Nữ lang giục:

    - Mi nói mau đi! không bao giờ ta quên lòng tốt của mi.

    Tiểu Thư vẫn ngần ngừ:

    - Cháu sợ... cháu chỉ sợ... phu nhân trách phạt.

    Nữ lang tức mình hăm dọa:

    - Con này điên hả... Mi cứ nói cho ta hay. Dĩ nhiên là ta không kể với phu nhân đâu. Nếu mi không nói ta hỏi Tiểu Trà, Tiểu Thúy sẽ biết, sau phu nhân có hỏi đến ta sẽ đổ cho mi mách ta đó!

    Tiểu Thi hốt hoảng hỏi lại:

    - Tiểu thư! Sao tiểu thư... lại chực đổ oan cho cháu...

    Nữ lang cười đáp:

    - Có gì là lạ... Kẻ nào làm tâm phúc cho ta dĩ nhiên ta phải nâng đỡ và hộ vệ nó. Đứa nào không chịu nghe lời ta thì ta đổ tội cho chứ sao...

    Tiểu Thi ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:

    - Thôi cháu đành nói rõ cho cô nương nghe. Cô nương phải giữ tuyệt đối bí mật, chớ để cho câu chuyện tiết lộ ra ngoài.

    Nữ lang nói:

    - Ta xem mi không muốn nói cứ ấp úng hoài. Ta chỉ tin ngươi được phần nào thôi. Giả tỷ mi đừng giấu ta câu nào thì ta quyết với mi rằng vĩnh viễn mi không bị phu nhân quở trách.

    Tiểu Thi thở dài nói:

    - Biểu thiếu gia đến chùa Thiếu Lâm đó.

    Nữ lang giật giọng hỏi:

    - Mi bảo chàng đến chùa Thiếu Lâm ư... Sao A Châu A Bích lại nói chàng đến Cái Bang ở Lạc Dương kia mà...

    Đoàn Dự tự hỏi: "Biểu thiếu gia nghĩa là gì... À thôi phải rồi! Công tử Mộ Dung là biểu huynh cô nương đây, hai người là anh em họ với nhau".

    Tiểu Thi nói:

    - Hôm vừa rồi, phu nhân ra đi giữa đường gặp Phong tứ gia bên yến tử ổ nói cho biết là người đi chùa Thiếu Lâm bên Tung Sơn để tiếp ứng cho biểu thiếu gia.

    Nữ lang hỏi:

    - Chàng đi chùa Thiếu Lâm có việc gì...

    Tiểu Thi đáp:

    - Phong tứ gia kể rằng biểu thiếu gia đưa tin về có rất nhiều phái võ đến chùa Thiếu Lâm, mở cuộc anh hùng đại hội gì đó để đối phó với nhà Mộ Dung mà thiếu gia chưa biết rõ có những ai. Cháu lại nghe nói bên yến tử ổ còn có nhiều người đi tiếp ứng.

    Nữ lang lại hỏi:

    - Phu nhân đã được tin như vậy sao lại quay về... Không đi giúp biểu thiếu gia...

    Tiểu Thi đáp:

    - Điều đó cháu cũng không hiểu. Dường như phu nhân không ưa biểu thiếu gia.

    Nữ lang hậm hực nói:

    - Hừ! ưa hay không ưa là một chuyện. Dù sao thiếu gia cũng là người trong nhà. Để thiếu gia mất mặt với người ngoài thì mình vẻ vang lắm hay sao...

    Tiểu Thi nói:

    - Đúng thế!

    Nữ lang tức mình hỏi:

    - Đúng cái gì...

    Tiểu Thi run sợ đáp:

    - Đúng là... chẳng vẻ vang gì.

    Nữ lang chạy đi chạy lại bên rặng trúc xanh để lo mưu tính kế. Chợt trông ba khóm bạch trà Đoàn Dự mới trồng, mảnh chậu đập ra còn bỏ đó, nàng ngạc nhiên hỏi:

    - Ai trồng trà ở đây thế này...

    Đoàn Dự vội vàng từ sau phiến đá lớn chạy vụt ra vái dài sát đất nói:

    - Tiểu sinh vâng mệnh phu nhân, đang trồng trà tại đây, không ngờ lại gặp tiểu thư.

    Tuy vái dài tỏ ra rất cung kính nhưng mắt chàng cứ chằm chặp nhìn thẳng vào mặt nữ lang. Vì chàng sợ lại phải nghe nàng nói một câu dứt khoát như lần trước: "ta không nhìn bất cứ gã trai nào không có liên can gì đến ta" rồi trở gót đi thẳng thì lại lỡ mất cơ hội. Đoàn Dự vừa nhìn thấy mặt nữ lang đã tai ù mắt hoa, hai đầu gối nhũn ra không tự chủ được nữa, quỳ mọp xuống đất, nếu không miễn cưỡng chống lại thì đến cái đầu cũng đập xuống đất mà lạy. Miệng chàng lắp bắp nói luôn:

    - Thần tiên nương tử ơi! tôi nhớ nương tử muốn chết đi được.

    Nguyên tướng mạo nữ lang áo trắng này giống hệt pho tượng ngọc trong thạch động bên nước Đại Lý. Vương phu nhân cũng đã giống pho tượng này nhưng cao tuổi hơn còn nữ lang áo trắng có khác là chỉ ở bộ áo mặc ngoài mà thôi. Từ mặt mũi, tai mắt, mồm miệng cho chí tầm vóc, chân tay cùng màu da đố ai tìm được chỗ nào khác. Thực là pho tượng ngọc tái sinh. Đoàn Dự như người đang lạc vào cõi mộng. Chàng đã trải không biết mấy ngàn mấy trăm lần tưởng nhớ đến pho ngọc tượng. Lúc này chính mắt chàng nhìn thấy người thật mà chàng chẳng hiểu ở nơi nao ở trần gian hay thượng giới.

    Nữ lang thấy cử động cùng cách xưng hô của Đoàn Dự cho là chàng mắc bệnh điên cuồng vừa khẽ hỏi vừa lùi lại hai bước:

    - Ngươi... ngươi......

    Đoàn Dự đứng dậy nói:

    - Hôm đó ở trong thạch động tôi được bái kiến tiên dung thần tiên nương tử, đã mừng cho mình phúc duyên rất lớn, không ngờ ngày nay lại thấy dung nhan nương tử thì ra trên đời này quả có tiên tử không sai.

    Nữ lang quay lại hỏi Tiểu Thi:

    - Gã nói chi đó... Gã là ai vậy...

    Tiểu Thi nói:

    - Gã là một anh đồ gàn đến với A Châu, A Bích. Gã nói nhăng nói cuội thế nào mà phu nhân tin lời mới nực cười.

    Nữ lang quay ra hỏi Đoàn Dự:

    - Tên đồ gàn kia! Ta vừa nói chuyện với thị nữ đây ngươi có nghe thấy không...

    Đoàn Dự cười đáp:

    - Tôi họ Đoàn tên Dự, người nước Đại Lý, không phải là đồ gàn đâu. Vừa rồi thần tiên nương tử nói chuyện với chị Tiểu Thi đây vô tình tôi đã nghe rõ cả. Xin thần tiên nương tử cùng chị Tiểu Thi cứ yên lòng, tiểu sinh nhất quyết không tiết lộ một câu nào cho ai biết cả và xin bảo đảm cho chị Tiểu Thi không bị phu nhân quở trách vì tôi.

    Nữ lang sa sầm nét mặt hỏi:

    - Ngươi xưng hô lăng nhăng như vậy còn cãi không phải đồ gàn. Ngươi thấy ta từ lúc nào...

    Đoàn Dự hỏi lại:

    - Tôi không xưng hô bằng thần tiên nương tử thì xưng hô thế nào cho phải nhẽ...

    Nữ lang đáp:

    - Ta họ Vương, ngươi cứ gọi ta bằng Vương cô nương là được rồi.

    Đoàn Dự lắc đầu quầy quậy nói:

    - Không được! Không được! Khắp thiên hạ cô nương họ Vương kể có hàng ngàn hàng vạn còn cô nương đây là nhân vật thần tiên, phi phàm mà cũng chỉ gọi bằng Vương cô nương như người thường thế nào được... Bây giờ biết xưng hô cách nào đây... ấy thế mà khó đấy! Gọi vắn tắt là Vương tiên tử chăng... cũng không được! Nhà Đại Tống rồi các nước Đại Lý, Liêu Quốc, Thổ Phồn nước nào chẳng có công chúa nhưng bì với cô nương thế nào được...

    Nữ lang nghe Đoàn Dự nói tràng giang đại hải, toàn những câu gàn gàn dở dở. Dù thấy gã tán dương sắc đẹp mình một cách quá lố chăng nữa nhưng trong lòng nàng vẫn cảm thấy vui vui, nàng mỉm cười nói:

    - Dù sao thì ta cũng cho ngươi là tốt phúc vì chưa bị mẫu thân ta chặt chân.

    Đoàn Dự lại nói:

    - Thần tiên nương tử cùng lệnh đường phu nhân tướng mạo giống nhau nhưng tính tình thực khác xa nhau. Phu nhân động một tý là giết người, có điều không xứng đáng với thể chất thần tiên...

    Nữ lang nhíu đôi lông mày ngắt lời:

    - Thôi ngươi tiếp tục trồng hoa đi! đừng đứng đây bẻm mép nữa. Bọn ta có việc phải bàn.

    Nàng nói câu đó với vẻ mặt coi Đoàn Dự như một tên thợ trồng hoa không hơn không kém. Đoàn Dự không lấy làm tủi nhục về thái độ kiêu căng của nàng. Chàng chỉ mong được cùng nàng nói câu nào hay câu ấy, nhìn phút nào hay phút ấy. Chàng tính kế: "Muốn cho nàng bắt chuyện thì không gì bằng việc đề cập đến công tử Mộ Dung. Bụng dạ nàng để cả vào gã, ngoài ra nàng không thiết một việc gì hết". Nghĩ vậy chàng liền nói:

    - Các anh hùng thiên hạ hội họp cùng phái Tung Sơn và phái Thiếu Lâm thương nghị việc đả phá nhà Mộ Dung. Nhân vật các phái dĩ nhiên không phải là ít, công tử Mộ Dung cô thân, dấn mình vào nơi hiểm địa, thật là đáng lo ngại.

    Quả nhiên nữ lang giật mình. Đoàn Dự không dám nhìn thẳng vào mặt nàng, chàng nghĩ thầm: "Nàng vì cái thằng khốn kiếp Mộ Dung Phục mà phải băn khoăn trong dạ. Ta xem dường như nàng muốn sa luỵ là khác. Tà áo trắng nàng vẫn lay động, rồi bằng một giọng êm dịu như tiếng tiêu nàng hỏi:

    - Ngươi có biết tình hình chùa Thiếu Lâm ra sao không... nói cho ta nghe.

    Đoàn Dự thấy nàng nhỏ nhẹ cầu khẩn mình cầm lòng không đậu muốn đem hết tất cả những điều mình hay biết nói cho nàng nghe. Song chàng nghĩ lại: "Nếu có điều gì mình đem dốc ra hết, nàng nghe xong rồi lại giục mình đi trồng trà thì mình tìm đâu ra đề tài để hòng được nói nữa với nàng, thế mới khó chứ! Chi bằng mình phải tìm cách kéo dài câu chuyện, mỗi ngày cho ra một mẩu để ngày ngày nàng phải đến tìm mình hỏi chuyện. Hễ tìm đến mình không được tất phải nóng ruột khó chịu. Nghĩ vậy chàng đằng hắng rồi bắt đầu vào chuyện:

    - Về võ công tôi chẳng biết tý gì cả. Cả những thế võ tầm thường như "Kim Kê Độc Lập", "Hắc Hổ Thâu Tâm" gì gì đi nữa tôi cũng không hay nhưng trong nhà tôi có anh bạn họ Chu, tên gọi Chu Đan Thần, ngoại hiệu là "nghiên sinh". Trông bề ngoài anh ta cũng chỉ là gã văn nhược thư sinh như tôi này thôi, hay gọi là tên đồ gàn cũng được. Hà hà thế mà võ công anh ta đáo để lắm. Một hôm anh ta cầm cái quạt quay ngược đầu lại đánh "chát" một tiếng, cán quạt trúng vào bả vai một gã đại hán, thế mà gã này người co rúm lại, chẳng khác gì một đống đất lù lù, không sao nhúc nhích được nữa.

    Nữ lang nói:

    - Ừ đó là đòn thứ 38 để đánh vào huyệt đạo trong phép "Thanh Lương phiến", trở đầu quạt đánh xéo vào huyệt "Kiên Trinh", vậy thì Chu tiên sinh là đệ tử dưới trướng Tam Nhân quán, một chi nhánh phái Côn Luân đó. Võ công phái này dùng bút cũng lợi hại như dùng quạt thôi. Ngươi nói vào cốt chuyện đi đừng nói về võ công với ta nữa.

    Giả tỷ mà Chu Đan Thần được nghe chuyện nàng nói tất phải phục sát đất vì không những nàng gọi rõ tên cúng cơm thế võ mà thôi, nàng còn nói rõ ràng cả lai lịch tông chỉ người dạy môn đó nữa. Không những Chu Đan Thần đến ngay những nhà võ học uyên thâm tỷ như bá phụ Đoàn Dự là Đoàn Chính Minh, phụ thân chàng là Đoàn Chính Thuần, cũng phải giật mình tự hỏi: "Cô nương nhỏ tuổi này mà sao kiến thức về võ học đã sâu rộng đến thế...". Nhưng đối với anh chàng Đoàn Dự chẳng biết tý võ công nào nên mấy lời phác họa nàng nói vừa rồi chỉ thoáng qua tai chàng mà thôi. Giả tỷ câu chuyện này đưa ra ngoài tất làm chấn động giang hồ, thành một đề tài sốt dẻo và trọng đại bậc nhất đối với các phái võ.

    Hồi 31: Hiềm khích giữa hai nhà Mộ Dung và Vương thị

    Đoàn Dự tuy nghe nàng bình luận võ công nhưng nàng muốn nói thế nào thì nói, vào tai nọ rồi lại ra tai kia, chàng chẳng cần biết thế võ có đúng hay không, chỉ dán cặp mắt vào đôi mày thưa thớt cùng cặp môi son của nàng chứ không để ý gì đến võ nghệ.

    Nữ lang hỏi:

    - Vị Chu tiên sinh đó là người thế nào...

    Đoàn Dự chỉ vào phiến đá lớn như hình cái sập bên cạnh bụi trúc nói:

    - Câu chuyện dài lắm, xin tiểu thư rời gót ngọc ngồi xuống kia để rôi từ từ nói rõ cho tiểu thư nghe.

    Nữ lang nói:

    - Ngươi chỉ dềnh dàng mãi thôi. Nói mau đi không được ư... Ta đâu có thì giờ để nghe ngươi nói hươu nói vượn...

    Đoàn Dự nói:

    - Hôm nay tiểu thư chưa được rảnh vậy sáng mai lại đây tìm tôi cũng được. Trừ phi phu nhân có cắt lưỡi tôi đi còn thì tiểu thư hỏi đâu tôi xin nói đấy mà nói hết lời không sót mảy may.

    Nữ lang khẽ dậm chân một cái nhìn Tiểu Thi nói:

    - Phu nhân có nói gì nữa không...

    Tiểu Thi nói:

    - Phu nhân đã có ý đến Bách Cầm kiếm công trị phu nhân đánh cờ nhưng vừa nghe tin công tử Mộ Dung đến chùa Thiếu Lâm liền ra lệnh quay thuyền về ngay.

    Nữ lang hỏi:

    - Sao thế...

    Rồi nàng không chờ Tiểu Thi trả lời lẩm bẩm một mình: "Chà! Mẫu thân sợ công trị phu nhân lại yêu cầu người ra tay giúp sức nên vờ như không biết là xong".

    Tiểu Thi nói:

    - Tiểu thư! Cháu sợ phu nhân kiếm, xin cho cháu đi!

    Nữ lang nói:

    - Ừ! Việc này ta không nói với ai đâu nhé. Tùy mi có muốn đem kể với ai thì cứ việc mà kể.

    Tiểu Thi vội nói:

    - Xin tiểu thư chớ nói với ai thì cháu mới có thể ở đây hầu hạ tiểu thư vài năm nữa được.

    Nữ lang mỉm cười. Tiểu Thi cáo biệt rồi trở gót đi ngay. Đoàn Dự liếc mắt thấy nàng tỏ vẻ kinh sợ nghĩ thầm: "Vì mẫu thân nàng giết người như ngóe nên ai ai cũng phải kinh sợ".

    Nữ lang từ từ bước lại chỗ phiến đá, lẹ làng ngồi xuống. Nàng không mời Đoàn Dự mà chàng cũng không dám mạo muội đến gần nàng. Chàng đứng nhìn thấy có một khóm bạch trà gần chỗ nàng ngồi, còn hai khóm nữa xa hơn một chút. Người đẹp ngồi gần danh hoa, phong cảnh lại càng tuyệt mỹ. Rồi chàng đọc câu thơ của Lý Thái Bạch đem hoa mẫu đơn để tả cái đẹp của Dương Quý Phi. Chàng còn than cho Lý Thái bạch không có diễm phúc được nhìn thấy vẻ kiều diễm của nữ lang đây còn hơn Dương Quý Phi nhiều.

    Nữ lang nói:

    - Ngươi không ngớt khen ta đẹp chẳng biết có đúng không...

    Đoàn Dự tỏ vẻ sửng sốt la lên:

    - Trời ơi! không biết vẻ đẹp của Tử Đô đời chiến quốc đã là người không có mắt. Đó mới là một chàng trai mà người ta còn bình phẩm như vậy, huống chi cô nương là một kỳ công của vũ trụ... Tiểu thư ra đời thì bao nhiêu bài thơ tán dương sắc đẹp từ xưa đến nay không còn ai muốn để vào tai nữa.

    Nữ lang từ từ lắc đầu, khóe mắt hơi lộ vẻ bâng khuâng nói:

    - Trước nay ta chưa thấy ai nói đến ta đẹp hay không. Ở Mạn đà sơn trang này trừ mẫu thân ta còn toàn kẻ hầu người hạ. Bọn chúng chỉ biết ta là tiểu thư của chúng, thì còn ai dám nói đến ta đẹp hay xấu...

    Đoàn Dự hỏi:

    - Thế còn người ngoài cũng không ai nói gì sao...

    Nữ lang hỏi:

    - Ngươi bảo người ngoài nào...

    Đoàn Dự nói:

    - Khi tiểu thư ra ngoài, người ta nhìn thấy tiểu thư như tiên nương giáng trần chẳng lẽ họ cũng im mồm sao...

    Nữ lang:

    - Ta chưa từng ra khỏi nhà, mà ra ngoài làm gì... Ta sang Lang Hoàn các xem sách, mẫu thân còn chẳng muốn cho đi. Có đi thì cửa sổ dưới thuyền che kín hết, gió không lọt vào được.

    Đoàn Dự gật đầu hỏi:

    - À ra quả có Lang Hoàn các thật. Nơi đó có nhiều sách lắm phải không...

    Nữ lang đáp:

    - Cũng không nhiều. Chừng bốn năm gian nhà sách thôi.

    Đoàn Dự hỏi một cách đột ngột:

    - Thế còn chàng... chàng cũng không bàn đến vẻ đẹp của tiểu thư ư...

    Nữ lang thấy Đoàn Dự đề cập đến Mộ Dung công tử, từ từ cúi đầu xuống, rồi thấy một tiếng nấc rất êm nhẹ, như tiếng đàn sắt thoảng lọt vào tai chàng. Tiếp theo tiếng nấc là mấy giọt lệ rơi trên ngọn cỏ, trông bóng như hạt ngọc hay như hạt sương buổi sớm mai. Đoàn Dự thấy vậy không dám hỏi nữa và cũng không biết nói thế nào để an ủi nàng. Hồi lâu nàng mới nghẹn ngào nói:

    - Chàng... chàng mắc bận nhiều quá, quanh năm không được lúc nào nhàn rỗi. Họa hoằn mới có khi chàng gặp ta, phi nói chuyện võ công là bàn đến việc lớn nhà nước. Ta... ta chán võ công lắm rồi.

    Đoàn Dự vỗ đùi reo lên:

    - Tiểu thư dạy đúng lắm! Tôi cũng ngán ngẩm vô cùng. Chả thế mà bá phụ và gia gia tôi ép học môn gì tôi cũng không chịu rồi bỏ nhà đi trốn.

    Nữ lang thở dài nói:

    - Ta mong gặp chàng nên dù trong lòng có chán ngán võ công mà vẫn phải gia tâm nghiên cứu, phòng khi có chỗ chàng chưa thấu đáo thì ta phải giảng cho chàng nghe. Bất luận triều đại nào, vua quan nào, quanh đi quẩn lại toàn chuyện đâm chém nhau. Bản tâm ta không muốn biết đến những vụ đó thì lại là những món mà chàng ưa thích nhất. Thế ra ta có sách cũng chỉ là học cho chàng chứ không phải đọc cho ta.

    Đoàn Dự rất lấy làm kỳ hỏi lại:

    - Sao tiểu thư lại phải xem sách hộ chàng... tự chàng không đọc lấy cho chàng được hay sao...

    Nữ lang nguýt Đoàn Dự một cái rồi hỏi:

    - Ngươi tưởng chàng dốt chữ hay đui mù phải không...

    Đoàn Dự vội cải chính:

    - Không! không phải thế! Tôi muốn hỏi chàng có phải là người hay nhất thiên hạ không...

    Tuy chàng hỏi vậy để gỡ lại mà trong lòng chua xót vô hạn. Nữ lang mỉm cười đáp:

    - Chàng là biểu huynh ta. Trong trang này trừ cửu phụ, cửu mẫu và biểu huynh ta thì không có ai tới nữa. Về sau cửu phụ cùng mẫu thân xảy vụ xích mích từ đó cấm cửa cả biểu huynh ta, không cho đến nữa. Ta cũng chẳng hiểu chàng có phải là người hay nhất trần đời không, mà cũng chẳng biết ai hay dở, và thế nào là hay, thế nào là dở.

    Nàng nói mấy câu sau quầng mắt đỏ hoe, rớm lệ. Đoàn Dự nói:

    - Trời ơi! thế ra mẫu thân tiểu thư là em gái của cửu phụ tiểu thư, còn chàng... chàng là... con trai của cửu phụ tiểu thư phải không...

    Nữ lang bất giác phì cười đáp:

    - Ta xem chừng ngươi có tính dớ dẩn, ngây ngô. Ta là con gái mẫu thân ta thì chàng là biểu huynh ta chứ gì...

    Đoàn Dự thấy mình làm cho nàng phải phì cười thì lấy làm thú vị nói:

    - Vâng! Tôi hiểu rồi chắc là biểu huynh tiểu thư bận quá, không có thì giờ đọc sách nên tiểu thư phải đọc giùm.

    Nữ lang cười nói:

    - Kể ra nói thế cũng phải, nhưng ở trong còn có nguyên nhân khác. Thôi bây giờ ta hỏi ngươi: tại chùa Thiếu Lâm có những môn phái nào đến họp... Và họ mở cuộc anh hùng đại hội làm gì...

    Đoàn Dự nhìn thấy trên đầu mi nàng còn đọng một hạt nước mắt, chàng liên tưởng đến cảnh đẹp của hoa lê còn đọng hạt mưa hay đóa mai côi còn động hạt móc. Nữ lang chờ hồi lâu thấy Đoàn Dự tần ngần không đáp, liền chìa tay ra để lên mu bàn tay chàng đẩy nhẹ một cái hỏi:

    - Ngươi nghĩ gì vậy...

    Đoàn Dự giật nẩy mình la lên:

    - Ối chao!

    Nữ lang cũng giật mình hỏi:

    - Sao thế...

    Đoàn Dự đỏ bừng mặt đáp:

    - Tiểu thư đưa ngón tay chỉ lên tay tôi, tôi lại tưởng tiểu thư điểm huyệt.

    Tiểu thư không biết là chàng nói giỡn, giương cặp mắt tròn lên nhìn chàng nói:

    - Trên mu bàn tay làm gì có huyệt đạo... Ba huyệt "dịch môn", "trung chử", "dương trì" đều ở cườm tay, hai huyệt "tiền khoát", "dưỡng lão" ở gần cổ tay lại càng xa hơn nữa.

    Nàng vừa nói vừa giơ tay mình ra chỉ cho chàng xem. Đoàn Dự thấy ngón trỏ bên tay trái nàng tròn trĩnh như ngó hành điểm trên mu bàn tay trắng nõn bất giác cảm thấy khát khô cả họng và đầu óc choáng váng chàng hỏi:

    - Cô nương tên họ là gì...

    Thiếu nữ đáp:

    - Ngươi thật là cổ quái! Thôi ta cho ngươi biết tên cũng chẳng hại gì. Đoạn nàng lấy ngón tay vạch lên mu bàn tay mình ba chữ: "Vương Ngọc Yến". Đoàn Dự run lên nghĩ thầm: "một vị tiểu thư diễm lệ thế này cần phải có cái tên cho cực kỳ văn nhã lịch sự mới phải, sao lại đặt là Vương Ngọc Yến... Nghe chẳng thoát tục chút nào. Chẳng những không thanh nhã bằng A Châu, A Bích mà còn kém cả những tên mấy ả nha hoàn: Tiểu Thi, Tiểu Trà, Tiểu Thúy nữa". Song rồi chàng nghĩ lại vỗ trán lẩm bẩm: "Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Cái tên Ngọc Yến tượng trưng cho sự trong trắng không ngấn vết mà lại bay lượn nhẹ nhàng trên không như chim én".

    Vương Ngọc Yến mỉm cười nói:

    - Tên họ con người cốt đặt để gọi cho nghe được thì thôi. Sử sách đã cho ta biết bao nhiêu hạng đại gian đại ác mang những tên cực hay cực đẹp. Tỷ như Tào Tháo mà chẳng có tiết tháo chút nào, Chu Toàn Trung lại là một gã đại bất trung. Như ngươi là Đoàn Dự thì cái tên Dự có đẹp không... Danh dự ngươi có lững lẫy không... ta chỉ e là cái tên trống rỗng.

    Đoàn Dự nói xen vào:

    - ... điếu dự.

    Hai người đều cả cười. Bộ mặt Vương Ngọc Yến tuy cực kỳ diễm lệ nhưng vẫn đượm vẻ ưu tư. Lúc này nàng bật lên tiếng cười khanh khách, trong lòng vui vẻ, thoáng quên mối lo âu hằng ấp ủ trong lòng, càng tăng vẻ kiều diễm xinh tươi.

    Đoàn Dự nghĩ thầm: "Nếu ta dẫn dụ cho nàng mở miệng tươi cười thì cuộc đời ta cũng thoả mãn lắm rồi, còn mong gì hơn nữa...". Không ngờ Vương Ngọc Yến chỉ cao hứng được giây lát rồi đôi mắt nàng lại mơ màng lộ ra một mối buồn mang mác. Nàng cất giọng ảm đạm nhẹ nhàng:

    - Chàng... chàng là người nghiêm nghị quá chừng, chẳng bao giờ chàng nói với ta một câu chuyện bâng quơ. Ôi Yên quốc! Yên quốc! Phải chăng đó là một vấn đề trọng yếu...

    Mấy chữ Yên quốc chạm vào khối óc Đoàn Dự, chàng vụt nảy ra một ý nghĩ đem chắp những chữ rời rạc với nhau: nào Mộ Dung thị, nào Yến tử ổ, nào Tham Hợp trang, nào Yên quốc buột miệng hỏi:

    - Phải chăng công tử Mộ Dung vốn dòng họ Tiên Ty ở đất Hồ chứ không phải người Trung Quốc...

    Vương Ngọc Yến đáp:

    - Đúng đó! Chàng là Vương tôn dòng họ Mộ Dung ở Yên quốc. Trải qua đã mấy trăm năm sao còn giữ quan niệm cũ kỹ của tổ tiên... Chàng muốn giữ bản chất người Hồ, không làm người Trung Quốc mà cũng không học chữ Trung Quốc. Chàng không đọc sách Trung Quốc nhưng ta xem sách Trung Quốc chẳng có gì là dở. Có lần ta bảo chàng viết chữ lối Tiên Ty thì chàng lại cáu kỉnh.

    Vương Ngọc Yến nói chuyện Mộ Dung công tử xong từ từ ngẩng đầu lên buông tầm mắt nhìn mây trắng lơ lửng xa xa, trong lòng nàng dào dạt nỗi đăm chiêu. Nàng nói bằng một giọng nhỏ nhẹ:

    - Chàng... chàng lớn hơn ta mười tuổi và ta chỉ vào hạng em gái út chàng. Ngoài việc đọc sách học võ ra ta chẳng biết việc gì nữa. Chàng có hiểu đâu rằng ta đọc sách là đọc cho chàng, luyện võ cũng vì chàng. Ta tưởng thà nuôi mấy con gà nhỏ, cho nó nhảy nhót, hoặc gảy đàn viết chữ mà chơi còn thú hơn.

    Đoàn Dự cất tiếng run run hỏi:

    - Tiểu thư tận tâm như vậy... mà chàng không biết ư...

    Vương Ngọc Yến đáp:

    - Ta tận tâm với chàng, chàng có biết chứ. Chàng cũng rất tốt với ta. Nhưng... nhưng đôi ta chẳng khác gì anh em ruột, ngoài câu chuyện đứng đắn chàng không nói với ta một chuyện gì khác. Lòng chàng nghĩ ngợi điều gì chàng không cho ta hay và cũng chẳng bao giờ chàng hỏi đến tâm sự của ta.

    Nói tới đây, má nàng ửng đỏ ra chiều e lệ, lại càng nổi lên một vẻ đẹp quyến rũ mê hồn. Đoàn Dự toan cất lời hỏi đùa nàng: "Tiểu thư có tâm sự gì trong lòng... ". Nhưng thấy nàng bẽn lẽn nên không dám đường đột liền xoay chiều câu hỏi:

    - Tiểu thư cùng chàng bàn văn, luận võ có lúc nào đề cập đến những khúc "Tử dạ ca" hoặc "Hội chân ký" không...

    Chàng hỏi vậy để gợi cho nàng những thi ca miêu tả ái tình để nàng đem ra đàm luận với công tử Mộ Dung. Nhưng câu nói vừa ra khỏi cửa miệng thì lòng chàng lại hối hận. Vì tuy nàng có tình với Mộ Dung công tử song chỉ ấp ủ trong lòng, không biết đường diễn tả cùng người yêu. Nay mình mớm lời cho nàng, phỏng có khác gì dạy khỉ trèo cây...

    Vương Ngọc Yến cả thẹn vội gạt đi:

    - Khi nào lại thế được... Mình phải giữ nền nếp con nhà khuê các nói ra để biểu huynh khinh thường ư...

    Đoàn Dự nói:

    - Vâng chính thế là phải!

    Tâm sự Vương Ngọc Yến chôn tận đáy lòng đã lâu nay không hé môi, hé lợi cùng ai chỉ có mình biết với mình nay gặp Đoàn Dự là người có tính cách hời hợt phóng lãng, không hiểu sao nàng lại tin chàng đến thế, đem hết chuyện tâm tình thổ lộ cùng chàng. Thực ra chuyện nàng thầm yêu biểu huynh Mộ Dung thì A Châu, A Bích cùng lũ nha hoàn Tiểu Trà Tiểu Thi đều biết hết, có điều không nói ra mà thôi.

    Vương Ngọc Yến sau khi dốc bầu tâm sự, trong lòng cảm thấy hơi nhẹ nhõm nàng nói tiếp:

    - Vừa rồi ta đã nói với ngươi nhiều chuyện vớ vẩn chưa vào chính đề. Tại chùa Thiếu Lâm hiện có những ai tụ họp... Sao bọn họ lại muốn gây sự với biểu huynh ta...

    Đoàn Dự đáp:

    - Phương trượng chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ đại sư có một vị sư đệ là Huyền Bi đại sư, sở trường về phép "Kim Cương chỉ".

    Vương Ngọc Yến gật đầu ngắt lời:

    - Đó là môn thứ 48 trong 72 môn tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm. Chỉ pháp này gồm 19 miếng phóng ra cực kỳ hung mãnh.

    Đoàn Dự tiếp:

    - Huyền Bi đại sư không biết vì sao bị người đánh chết mà kẻ địch lại hạ thủ bằng chính cái môn sở trường của đại sư, là phép "Kim Cương chỉ". Họ cho rằng cái lối giết người đó chỉ có nhà Mộ Dung làm được, gọi là lối "gậy ông đập lưng ông". Vì thế nên phái Thiếu Lâm quyết chí tìm đến nhà Mộ Dung để báo thù. Nhận thấy võ công nhà Mộ Dung cực kỳ lợi hại, họ sợ không địch nổi nên hội họp các phái võ lại để thương nghị phương pháp đối phó.

    Vương Ngọc Yến nói:

    - Ngươi nói rất có lý, nhưng trừ phái Thiếu Lâm ra còn những ai...

    Đoàn Dự đáp:

    - Còn Kha Bách Tuế phái Tung Sơn cũng bị sát hại về môn "Linh Xà Chiều Đẩu" gì đó là môn tuyệt kỹ của họ.

    Vương Ngọc Yến nói:

    - Hừ, phái Tung Sơn có 29 thế "Bách Thắng Nhuyễn Tiên" mà "Linh Xà Chiều Đẩu" là miếng võ thứ tư biến ra. Tuy lối đánh kỳ dị nhưng không được liệt vào hạng võ học thượng thừa.

    Đoàn Dự tiếp:

    - Kha Bách Tuế chết về thế võ "Linh Xà Chiều Đẩu". Sư đệ cùng đồ đệ cùng tìm Mộ Dung để báo thù. Ngoài ra... ngoài ra còn có không biết bao nhiêu người nhưng tôi không hiểu võ công nên không nhớ được nhiều.

    Chàng tự nghĩ: "Họ Đoàn nước Đại Lý ta cũng có tham dự vào công cuộc đả phá Mộ Dung nhưng chẳng nên nói ra".

    Vương Ngọc Yến nói:

    - Ta vốn biết tính khí biểu huynh ta. Chàng mà nghe thấy có nhiều người đối đầu với mình là chàng tìm đến họ trước. Nhưng chàng sao hiểu hết được các môn tuyệt kỹ của mọi người. Huống chi phe địch lại đông, nếu họ nhất tề ra tay, dễ gì mà thắng họ được...

    Nói tới đây bỗng có hai ả nha hoàn Tiểu Thi và U Thảo chạy đến. U Thảo mặt sợ tái xanh nói:

    - Tiểu thư ơi! nguy... nguy đến nơi rồi. Phu nhân hạ lệnh đem hai chị A Châu, A Bích...

    Nói tới đây U Thảo như bị nghẹn họng không sao thốt ra lời nữa. Tiểu Thi phải nói tiếp:

    - Đem hai chị ấy ra chặt cánh tay phải, phạt các chị về tội thiện tiện lén đến Mạn đà sơn trang. Biết làm... thế nào bây giờ...

    Đoàn Dự vội nói:

    - Vương cô nương... cô nương... mau tìm cách cứu bọn họ mới được.

    Vương Ngọc Yến cũng nóng ruột nói:

    - Châu, Bích là hai đứa thị tỳ tâm phúc của biểu huynh ta. Nếu để chúng thành phế nhân thì ta còn mặt mũi nào với biểu huynh nữa... U Thảo! Hiện giờ chúng ở đâu...

    U Thảo vốn là bạn thân với A Châu, A Bích, nghe tiểu thư có ý giải cứu cho, thấy có một tia hy vọng vội đáp:

    - Phu nhân truyền đưa hai chị ấy xuống Hoa phi phòng. Cháu đã xin Nghiễm Bà rồi hãy động thủ. Bây giờ tiểu thư nên lên cầu khẩn phu nhân, may ra còn kịp.

    Vương Ngọc Yến nghĩ thầm: "Năn nỉ mẫu thân chưa chắc đã ăn thua nhưng cũng không còn cách nào khác". Nàng gật đầu rồi cùng Tiểu Thi, U Thảo đi luôn.

    Đoàn Dự nhìn bóng sau lưng nàng đi rất mau lẹ muốn chạy theo nói thêm vài câu. Nhưng vừa chạy theo không biết nói sao liền tần ngần đứng lại.

    Vương Ngọc Yến chạy mau lên nhà trên thấy mẫu thân đang đốt lò trầm, khói hương cuồn cuộn bay lên và sắp vào tĩnh tọa nhập định thì phải mất hàng nửa ngày không dám đến quấy nhiễu vội nói ngay:

    - Thưa mẫu thân! Con có điều trình mẫu thân.

    Vương phu nhân từ từ giương mắt lên nhìn vẻ mặt cực kỳ nghiêm nghị nói:

    - Việc gì có liên quan đến nhà Mộ Dung là ta không nghe đâu đấy!

    Vương Ngọc Yến nói:

    - Thưa mẫu thân! A Châu, A Bích chuyến này không phải có chủ ý đến đây. Con tưởng mẫu thân nên tha cho chúng một phen.

    Vương phu nhân hỏi:

    - Sao con biết chúng không có chủ ý đến đây... Con sợ ta chặt tay chúng thì biểu huynh không nhìn nhõi đến con nữa phải không...

    Vương Ngọc Yến mắt đẫm lệ nói:

    - Biểu huynh con cũng là cháu mẫu thân. Sao mẫu thân... lại oán hận chàng... dù mẫu thân có điều xích mích với cữu phụ, mẫu thân cũng chẳng nên giận lây đến biểu huynh con.

    Nàng đánh bạo nói mấy câu mà trống ngực đánh thình thình, mình lại tự hỏi mình: "Sao ta dám cả gan mở miệng lý sự cả với mẫu thân...".

    Vương phu nhân mắt sáng như hai luồng điện lướt qua mặt cô con mấy lần, không nói năng gì rồi nhắm mắt lại. Vương Ngọc Yến không dám thở mạnh, không hiểu trong lòng mẫu thân đang nghĩ gì mà ý định thế nào... Hồi lâu phu nhân mới mở mắt ra hỏi:

    - Sao con biết ta có chuyện xích mích với cữu phụ... Xích mích ở chỗ nào...

    Vương Ngọc Yến nghe giọng nói mẫu thân lạnh như băng giá lại càng sợ hãi, không nói nên lời. Vương phu nhân tiếp:

    - Con giỏi lắm! Bây giờ con lớn tuổi rồi, bất tất phải nghe lời ta nữa...

    Vương Ngọc Yến vừa bực mình vừa sợ, nước mắt tuôn rơi nói:

    - Câu chuyện khiến mẫu thân hờn giận cữu phụ dĩ nhiên là cữu phụ có điều không phải với mẫu thân. Cữu phụ khinh khi mẫu thân thế nào mẫu thân chưa từng nói với con.

    Vương phu nhân lớn tiếng hỏi:

    - Con đã nghe ai thuật lại chưa...

    Vương Ngọc Yến lắc đầu đáp:

    - Mẫu thân có cho con ra khỏi Mạn đà sơn trang bao giờ đâu... Cũng chẳng cho một người ngoài nào tới đây thì còn ai kể cho con nghe nữa...

    Vương phu nhân thở phào một cái nhẹ nhõm, giọng nói đã có vẻ hòa hoãn:

    - Ta muốn con thành người tử tế. Trên đời hạng lưu manh rất nhiều, chém ba ngày không hết. Con còn nhỏ tuổi lại là phận gái, không cho thấy mặt bọn chúng hay hơn.

    Nói tới đây bà vụt nhớ ra chuyện gì lại tiếp tục:

    - Còn tên thợ trồng hoa họ Đoàn, miệng nói tràng ba, khoát bảy không phải là người tốt. Gã chỉ nói với con một câu là phải hạ sát ngay không để cho gã nói đến câu thứ hai. Con có biết không...

    Vương phu nhân lại hỏi:

    - Con không hạ thủ được chăng... Xem chừng cái bộ mặt hiền lành, cái trái tim mềm nhũn kia suốt một đời người sẽ bị không biết bao nhiêu lần bịp bợm.

    Phu nhân vỗ tay hai cái, Tiểu Thi tiến lại gần. Phu nhân nói:

    - Mi truyền lệnh cho mọi người hay là ta ra lệnh: bất cứ ai còn nói với tên thợ trồng hoa họ Đoàn một câu nào là ta lập tức cho cắt lưỡi cả hai đứa.

    Tiểu Thi nghe phu nhân nói sợ xám mặt, đáp một tiếng: "Vâng " rồi lui ra. Vương phu nhân lại xua tay bảo cô:

    - Con cũng đi ra!

    Vương Ngọc Yến vâng lời chạy ra đến cửa dừng bước quay đầu lại nhắc:

    - Xin mẫu thân tha cho A Châu, A Bích và dặn bọn y từ nay không được bén mảng tới đây nữa.

    Vương phu nhân lạnh lùng đáp:

    - Ta đã nói rồi mà! Có bao giờ ta nói hai lời đâu... Con đừng nhiều lời vô ích.

    Vương Ngọc Yến nghiến răng nói khẽ:

    - Con biết vì sao mà mẫu thân giận cữu phụ, vì sao mà mẫu thân giận biểu huynh rồi.

    Dứt lời nàng dậm chân nhè nhẹ một cái, đoạn ra khỏi phòng. Phu nhân gọi:

    - Trở lại đây đã!

    Vương Ngọc Yến nghe mẫu thân truyền lệnh đầy vẻ uy nghiêm lại bước vào phòng cúi đầu không nói gì. Vương phu nhân vừa nhìn làn khói hương xanh ngắt bay quanh đi quẩn lại vừa nói:

    - Yến nhi! Con biết câu chuyện thế nào... đừng có giấu ta! Con nói hết đầu đuôi cho ta nghe!

    Vương Ngọc Yến mím môi nói:

    - Con biết mẫu thân buồn vì cữu phụ không chịu đua hơi với đời, lại giận biểu huynh chẳng chuyên tâm học võ để có thể sáng lập ra môn phái Mộ Dung.

    Vương phu nhân cười lạt hỏi:

    - Mi còn là tuồng con nít, biết gì... Hơn nữa ta đã thành ngoại tộc rồi, có còn ở trong họ Mộ Dung nữa đâu... Phái Mộ Dung lập nên được hay không, có can dự gì đến ta...

    Vương Ngọc Yến nói:

    - Con biết rồi! Mẫu thân giận mình phận gái không thì đã lập ra môn phái Mộ Dung rồi. Mẫu thân trách cữu phụ cùng biểu huynh không chịu dốc lòng khôi phục Yên quốc, không chịu chú trọng đến võ công.

    Vương phu nhân hỏi:

    - Ai đã nói với con như vậy...

    Vương Ngọc Yến nói:

    - Tự con đoán ra thế.

    Vương phu nhân nói:

    - Ta chắc là biểu huynh kể cho con nghe, đúng không...

    Vương Ngọc Yến không muốn giấu mẫu thân mà cũng không chịu thừa nhận, nàng nín lặng không đáp.

    Vương phu nhân lại nói:

    - Biểu huynh con đường đường tấm thân nam tử, lại lớn hơn con mười tuổi đầu rồi mà không chịu học cho thành tài, không có chí tiến thủ, chỉ liêu biêu chẳng chịu làm gì. Thậm chí võ công còn thua cả con nữa. Thế là tiếng tăm nhà Mộ Dung bị y xóa nhòa rồi. Bốn chữ Cô Tô Mộ Dung oai phong lẫm liệt dư trăm năm nay, võ công của biểu huynh con như vậy có xứng đáng không...

    Vương Ngọc Yến nghe nói nét mặt lúc đỏ bừng lúc nhợt nhạt, nhận thấy lời mẫu thân quả là đúng lý, không biết trả lời ra sao.

    Vương phu nhân lại nói:

    - Hiện nay y lên chùa Thiếu Lâm, mấy tên thị tỳ hớt lẻo tự nhiên tong tả sang đây mách con chứ gì... Chà y lên chùa Thiếu Lâm phen này không bõ người ta chê cười cho thối óc hay sao... Ta chỉ cầu trời khấn Phật cho thiên hạ đừng tin cái bị thịt đó là con em nhà Mộ Dung ở Cô Tô. Không chừng chỉ đấu mấy hiệp là toi mạng nếu bọn họ không điều tra ra được là ai thế là may lắm rồi.

    Vương Ngọc Yến tiến lại gần ỏn thót:

    - Mẫu thân! Xin mẫu thân đi cứu biểu huynh con một phen. Họ Mộ Dung chỉ còn mình chàng nối dõi nếu chàng có mệnh hệ nào thì nhà Mộ Dung ở Cô Tô phải đoạn tôn, diệt tộc.

    Vương phu nhân cười lạt đáp:

    - Hừ! Cô Tô Mộ Dung! Nhà Mộ Dung có đoái hoài gì đến ta thì việc gì ta phải lo cho họ.

    Phu nhân biết mình nói thế là lỡ lời vội xua tay nói:

    - Thôi con đi ra đi!

    Vương Ngọc Yến:

    - Mẫu thân ơi! Biểu huynh...

    Vương phu nhân lớn tiếng:

    - Con này mỗi lúc một bướng bỉnh thêm!

    Vương Ngọc Yến nuốt lệ, cúi đầu đi ra, cõi lòng trống rỗng, không có định hướng, chẳng biết làm thế nào. Nằng cắm đầu đi tới dãy hành lang phía tây, thoảng nghe có tiếng người khẽ gọi:

    - Cô nương! Công việc ra sao...

    Vương Ngọc Yến ngửng đầu nhìn xem ai té ra là Đoàn Dự, nàng vội gạt đi:

    - Ngươi... ngươi đừng nói gì với ta nữa.

    Nguyên từ lúc Vương Ngọc Yến đi khỏi, chàng tần ngần đi theo sau rồi đứng chờ ngoài xa. Ngọc Yến ở trong phòng phu nhân đi ra, chàng cũng không tự chủ được lẽo đeo theo sau, mới nhìn nét mặt sầu thảm của nàng chàng đã biết ngay Vương phu nhân không ưng liền nói:

    - Phu nhân không thương cho thì ta tính cách khác chứ sao...

    Vương Ngọc Yến buồn rầu đáp:

    - Mẫu thân ta không nghe thì còn cách nào nữa... Người... người còn bảo biểu huynh ta lâm nguy và người bỏ mặc không ứng cứu.

    Nàng càng nói càng đau lòng, không cầm được nước mắt. Đoàn Dự hỏi:

    - Mộ Dung công tử cũng lâm nguy ư...

    Rồi chàng sực nhớ ra điều gì nói tiếp:

    - Võ công cô nương còn hơn công tử một bậc, sao cô nương không đi cứu chàng...

    Vương Ngọc Yến mắt đẫm lệ ngước lên nhìn Đoàn Dự trừng trừng, tựa hồ như câu chàng nói rất là kỳ dị. Lâu lâu nàng mới đáp:

    - Ta... ta đi thế nào được... Việc này mẫu thân còn khe khắt hơn.

    Đoàn Dự mỉm cười:

    - Dĩ nhiên là phu nhân không cho rồi. Cô nương không biết tự mình lén ra đi hay sao... Chính tôi đây cũng bỏ nhà trốn đi, rồi sau trở về cả gia gia và má má tôi cũng thôi, có trách phạt gì đâu...

    Vương Ngọc Yến nghe lời chàng khác nào ánh lửa soi vào chỗ tối. Nàng tự nhủ: "Phải lắm! Ta lén đi cứu biểu huynh ta, khi trở về đến bị mẫu thân đánh đòn là cùng chứ gì... Dù người có giết ta thì ta cũng đã cứu biểu huynh ta rồi". Nàng nghĩ đến chuyện đi cứu biểu huynh mà chịu gian nan vất vả thì lòng nàng vừa chua xót lại vừa phấn khởi. Nàng lẩm bẩm một mình:

    - Gã này đã trốn nhà ra đi. Ồ mà sao trước nay ta không nghĩ đến chuyện này...

    Đoàn Dự cực lực cổ võ cho nàng:

    - Cô nương cứ chui rúc ở xó Mạn Đà sơn trang này mãi sao không chịu ra ngoài mà xem bao cảnh hùng vĩ, thế giới bao la...

    Vương Ngọc Yến lắc đầu nói:

    - Ta tưởng cũng chẳng có gì đáng xem. Ta chỉ cần đi tiếp ứng biểu huynh để xem chàng có gặp nguy hiểm gì không nhưng ta chưa từng ra khỏi cửa nên chẳng biết Thiếu Lâm tự ở phương nào.

    Đoàn Dự vội nói:

    - Tôi xin đi với cô nương, dọc đường có chuyện gì cô nương chưa rành nhất thiết tôi sẽ ứng phó giùm cho là được.

    Vương Ngọc Yến đang lúc chưa có chủ ý gì, nàng phân vân chưa quyết thì Đoàn Dự lại hỏi luôn:

    - Còn bọn A Châu, A Bích ra sao...

    Vương Ngọc Yến đáp:

    - Mẫu thân ta không chịu nhiêu dung.

    Đoàn Dự nói:

    - Trời không chịu đất thì đất chẳng chịu trời. Nếu để bọn này nị chặt chân tay tất biểu huynh cô nương sẽ trách cứ đến cô. Sao bằng cứu cả hai nàng đó rồi cả bốn người ta cùng giông thẳng một lèo...

    Ngọc Yến lắc đầu lè lưỡi nói:

    - Đó là một hành động đại nghịch, khi nào mẫu thân ta chịu để yên... Ngươi thật là một gã bạo hổ hằng hà.

    Đoàn Dự đoán tâm lý biết rằng ngoại trừ việc có liên quan đến biểu huynh nàng thì không còn điều gì lay chuyển được nàng liền dùng kế tấn công bằng cách xin thoái bộ, chàng nói:

    - Đã thế thì chúng ta ra đi tức khắc, bỏ mặc hai nàng A Châu, A Bích cho phu nhân chặt tay. Sau này biểu huynh cô nương có hỏi đến thì chỉ việc bảo chàng mình không hay biết gì là xong. Tôi nhất định giữ bí mật chuyện này.

    Vương Ngọc Yến vội đáp:

    - Không được! Không được! Thế thì ta dối trá cả biểu huynh ta hay sao...

    Nàng ngần ngừ một lúc rồi than rằng:

    - Trời ơi! A Châu, A Bích là hai tên thị nữ tâm phúc của chàng, hầu hạ chàng từ thuở nhỏ, chẳng khác chi tình ruột thịt, nếu để bọn y bị cụt chân cụt tay thì họ Mộ Dung sẽ cùng họ Vương kết thành một mối thâm cừu.

    Nàng dẫm chân xuống đất nói:

    - Ngươi đi theo ta!

    Đoàn Dự nhìn nàng đi như bay về góc tây bắc trong lòng rung động thầm nghĩ: "giả tỷ mình đừng khuyên nàng cứu A Châu, A Bích có phải giữa Mộ Dung công tử và nàng có một mối chia rẽ trầm trọng không... Nhưng nếu mình giữ ý nghĩ độc ác như vậy, giương mắt ra mà nhìn Châu, Bích bị thảm hình thì lòng không yên".

    Ta nên biết rằng Đoàn Dự tuy ăn phải bả tình cực kỳ trầm trọng nhưng tâm địa chàng rất lương thiện, không chịu hại người để lợi cho mình.

    Chớp mắt Vương Ngọc Yến đã đến cửa một căn nhà đá lớn, cất tiếng gọi:

    - Bình má má! Mụ ra đây ta bảo.

    Bỗng từ trong thạch ốc vẳng ra một chuỗi cười "khặc khặc" và giọng nói rất khô khan:

    - Cô nương đến coi mụ chế hoa phì đó phải không...

    Lúc nãy Đoàn Dự đã nghe thấy U Thảo cùng Tiểu Thi bảo A Châu và A Bích đã bị tống vào trong "hoa phì phòng" gì đó nhưng chàng không để ý. Bây giờ lại nghe giọng nói hắc sì sì "chế hoa phì", bất giác khẽ la lên:

    - Trời ơi! Họ làm đồ bón hoa! Phải rồi! Vương phu nhân thật là tàn nhẫn đến cùng cực, đem người chôn sống, chặt ra để bón trà, chỉ chậm lát nữa là A Châu, A Bích sẽ bị chặt tay để dùng vào việc này. Bây giờ biết làm thế nào...

    Trống ngực đánh thình thình, mặt chàng cắt không còn hột máu.

    Vương Ngọc Yến nói:

    - Bình má má ơi! Mẫu thân có việc cần, mụ ra ngay đây.

    Trong thạch ốc lại có tiếng hỏi vọng ra:

    - Bình má má đang mắc câu chuyện. Phu nhân có việc chi cần kíp mà cô nương phải thân hành đến đây...

    Vương Ngọc Yến nói:

    - Mẫu thân ta bảo... chà! Đã đem bọn chúng đến đây chưa...

    Nàng vừa nói vừa bước vào trong nhà đá. Nhìn thấy A Châu, A Bích bị trói treo lên hai cây cột sắt, miệng nhét đầy hạt trái cây. Hai mắt nàng đẫm lệ mà miệng nói không ra tiếng. Đoàn Dự cũng ghé đầu vào coi, thấy hai nàng chưa việc gì mới hơi yên tâm. Nhưng khi nhìn ra hai bên thì trống ngực lại đánh hơn trống làng. Một mụ già lưng còng đầu tóc bạc phơ, tay cầm một lưỡi gươm trường sáng loáng, bên cạnh mụ là cái vạc nước sôi sùng sục.

    Vương Ngọc Yến cười nói:

    - Mẫu thân ta bảo mụ hãy buông hai đứa này ra để ta dẫn chúng lên cho người tra hỏi ngọn ngành một việc khẩn cấp đã.

    Bấy giờ Bình má má mới quay mặt ra. Đoàn Dự thấy mụ nhe cặp răng nanh nhọn hoắt chìa ra ngoài miệng, dường như để cắn người lạ mặt thì trong lòng cảm thấy khó chịu vô cùng. Bỗng thấy mụ gật đầu nói:

    - Vâng tra hỏi cho ra gốc ngọn, rồi lại đưa chúng nó xuống đây chặt chân tay.

    Mụ còn càu nhàu một mình:

    - Bình má má này bình sinh rất ghét những đứa gái xinh đẹp. Hai con lỏi này đem chặt chân tay đi là phải.

    Đoàn Dự nghe mụ nói tức lắm nghĩ bụng: "mụ la sát độc ác này không biết đã giết chết bao nhiêu người rồi. Tiếc rắng sức mình trói gà không chặt, không thì tát cho mụ gẫy mấy cái răng rồi hãy gỡ cho A Châu, A Bích ra".

    Bình má má tuy tuổi già nhưng còn thính tai lắm. Đoàn Dự đứng bên ngoài thở mạnh bị mụ nghe rõ, mụ liền hỏi:

    - Đứa nào đứng ngoài đấy...

    Rồi mụ thò đầu ra ngoài trông thấy Đoàn Dự, trong lòng sinh nghi hỏi ngay:

    - Mi là ai...

    Đoàn Dự cười đáp:

    - Tôi là thợ trồng hoa, vâng lệnh Vương phu nhân trông mấy khóm bạch trà, đến đây hỏi má má xem có đồ bón chưa...

    Bình má má đáp:

    - Mi chờ một lúc nữa sẽ có!

    Mụ quay sang hỏi Vương Ngọc Yến:

    - Tiểu thư! Mộ Dung thiếu gia cưng hai con nha hoàn này lắm phải không...

    Vương Ngọc Yến không biết nói dối, buột miệng trả lời:

    - Đúng rồi! Mụ đừng giết chúng hay hơn.

    Bình má má gật đầu nói:

    - Tiểu thư! Phải chăng phu nhân đang nhập định...

    Vương Ngọc Yến đáp:

    - Phải rồi!

    Nàng vừa buột miệng đã biết lỡ lời giơ tay lên bịt miệng lại. Đoàn Dự ngấm ngầm than rằng:

    - Chết rồi! Cô này không biết nói dối.

    Bình má má giả vờ tuổi già lẫn lộn, làm bộ tuyệt không để ý đến chỗ vô tình bại lộ, mụ nói:

    - Dây trói chặt quá, tiểu thư lại đây giúp tôi một tay để cởi chúng nó ra.

    Vương Ngọc Yến gật đầu bước tới cạnh A Châu để cởi trói thì đột nhiên đánh tách một tiếng, một cái móc sắt hình cánh cung từ trong cột sắt bật ra, quàng lấy chiếc lưng thon Ngọc Yến rồi thít chặt vào.

    Vương Ngọc Yến kêu rú lên một tiếng. Cái vòng sắt chụp lấy lưng nàng chỉ còn hở có vài tấc, nàng cựa thế nào cũng không thoát ra được.

    Đoàn Dự cả kinh chạy lại quát hỏi:

    - Mi làm trò gì thế này... Mau buông tiểu thư ra!

    Bình má má lại rú lên mấy tiếng cười khành khạch, nói:

    - Phu nhân đã nhập định, khi nào còn truyền đem hai con lỏi này lên tra hỏi... Hơn nữa thiếu chi thị nữ, nha hoàn mà tiểu thư phải thân hành đến đây... Trong việc này tất còn có nhiều uẩn khúc kỳ quặc. Tiểu thư! Hãy chờ đây một lát để mụ lên bẩm lại phu nhân rồi sẽ xuống nói chuyện.

    Nguyên "Hoa phì phòng" này Vương phu nhân dùng làm chỗ chém giết người. Trong nhà đá đặt đủ các cơ cấu chế phục tù đồ, muốn giết ****c cách nào thì tha hồ mà hạ thủ. Bình má má là một tay thâm độc vô cùng, xuất thân trong nghề hắc đạo với cái ngoại hiệu "Độc Cước Nữ Đạo". Tay mụ đã gây ra không biết bao nhiêu vụ huyết án, giết bao nhiêu mạng người. Vương phu nhân chế phục được mụ rồi, thấy mụ tinh lanh được việc, giao cho mụ công tác chém giết tại "Hoa phì phòng". Mụ làm rất đắc lực. Mụ thấy cử chỉ nói năng của Vương Ngọc Yến có nhiều chỗ khả nghi, mụ còn biết rõ Vương phu nhân rất oán ghét nhà Mộ Dung và thầm lo võ nghệ tiểu thư cực kỳ lợi hại, mình quyết không địch nổi. Giả tỷ nàng đã ra lệnh mà mình không nghe tất đi đến chỗ cưỡng bức mình phải tha người. Mụ đành tính nước liều, phát động cơ quan để giữ nàng lại.

    Vương Ngọc Yến tức giận nói:

    - Mụ không phải lên đâu, xuống đâu, buông tha ta ngay!

    Bình má má đáp:

    - Thưa tiểu thư! Tiểu thư xét lại cho, mụ lúc nào cũng giữ tấc dạ trung thành với phu nhân, không dám làm điều gì mảy may lầm lẫn. Xin tiểu thư chờ mụ lên hỏi lại phu nhân, nếu quả đúng như lời tiểu thư, thì mụ xin đập đầu tạ tội với tiểu thư sau.

    Vương Ngọc Yến rất đỗi hoang mang, gọi giật lại:

    - Này này! Mụ đừng hỏi lại mẫu thân ta nữa! Người làm ầm lên bây giờ!

    Bình má má vốn là một mụ đại gian ngoan, thấy nàng hốt hoảng như vậy càng nhìn rõ Ngọc Yến phản bội mẫu thân, giở trò quỷ quái lừa bịp mình để gỡ hai đứa thị tỳ tâm phúc của biểu huynh nàng. Mụ biết rõ là tiểu thư giả truyền hiệu lệnh của phu nhân. Nếu mình hớ hênh thả hai đứa này ra là nàng thừa cơ đưa đi tức khắc. Mụ đáp:

    - Không sao! Tiểu thư chờ đây một lát! Mụ xin trở lại ngay mà!

    Vương Ngọc Yến vẫn cố ngăn lại nói:

    - Mụ đừng đi! Hãy buông tha ta rồi hãy nói chuyện.

    Bình má má khi nào chịu nghe nàng. Mụ trở gót đi ngay ra cửa. Đoàn Dự thấy sự tình nguy cấp, vội giơ tay ra cản đường cười nói:

    - Mụ phải thả tiểu thư ra trước đã rồi hãy lên hỏi phu nhân, có hay hơn không... mụ không nhớ người ta thường nói rằng: "Quan xa bản nha gần" hay sao... Mụ là người ngoài, đắc tội với tiểu thư thì không yên thân được đâu.

    Bình má má liếc đôi mắt ti hí nhìn Đoàn Dự, rồi nghẹo đầu nói:

    - Thằng lỏi này xem ra cũng có điều xảo trá đây.

    Mụ vừa nói vừa giơ tay chụp lấy cổ tay Đoàn Dự. Chàng vừa bị mụ giữ chặt mạch môn đã cảm thấy toàn thân bị tê liệt. Tuy trong người chàng có nội lực cực kỳ thâm hậu song không biết sử dụng chịu để cho Bình má má lôi lại bên cột sắt, bấm nút cơ quan. Vừa "cách" một tiếng, cái vòng thép đã bật ra chụp ngang lưng chàng.

    Bình má má vừa chạm bàn tay vào cổ tay Đoàn Dự đã cảm thấy nội lực trong mình cuồn cuộn thoát ra không ngớt, khó chịu quá không biết đến đâu mà kể. Mụ đưa vòng thép quàng lấy lưng chàng xong liền giật tay ra ngay.

    Đoàn Dự thấy tình trạng nguy ngập quá liền giơ tay lên vừa ôm chặt lấy cổ tay mụ vừa nói:

    - Mi chớ đi!

    Bình má má cả giận quát lên:

    - Buông tay ra!

    Mụ mở miệng quát, chân khí trong người càng tiết ra mau. Đoàn Dự từ khi ở chùa Thiên Long được bá phụ truyền thụ cho biết cách thu nạp chân khí vào huyệt đan điền nên nội lực trong người Bình má má bị "Chu Cáp thần công" hút sang người chàng, chàng vận dụng cho về chỗ chứa, không đến nỗi để chạy lung tung trong người như trước.

    Bình má má cố sức cựa quậy mà không sao gỡ ra khỏi hai cánh tay Đoàn Dự ôm ghì lấy. Mụ càng kinh hãi la lên:

    - Mi... mi biết phép "Hóa Công đại pháp" phải không... Mau buông ta ra!

    Đoàn Dự đối diện với bộ mặt quỷ dạ xoa của mụ, chỉ cách chừng một vài tấc mà lưng chàng bị vòng thép xiết chặt, không thể nào quay mặt ra chỗ khác được, phải nhìn bộ răng lồi vàng khè của mụ mà nôn oẹ. Nhưng chàng biết đang ở trong tình trạng nguy ngập khác nào khối nặng ngàn cân treo đầu sợi tóc. Giả tỷ mình buông tha mụ ra thì Vương Ngọc Yến tất nhiên sẽ bị trọng trách mà tính mạng mình cùng A Châu, A Bích cũng không bảo toàn được. Chàng đành nhắm mắt lại để khỏi phải nhìn thấy bộ mặt khiếp đảm của mụ.

    Bình má má vẫn tiếp tục la:

    - Mi... mi có buông tha ta không...

    Tiếng mụ đã phều phào gần như kiệt lực.

    Ta nên nhớ rằng nội lực trong thân thể Đoàn Dự càng nhiều thì hấp lực của "Chu Cáp thần công" càng mạnh. Buổi đầu tiên "Chu Cáp thần công" hút chân khí của bọn Phá Tham còn mất nhiều thì giờ về sau lại hút thêm toàn bộ nội lực của Huỳnh Mi tăng và Thạch Thanh Tử, rồi một phần nội lực của Bảo Định Đế và mấy vị hòa thượng chùa Thiên Long. Bây giờ chàng hút nội lực của Bình má má trong giây lát là hết. Bình má má tuy là người hung hãn nhưng nội lực làm gì có nhiều nên chỉ trong thời gian uống cạn tuần trà là tinh thần mụ đã bạc nhược, hơi thở yếu ớt, luôn miệng nói mấy câu: "Buông ta ra! Buông ta ra!" như người hết hơi.

    Đoàn Dự nói:

    - Mụ phải mở cơ quan tha ta trước đã.

    Bình má má chịu nước lép nói:

    - Xin vâng! Xin vâng!

    Đoàn Dự buông tay trái mụ ra, chỉ giữ một tay mặt để mụ thò tay vào gầm bàn bấm nút cơ quan. Sau tiếng lách cách, chiếc vòng thép há ra rồi co về chỗ. Đoàn Dự lại trỏ tay bảo mụ phải buông tha cả Vương Ngọc Yến cùng A Châu, A Bích.

    Hồi 32: Trổ tài miệng lưỡi áp đảo quần hùng

    Bình má má đưa ngón tay ra ấn vào nút cơ quan tự động đã giữ chặt Vương Ngọc Yến tiểu thư nhưng cơ quan này vẫn trơ ra đó, không nhúc nhích tý nào. Đoàn Dự cả giận hỏi:

    - Mi không chịu tha tiểu thư phải không...

    Bình má má vẻ mặt sầu khổ đáp:

    - Tôi kiệt lực mất rồi.

    Đoàn Dự tự mình thò tay vào gầm bàn sờ nút bấm, ấn đánh "toách" một tiếng, cái vòng thép chịt lưng Vương Ngọc Yến tự động mở ra rồi co về nằm trong cột sắt. Đoàn Dự cả mừng nhưng chưa dám thả Bình má má ngay. Chàng lượm thanh đao ở dưới đất, chí vào cắt đứt dây trói tay A Bích. A Bích rảnh tay rồi đón lấy thanh đao cắt đứt dây trói cho A Châu, hai người lại móc hết hạt trái cây trong miệng ra rồi vừa mừng vừa sợ, hồi lâu không nói ra tiếng.

    Vương Ngọc Yến trừng mắt nhìn Đoàn Dự mấy lần, nét mặt nàng lộ vẻ kỳ dị hỏi:

    - Ngươi biết phép "Hóa Công đại pháp" ư...

    Đoàn Dự lắc đầu đáp:

    - Đó không phải là môn "Hóa Công đại pháp" đâu!

    Rồi chàng toan thuật hết đầu đuôi cho Vương Ngọc Yến nghe nhưng một là vì câu chuyện rất dài hai là vị tất Vương Ngọc Yến đã tin nên chàng bịa ra một tên gọi cho xuôi chuyện:

    - Đây chỉ là môn "Thái dương dung tuyết công" do phép Nhất Dương chỉ và Lục Mạch thần kiếm biến hóa ra mà thôi. Môn "Thái dương dung tuyết công" cùng môn "Hóa Công đại pháp" khác nhau ở chỗ một đằng chính một đằng tà, một đằng thiện, một đằng ác, không thể coi là một được.

    Vương Ngọc Yến tin ngay, mỉm cười nói:

    - Quả là ta có điều không phải với ngươi, vì kiến văn hẹp hòi. Về phép Nhất Dương chỉ của họ Đoàn nước Đại Lý ta có biết được chút đỉnh, còn phép Lục Mạch thần kiếm thì mới biết tiếng mà thôi. Sau này sẽ xin thỉnh giáo.

    Đoàn Dự chỉ mong mỹ nhân hỏi tới đã cho là mình có phước lắm rồi, vội vàng đáp ngay:

    - Nếu tiểu thư hỏi đến tôi xin trình bày gan ruột, đâu dám giấu diếm...

    A Châu, A Bích thật không khi nào ngờ đến phút khẩn cấp cuối cùng Đoàn Dự tới giải cứu, lại thấy chàng cùng tiểu thư trò chuyện thân mật đều lấy làm kỳ dị. A Châu nói:

    - Thưa cô nương! Cháu xin cảm tạ cái ơn cứu mạng! Bây giờ ta phải bắt cả mụ Bình má má đưa đi để khỏi lo mụ tố giác những điều bí mật.

    Bình má má nói:

    - Tôi... tôi...

    Mụ chưa dứt lời, A Châu một tay giữ chặt đầu, một tay cầm hạt trái cây nhét vào miệng mụ. Đoàn Dự nói:

    - Phải lắm! Đúng với thủ đoạn nhà Mộ Dung "gậy ông đập lưng ông".

    Vương Ngọc Yến nói:

    - Ta đi với bọn ngươi một chuyến xem tình hình... chàng ra sao.

    A Châu, A Bích cả mừng nói:

    - Được cô nương ra đi viện trợ cho công tử thì còn gì hay bằng...

    Hai ả lôi Bình má má đến cạnh cột sắt rồi bấm nút tự động đưa vòng thép ra giữ chặt lấy mụ. Đoạn bốn người lẹ làng đẩy phiến đá đóng cửa thạch ốc lại, lanh chân chạy ra bờ hồ. Bốn người chạy ra đến hồ may chẳng gặp một ai, cùng nhau bước xuống thuyền nhỏ. A Châu, A Bích hạ mái chèo, quay mũi thuyền, chèo đi. Vương Ngọc Yến rút kim thoa trên đầu ra, vạch một chiếc la bàn 64 cách, đặt cành kim thoa vào trung tâm la bàn, ánh mặt trời chênh chếch chiếu vào bóng cành thoa, ánh xuống mặt la bàn, Vương Ngọc Yến giơ tay ra trỏ nẻo. Con thuyền ở giữa vùng khơi sóng bao la trên mặt hồ đầy lá lăng, vòng mé Đông rồi quay sang mé Tây đi ra.

    Đoàn Dự rất là khâm phục khen nàng:

    - Cô nương tuy chưa ra khỏi cửa mà hiểu biết cả thiên văn, địa lý.

    Vương Ngọc Yến mỉm cười nói:

    - Đó là những điều ta xem trong sách, chẳng hiểu công dụng có hiệu nghiệm không...

    A Châu cùng A Bích chèo hồi lâu, con thuyền nhỏ lúc lướt dọc, lúc đi ngang, lúc lượn vòng vũng vịnh mà không thấy quay trở lại Mạn Đà sơn trang, bấy giờ ai nấy mới vững tâm.

    Đoàn Dự hỏi Vương Ngọc Yến:

    - Cô nương! Tôi còn có điều này chưa hiểu. Tỷ dụ chúng ta trốn đi ban đêm, không có mặt trời để chiếu la bàn thì làm thế nào...

    Ngọc Yến mỉm cười đáp:

    - Dễ lắm! Tinh tú trên trời là la bàn đó. Cứ ngẩng đầu lên nhìn là biết.

    A Châu, A Bích cùng Đoàn Dự ba người luân phiên nhau chèo thuyền ra khỏi miền phụ cận Mạn Đà sơn trang. Hết các nẻo quanh co cùng vũng vịnh thì hai ả A Châu, A Bích đã biết đường đi trên mặt hồ. Trời đã xế bóng, trên mặt hồ sương chiều mỗi lúc một dày, A Châu nói:

    - Thưa cô nương! Đây đã gần đến chỗ cháu ở rồi. Cô nương hãy tạm trú lại đây đêm nay để thương nghị việc đi tìm công tử nên chăng...

    Ngọc Yến nói:

    - Cũng đành thế vậy.

    Thuyền đi càng xa Mạn Đà sơn trang phong cảnh lại càng tịch mịch. Đoàn Dự thấy gió thoảng mặt hồ làm lay động tà áo Ngọc Yến. Lúc đó trời đã hoàng hôn, sương lạnh lăm lăm, Đoàn Dự cảm thấy nỗi thê lương tràn ngập. Những cảm giác vui tươi lúc mới ra đi nhạt dần. Chèo thuyền một lúc nữa, trông mặt mũi mọi người đã có vẻ đờ đẫn như buồn ngủ. Chợt phía Đông nhìn thấy ánh đèn le lói A Bích nói:

    - Chỗ có ánh đèn lửa kia là Thính Hương tinh xá của A Châu tỷ nương.

    Thuyền liền nhắm thẳng phía có ánh lửa bơi tới. Đoàn Dự lẩm bẩm:

    - Đời ta khó lòng lại có được một buổi như hôm nay. Ước gì con thuyền cứ lênh đênh mãi trên mặt hồ, vĩnh viễn đừng đến chỗ sáng đèn lửa kia có phải hay không...

    Bất thình lình trước mặt một tia sáng lóe ra, bên trời một vì sao đổi ngôi xẹt qua, kéo thành một cái đuôi rất dài. Vương Ngọc Yến miệng rì rầm nói điều gì, Đoàn Dự nghe không rõ. Lúc đó trời đã tối mịt, không nhìn rõ mặt, chỉ nghe thấy nàng thở dài rất não ruột.

    A Bích an ủi nàng bằng một giọng rất êm ái:

    - Cô nương hãy yên lòng. Công tử thường gặp dữ hóa lành. trước nay biết bao nhiêu lần gặp nguy hiểm mà rồi công tử đã qua khỏi được hết.

    Ngọc Yến nói:

    - Nếu chàng đi Cái bang, thì ta chẳng có gì quan tâm cho lắm, còn đi chùa Thiếu Lâm thì không phải chuyện chơi. Về 72 môn tuyệt kỹ của phái này chàng đã hiểu cả nhưng đó là từ trước. Phái này đã nổi tiếng mấy trăm năm nay, giả tỷ họ còn học thêm được môn gì khác biệt thì ôi thôi...

    Nàng dậm chân nói tiếp:

    - Bữa nay gặp sao đổi ngôi, ta xem ra thì điều ước nguyện không thể thành tựu được.

    Theo tục truyền tại miệt Giang Nam, khi sao đổi ngôi người nào cầu nguyện khấn khứa tất lời rồi thì việc khó đến đâu cũng được toại nguyện. Nếu sao lướt ngang lời cầu còn dang dở, sao đã biến mất rồi thì việc không thành. Hàng ngàn năm nay, nhiều cô gái Giang Nam chiêm nghiệm điều đó mà hy vọng tràn trề hoặc vì đó mà sinh thất vọng. Vương Ngọc Yến tuy là người hiểu biết rất nhiều lại cực kỳ tinh thông võ nghệ cũng chưa thoát khỏi thường tình của cô gái quê mùa.

    Đoàn Dự nghe nàng than vãn trạnh mối thương tâm. Tuy chàng biết rõ điều ước nguyện của nàng nhất định có liên quan đến Mộ Dung công tử và hẳn là cầu cho gã đặng bình yên, mọi sự như ý. Đoàn Dự tự hỏi: "Ở trên đời này bao giờ có cô gái nào như Vương cô nương đây khấn thầm cầu khẩn cho ta chăng... Trước kia có Mộc Uyển Thanh rất yêu ta nhưng sau khi nàng biết ta là anh ruột dĩ nhiên sẽ có mối tình cùng người khác, không biết hiện giờ y ở đâu... Và đã gặp được ai như ý lang quân chưa... Còn Chung Linh! Vị tiểu cô nương này hãy còn ngây thơ, chưa biết mùi thế sự. Có lúc nàng tưởng tới ta thì cũng chẳng qua là ngẫu nhiên tâm động trong chốc lát rồi chuyện đâu bỏ đó, quyết không bằng Vương cô nương tha thiết với ý trung nhân, mối tình dường như đã chép xương, ghi dạ. Ôi bá phụ cùng gia gia lại còn hỏi Cao tiểu thư cho ta làm vợ. Ta chưa từng gặp tiểu thư lần nào. Nàng xấu đẹp, thấp cao ta cũng không biết nữa. Ta không tưởng nhớ nàng tất nhiên nàng cũng chẳng tưởng nhớ đến ta".

    Con thuyền đi mỗi lúc một gần lại, A Châu nói khẽ bảo A Bích:

    - A Bích! Em thử coi! Dường như có sự gì lạ lắm!

    A Bích gật đầu nói:

    - Sao đèn đuốc nhiều thế kia...

    Rồi nàng mỉm cười nói tiếp:

    - A Châu tỷ nương ơi! Trong nhà chị làm gì náo nhiệt như đêm nguyên tiêu vậy... Đèn đuốc sáng trưng, không chừng họ ăn mừng ngày sinh nhật chị.

    A Châu lẳng lặng không nói gì. Nàng chỉ nhìn ánh đèn lửa chiếu xuống mặt hồ. Lúc đó Đoàn Dự đã nhìn thấy rõ tám chín gian nhà dựng trên một cái cù lao nhỏ, trong đó có hai căn nhà lầu. ánh đèn lửa do các cửa sổ chiếu ra ngoài. Chàng thầm nghĩ: "Chỗ A Châu ở đây gọi là Thính Hương tinh xá cũng tương đương với cầm vận tiểu trúc của A Bích. Mộ Dung công tử đối đãi với hai cô nữ tỳ này thật là công bằng. Cầm vận tiểu trúc thì cách bài trí thanh nhã còn Thính Hương tinh xá lại ánh lửa huy hoàng, mỗi nơi một vẻ khác nhau".

    Thuyền còn cách Thính Hương tinh xá chừng một dặm, A Châu dừng chèo nói:

    - Vương cô nương! kẻ địch vào nhà rồi!

    Vương Ngọc Yến giật mình hỏi dồn:

    - Sao kẻ địch đến à... Sao ngươi biết... Ai vậy...

    A Châu đáp:

    - Chưa biết bọn nào nhưng ngửi thấy mùi rượu xông lên nồng nàn thì đúng là hạng khách bất nhân đến phá quấy rồi.

    Vương Ngọc Yến hít hơi thật mạnh để ngửi xem nhưng chẳng thấy gì. Cả A Bích, Đoàn Dự cũng chẳng thấy mùi gì khác lạ. Chỉ có mình A Châu rất thính mũi, nàng ngửi thấy mùi lạ từ đằng xa. Nàng nói tiếp:

    - Hỏng bét! Thật là hỏng bét! Bọn chúng lấy cả rượu hoa nhài cùng Mai quế lộ ra uống. Trời ơi! khổ rồi! Cả vò hàn mai hoa lộ chúng cũng đem ra uống vung uống ****.

    Mấy câu sau nàng nói như muốn khóc, Đoàn Dự rất lấy làm kỳ hỏi:

    - Mắt cô tinh đến thế kia ư... Nhìn thấy rồi hay sao...

    A Châu nghẹn ngào đáp:

    - Không phải tôi trông rõ nhưng ngửi thấy rồi. Tôi tốn bao tâm cơ mới chế được thứ rượu đó, bọn gian ác này đem ra uống mất rồi.

    A Bích hỏi:

    - A Châu tỷ nương ơi! Chị tính sao đây... Ta tránh đi hay lên bờ động thủ...

    A Châu nói:

    - Chưa rõ bọn địch có lợi hại lắm không...

    Đoàn Dự cũng xen vào:

    - Phải đó! Nếu chúng lợi hại quá thì ta tránh đi là hơn. Băng chúng chỉ là hạng tầm thường thì mình lên giảng giải cho chúng để những vật báu của chị A Châu đã bị tổn hại...

    Ba thiếu nữ thấy chàng nói thế đều sửng sốt. Ai nấy trừng trừng nhìn chân tay con người quờ quạng dường như chẳng biết chút võ công nào mà sao tại Hoa phì phòng Bình má má hung hãn là thế vừa mó vào chàng giây lát đã mất hết nội lực, tuyệt không kháng cự được chút nào. Chẳng biết chàng có phải vào hạng võ công thượng thừa mà cố ý làm bộ một gã thư sinh yết ớt.

    Vương Ngọc Yến hỏi:

    - Ngươi lên bờ mà gặp phải bọn võ nghệ ghê gớm chúng đánh ngươi giết ngươi thì làm thế nào...

    Đoàn Dự đáp:

    - Họ đánh giết thì tôi đành chịu nhưng xem ra vận hạn tôi rất tốt việc gì cũng gặp dữ hóa lành cả.

    Trong lòng chàng tự nhủ: "Giả tỷ ta có vì nàng mà phải bỏ mạng cũng cam tâm".

    Vương Ngọc Yến vẫy tay trái một cái, ngón tay nàng đã điểm tới huyệt thái dương chàng. Thái dương là một trong các huyệt đạo sinh tử của con người, chỉ điểm mạnh một cái là chết liền. Bất luận là người có võ công cao cường đến đâu cũng không thể để huyệt đạo này bị phong tỏa được. Trong đêm tối, Đoàn Dự mờ mịt chẳng biết chi rằng mình bị nguy trong khoảnh khắc. A Bích trông thấy giật mình kêu rú lên còn A Châu thì hiểu rằng chẳng qua Vương Ngọc Yến thử xem Đoàn Dự là người không biết võ công thật hay giả vờ nên nàng chỉ chú ý nhìn chứ không nói gì. Ngón tay Vương Ngọc Yến chỉ còn cách thái dương huyệt Đoàn Dự không đầy một tấc mà Đoàn Dự chẳng biết gì cả, vẫn nói tự nhiên:

    - Ba vị cô nương còn nhỏ tuổi thế này mà lên gặp chúng thì không được đâu.

    Ngọc Yến từ từ rút tay về hỏi:

    - Ngươi chưa học qua võ công thật ư...

    Đoàn Dự cười đáp:

    - Nếu cái môn "Thái dương dung tuyết công" mà chưa phải là võ công thì ngoài ra tôi chưa học môn nào cả.

    A Châu nói:

    - Tôi có kế này. Bây giờ bọn ta tìm quần áo cải trang là lũ ngư ông, ngư bà.

    Nàng chỉ về phía đông nói tiếp:

    - Mấy nhà chài lưới kia tôi quen lắm.

    Đoàn Dự vỗ tay cả cười nói:

    - Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!

    A Châu bèn trở chèo bơi quay sang phía đông. Một dải dân chèo này ở gần Thính Hương tinh xá, ngày thường họ vẫn đi lại chơi với A Châu. A Châu đưa Ngọc Yến, A Bích vào mượn quần áo để cải trang. A Châu trá hình làm một bà lão chài, Ngọc Yến, A Bích hóa trang thành hai ngư bà đứng tuổi, đoạn gọi Đoàn Dự vào sau, mặc quần áo giả làm ngư ông ngoài bốn chục tuổi. Thuật hóa trang của A Châu thật tinh diệu tuyệt luân. Nàng trát phấn, trát bột cho cả bốn người một loáng đã xong cả, người nào người ấy không còn ai nhận ra được bộ mặt cũ nữa. Nàng lại mượn nào thuyền nào lưới nào cần câu nào cá sống. Đoạn chèo thuyền về Thính Hương tinh xá.

    Đoàn Dự cùng Ngọc Yến tuy tướng mạo cải trang được nhưng giọng noi và cử chỉ vẫn lòi đuôi, học đòi A Châu thế nào được...

    Ngọc Yến cười nói:

    - A Châu! Mọi việc đều do ngươi ứng phó, bọn ta chỉ có giả câm là tài.

    A Châu cũng cười đáp:

    - Phải đó! Cô nương đừng nói gì xen vào!

    Thuyền bơi đến gần tinh xá thấy xung quanh chỗ nào cũng trồng toàn dương liễu. Trong nhà vẳng ra những tiếng thô lỗ cùng tiếng gọi nhau ơi ới làm cho căn nhà u nhã, hoa lệ rối loạn cả lên, mất cả ý nghĩa của nó.

    A Châu bật lên những tiếng thở dài ngao ngán. A Bích ghé vào tai nàng nói nhỏ:

    - A Châu tỷ nương! Để tống cổ bọn địch đi rồi, em sẽ giúp chị một tay để sắp xếp lại.

    A Châu nắm chặt tay A Bích để thầm cảm ơn mỹ ý của nàng. A Châu dẫn ba người lên bờ, đi quanh vào nhà bếp thì gặp trù sư của mình tên gọi Lão Cố, mặt mũi đầy mồ hôi mồ kê, đang nhổ bọt giãi phì phì vào chảo thức ăn rồi không ngớt xoa tay cho ghét cáu rớt xuống chảo. A Châu trông thấy vừa tức vừa buồn cười bảo:

    - Lão cố! Ngươi làm gì đó...

    Lão cố giật mình đánh thót một cái, quay ra hỏi:

    - Mụ... mụ...

    A Châu cười nói:

    - Ta là A Châu cô nương đây mà!

    Lão Cố cả mừng nói:

    - Cô nương ơi! một bọn phá gia ở đâu đến, bắt ép tôi phải thổi cơm và nấu thức ăn cho chúng! Cô nương lên mà xem!

    Lão vừa nói vừa xì mũi, ném toẹt vào chảo thức ăn, rồi toét miệng ra cười hềnh hệch.

    A Châu cùng A Bích đang lúc phải chú ý hết sức để đối phó với cục diện cực kỳ nghiêm trọng mà thấy cử chỉ trẻ con của lão trù sừ béo ỵ cũng không thể nhịn cười được.

    Nguyên bọn địch này ở đâu đến kẻ réo người quát, uy hiếp lão phải nấu ăn và hầu hạ chúng. Lão không làm thế nào được đang tức mình pha những thứ dơ bẩn vào món ăn thì A Châu về tới nơi. A Châu chau mày hỏi:

    - Sao ngươi làm đồ ăn dơ bẩn thế...

    Lão cố vội đáp:

    - Món ăn của cô nương thì lúc tôi nấu nướng tôi phải rửa thật sạch. Còn cho những quân phá gia này ăn phí của nên tôi pha những thứ dơ bẩn vào cho chúng ăn.

    A Châu nói:

    - Từ nay ngươi làm món ăn cho ta, ta cũng ghê tởm quá.

    Lão cố nói:

    - Cô nương xơi thì khác hẳn, đâu dám làm thế...

    A Châu tuy làm thị nữ cho Mộ Dung công tử nhưng là chủ nhân Thính Hương tinh xá. Dưới quyền cũng đủ đầy tớ, đầu bếp, phu bơi thuyền, thợ trồng hoa phục vụ cho nàng.

    A Châu hỏi:

    - Bọn địch có bao nhiêu tên...

    Lão cố đáp:

    - Bọn trước đến chừng 15, 16 đứa, bọn sau đến 20 đứa.

    A Châu lại hỏi:

    - Những hai bọn kia à... Chúng thuộc về hạng nào... Coi cách ăn mặc và giọng nói có biết chúng ở đâu không...

    Lão cố hậm hực:

    - Mẹ chúng nó.

    Câu chửi tục vừa ra khỏi cửa miệng, lão tự biết là vô lễ, vội đưa tay bịt miệng, sợ hãi tiếp:

    - Xin lỗi cô nương. Lão cố này tội thật đáng chết. Hai toán này thì một toán là loài man mọi phương Bắc, có vẻ toàn là cường đạo, còn một toán nữa người Tứ Xuyên, tên nào cũng mặc bào trắng, không rõ chúng thuộc về đạo nào.

    A Châu hỏi:

    - Họ đến đây tìm ai... Có người nào bị thương không...

    Lão cố đáp:

    - Toán cường đạo thứ nhất cũng như toán cổ quái thứ hai khi vào tới nơi là chúng tra hỏi công tử ở đâu... Tôi bảo công tử vắng nhà nhưng chúng không tin, lùng khắp nơi tìm kiếm một hồi. Các nha hoàn trong nhà chạy trốn hết, còn mình tôi tức quá, mẹ...

    Lão toan chửi câu nữa nhưng kịp rút lưỡi lại, chưa tuôn ra hết câu. A Châu thấy mắt bên trái lão tím bầm, còn một nửa mặt sưng vù lên chắc là bị chúng đánh đau, trách nào lão chẳng nhổ đờm giãi cùng xoa tay dơ vào các món ăn cho hả giận... A Châu trầm ngâm một lát rồi nói:

    - Thôi được! Để chúng ta lên coi.

    Lão cố nói không minh bạch. Nàng dẫn Ngọc Yến, Đoàn Dự, A Bích ba người theo cửa ngách ra khỏi nhà bếp, xuống dàn hoa, chui qua cổng tò vò đi về phía cửa nhà đại sảnh.

    Đoàn Dự là Vương tử nước Đại Lý, giàu sang từ nhỏ, nên nhìn hoa cỏ cùng cách kiến trúc Thính Hương tinh xá không lấy gì làm lạ mắt nếu là người thường mà trông thấy phong cảnh huy hoàng của cô hầu còn thế này tất cho là chính nơi công tử Mộ Dung ở, có lẽ sang trọng hơn cả bậc vương hầu.

    Còn cách cửa sổ phía sau nhà khách sảnh chừng vài trượng đã nghe tiếng người huyên náo rất phức tạp. Chẳng những Đoàn Dự ở tận chốn biên thùy hẻo lánh, Vương Ngọc Yến chưa từng ra khỏi phòng the nên nghe tiếng nói líu lo thì tưởng họ là những hạng người cổ quái mà chính A Châu người đã chuyên tìm hiểu về các loại thổ âm vừa nghe họ nói cũng nhận thấy ngay những đặc điểm kỳ dị. Bọn người đang la ó om sòm này toàn giọng thổ khàn. A Châu tuy đã hiểu nhiều tiếng địa phương mà cũng nghe không rõ. Cứ như lời Lão cố thì trong bọn này có nhiều người Tứ Xuyên mà sao bây giờ nàng không nghe thấy một giọng nào Tứ Xuyên cả. A Châu thoăn thoắt lại bên hàng dài cửa sổ, đưa ngón tay chọc thủng giấy dán vè ghé mắt nhòm vào thấy trong nhà đèn lửa sáng trưng về đầu phía Đông. Mười tám gã đại hán to lớn lực lưỡng đang ăn uống lu bù. Trên bàn thì chén bát bừa bãi, dưới đất thì ghế đổ ngả nghiêng, gã ngồi chồm hỗm trên bàn, còn gã không dùng đũa, tay cầm đùi gà hoặc miếng thọt bò to tướng cắn ăn. Có gã cầm thanh đao dài để cắt thịt, cá ra từng miếng rồi dùng mũi nhọn đao xiên vào đưa lên miệng ăn. A Châu xem cách cử chỉ của bọn này rõ ràng là những tay hào kiệt bên ngoài quan ải. Nàng nhìn bọn người ngồi đằng đông một lúc rồi lại nhìn đầu đằng tây. Ban đầu nàng không lưu ý nhưng nhìn lâu một hồi, bất giác mình sởn gai ốc, sau lưng lạnh toát như bị gáo nước lạnh dội vào. Nguyên hơn hai mươi người trên này đều mặc áo bào trắng, ngồi nghiêm chỉnh, trên bàn thắp một cây nến nhỏ, ánh sáng yếu ớt chiếu ra bất quá độ vài thước vuông. Sáu bảy người ngồi gần ngọn nến nên trông rõ, người nào cũng khô đét, thân hình gầy khẳng kheo, mặt trơ như gỗ, đã không lộ vẻ vui mừng lại không ra chiều giận dỗi, trông tựa như xác chết cả. A Châu càng nhìn càng sợ, những người này ngồi ỳ ra chẳng nói câu gì, họ chỉ khác những thây ma ở chỗ mí mắt thỉnh thoảng còn hơi mấp máy một chút.

    A Bích đến gần A Châu, cầm lấy tay nàng thì thấy bàn tay lạnh ngắt mà hơi run. A Bích cũng chọc thủng cửa sổ để ngó trộm. Nàng vừa nhìn vào cũng giật mình kinh sợ, khẽ kêu lên một tiếng "trời ơi".

    Hai tiếng "thình thình" vang lên, cửa sổ đã bị phá vỡ. Bốn người trong đại sảnh nhảy vọt ra là hai gã đại hán ngoài ải Bắc và hai quái khách ở Tứ Xuyên.

    Hai gã đại hán quát hỏi:

    - Ai đó...

    A Châu đáp:

    - Chúng tôi vừa bắt được mấy con cá tươi, đến hỏi xem lão đầu có mua không... Hôm nay có cả tôm tươi nữa.

    Nàng bắt chước tiếng thổ âm người Tô Châu. Hai gã đại hán nghe không hiểu nhưng thấy bốn người ăn mặc theo kiểu dân chài, tay cầm cá cầm tôm đang giẫy ngoay ngoảy thì biết ngay là bọn đến bán tôm cá. Một gã đại hán giật lấy con cá ở trong tay A Châu và gọi rối rít:

    - Nhà bếp! Nhà bếp! Đem mấy con cá này xuống nấu cháo ăn cho giã rượu.

    Còn gã nữa đón lấy con cá trong tay Đoàn Dự. Hai gã đại hán lấy cá rồi không nói năng gì nữa, quay gót đi vào nhà khách. Lúc đi qua mình A Bích một mùi hôi thối tựa như mùi cá ươn đã mười ngày xông vào mũi nàng. A Bích không nhịn được, giơ tay áo lên bịt mũi. Tay áo nàng tụt xuống để lộ cánh tay nhỏ nhắn, trắng như tuyết. Một gã người Tứ Xuyên nhanh mắt trông thấy, sinh nghi: một bà già đứng tuổi, sao da dẻ lại nõn nà. Gã liền quờ tay ra nắm lấy A Bích hỏi:

    - Mụ già này bao nhiêu tuổi...

    A Bích giật mình hất tay gã ra nói:

    - Mi làm trò gì vậy...

    Tiếng nàng êm ái trong lanh lảnh, cái hất tay lại lẹ làng mà gã người Tứ Xuyên đã cảm thấy tê dại. Gã vội nhảy ra xa mấy bước. Bốn gã thấy vậy kêu váng lên. Hơn mười người từ trong nhà khách nhảy ra, vây lấy bọn Đoàn Dự. Một gã đại hán thò tay ra rứt bộ râu giả của Đoàn Dự, bộ râu rớt xuống đất, một gã đưa tay ra chụp xuống A Bích. A Bích né người đi rồi đẩy mạnh một cái làm cho lão té lăn xuống đất. Một gã đứng đường sau đưa kiếm ra phạt ngang. A Bích cúi đầu tránh khỏi, nhưng nàng quên rằng trên đầu mình còn có mớ tóc giả búi ngược lên đỉnh đầu, cao đến hơn một tấc so với ngày thường. "Soạt" một tiếng, mớ tóc hoa râm giả tuột xuống để hở mái tóc đen láy của nàng ra.

    Gã đại hán càng la lớn tiếng hơn:

    - Có gian tế! Có gian tế! Bọn chúng cải trang lọt vào đây. Phải bắt nó đem ra tra khảo đã.

    A Châu giận lắm hỏi lại:

    - Đây là nhà ai... Kẻ nào là gian tế...

    Bọn hán tử xúm lại đẩy bốn người vào nhà khách đến trước mặt một ông già ngồi đầu phía Đông bẩm báo:

    - Thưa trại chủ! Đã bắt được bọn gian tế hóa trang làm dân chài. Xin đưa vào trình trại chủ.

    Ngọc Yến cùng A Châu, A Bích thấy trong nhà khách nhốn nháo cả lên. Ba nàng đều là tay võ nghệ siêu quần nhưng còn non tuổi, kiến thức còn kém cỏi, phân vân chưa biết nên động thủ ngay hay hãy để xem chừng, chờ đến lúc bất đắc dĩ sẽ ra tay. Đoàn Dự thì lại mù mịt về võ công, trông tướng mạo chẳng biết ai mạnh, ai yếu. Bốn người ngơ ngác nhìn nhau chưa biết tính thế nào cho phải đành đứng trước mặt lão già để xem lão phát lạc ra sao.

    Lão già này tướng mạo khôi ngô hùng vĩ, một chòm râu bạc dài trùng xuống trước ngực. Trong tay trái lão có ba trái nhạc sắt kêu leng keng. Lão quát hỏi bọn Ngọc Yến:

    - Bọn mi làm gian tế ở đâu đến mà giở trò tinh quái ranh ma... Chắc không phải hạng tử tế.

    Ngọc Yến nói với A Châu:

    - Hóa trang làm một bà già chẳng thú gì cả. A Châu! Ta chẳng hóa trang nữa đâu.

    Nói rồi nàng bỏ món tóc giả ra, lại giơ tay lên xoa mặt một cái những phấn bột nhồi thành vết nhăn rơi xuống lả tả. Bọn hán tử thấy mụ chài đứng tuổi đột nhiên biến thành một vị nữ lang nhan sắc tuyệt trần đều miệng há hốc, giương mắt ra mà nhìn. Trong sảnh đường bỗng trở nên im phăng phắc. Những quái khách bào trắng ngồi ở đầu đằng tây cũng trố mắt tóe lửa ra nhìn nàng. Ngọc Yến bảo đồng bọn:

    - Các ngươi cũng trút bỏ hết đồ hóa trang đi!

    Rồi nàng quay lại nhìn A Bích cười nói:

    - Chỉ tại ngươi làm tiết lộ.

    Mặc dù xung quanh bao nhiêu mắt hung dữ đổ dồn vào mình Ngọc Yến vẫn coi như không thấy gì. Nét mặt thản nhiên, dường như không thèm để tâm đến bọn người lợi hại này. A Châu, A Bích, Đoàn Dự nghe lời Ngọc Yến đều xoa hết những thứ bôi mặt đi. Mọi người đã thấy Ngọc Yến tuyệt đẹp, lại thấy A Châu, A Bích cũng là những vị cô nương hoa nhường nguyệt thẹn đều sửng sốt, không ngờ trên thế gian lại có những người kiều diễm đến thế.

    Một lúc lâu lão già khôi ngô lại cất tiếng hỏi:

    - Các ngươi là ai, đến đây có chuyện gì...

    A Châu cười nói:

    - Tôi là chủ nhân Thính Hương tinh xá này mà lại có người ở đâu đến hỏi tôi là ai mới kỳ chứ... Bây giờ tôi hỏi lại: các ông là ai... Đến đây có chuyện gì...

    Lão già nói:

    - Thế à... Nếu cô là chủ nhân đây càng hay. Phải chăng cô là Mộ Dung tiểu thư... Mộ Dung Bác có phải là gia gia cô không...

    A Châu mỉm cười đáp:

    - Tôi chỉ là một tên nha hoàn. Làm gì có diễm phúc được làm con gái lão gia tôi... Các hạ là ai... Đến đây có việc gì...

    Lão gia thấy A Châu tự xưng là một nha hoàn có ý không tin, trầm ngâm giây lát rồi mới nói:

    - Cô mời chủ nhân cô ra đây, ta sẽ nói cho hay đến đây làm gì.

    A Châu nói:

    - Chủ nhân tôi đi vắng. Các hạ có điều chi cứ nói với tôi cũng thế. Tôn tính đại danh chẳng lẽ cũng không cho tôi biết được hay sao...

    Lão già đáp:

    - Tôi là Diêu trại chủ Tần gia trại ở Vân Châu. Diêu Bá Đương chính thị là ta.

    A Châu nói:

    - Tôi đã từng được nghe đại danh và rất đem lòng ngưỡng mộ.

    Diêu Bá Đương cười nói:

    - Cô còn là cô bé nhỏ xíu đã biết gì...

    Ngọc Yến nói:

    - Tần trại gia ở Vân Châu có môn võ nổi tiếng là "Ngũ Hổ Đoạn Môn đao". Ngày mà Diêu Công Vọng tự sáng chế ra nó có tất cả 64 thế. Người sau quên mất năm thế, tôi lại nghe nói ngày nay chỉ còn 59 thế! Diêu trại chủ! Trại chủ học bao nhiêu thế...

    Diêu Bá Đương cả kinh buột miệng hỏi ngay:

    - Môn "Ngũ Hổ Đoạn Môn đao" của Tần trại gia 64 thế sao cô nương lại biết...

    Vương Ngọc Yến lạnh lùng đáp:

    - Tôi xem sách nói rõ như vậy chẳng biết có đúng không... 5 thế thiếu mất đi là "Bạch Hổ Thiêu Giản", "Nhất Khiếu Phong Sinh", "Tiễn Phác Tự Như", "Hùng Bá Quần Sơn" và "Phục Tượng Thắng Sư" có đúng vậy không...

    Diêu Bá Đương vuốt râu ngẫm nghĩ. Lão biết rằng đao pháp của phái mình có khiếm khuyết mất 5 thế rất quan hệ nhưng 5 thế bị thất truyền đó thì bất luận là ai cũng không hiểu là những thế gì. Bây giờ lão nghe Vương Ngọc Yến đọc ra vanh vách thì trong bụng vừa kinh ngạc vừa hoài nghi nên không biết đáp lại ra sao.

    Trong đám khách bào trắng ngồi ở mé Tây có một gã hán tử tuổi ngoại tứ tuần thuộc về môn hộ âm dương quái khí cất tiếng hỏi Ngọc Yến:

    - Môn "Ngũ Hổ Đoạn Môn đao" của Tần gia trại oai danh chấn động đất Hà Sóc dù có khiếm khuyết mất 5 thế tưởng cũng chẳng quan hệ gì đến đại thể... Xin hỏi cô nương gọi Mộ Dung Bác bằng gì...

    Vương Ngọc Yến đáp:

    - Mộ Dung lão gia là cữu phụ tôi. Còn tôn tính đại danh các hạ là gì...

    Gã hán tử cười lạt đáp:

    - Cô nương là một học giả uyên thâm, mới trông qua Diêu trại chủ đã biết tường tận võ công của ông. Vậy lai lịch tại hạ thế nào cô nương thử đoán coi!

    Ngọc Yến mỉm cười đáp:

    - Các hạ trổ ra cho coi một vài ngón may ra tôi có đoán được chăng... Chứ chỉ nói suông vài câu thì tôi không đoán ra được.

    Gã hán tử gật đầu đáp:

    - Đúng thế!

    Đoạn gã đút tay trái vào trong áo bên phải và tay phải vào trong tay áo bên trái, tựa như trời rét phủ tay cho ấm, nhưng lúc gã rút tay ra thì trong mỗi tay cầm một thứ khí giới. Tay trái cầm một ngọn thiết chùy dài chừng sáu bảy tấc, mũi chùy nhọn mà có hai chỗ cong. Tay phải cầm một cây bát giác tiểu trùy, dài chừng một thước, đầu cây trùy này không lớn bằng nắm tay người thường. Hai thứ binh khí này nhỏ bé xinh xắn và lóng lánh, tựa như đồ chơi của trẻ nít. Cứ trông bề ngoài thì những thứ này dùng vào việc chiến đấu không tiện chút nào.

    Trong đám đại hán ngoài ải Bắc ngồi ở phía đông trông thấy hai thứ binh khí cổ quái này có mấy người phải phì cười. Một gã cười vang lên nói:

    - Đây là những đồ chơi của trẻ nít ở Tứ Xuyên bày ra cho mọi người coi đó.

    Vương Ngọc Yến nói:

    - Ồ đây là môn "Lôi Công Oanh". Chắc các hạ sở trường về môn khinh công và sử dụng ám khí. Trong sách nói "Lôi Công Oanh" là môn độc nhất có thứ binh khí đặc biệt của phái Thanh Thành ở Tứ Xuyên. Trong hai chữ Thanh Thành ghép lại đem tách riêng ra thì chữ "Thanh" có 18 thế, chữ "Thành" có 36 thế. Toàn là những thế kỳ lạ biến trá không biết đâu mà lường được. Phải chăng các hạ họ Tư Mã...

    Gã đứng tuổi vừa nghe lời Ngọc Yến đã biến sắc. Gã cùng hai gã phụ tá, ba người nhìn nhau một hồi rồi mới đáp:

    - Võ học nhà Mộ Dung ở Cô Tô quả là uyên thâm không ai bì kịp, tiếng đồn thật chẳng sai. Tại hạ là Tư Mã Lâm xin hỏi lại cô nương: phải chăng chữ "Thanh" có 18 thế đánh còn chữ "Thành" có 36 thế phá...

    Vương Ngọc Yến đáp:

    - Các hạ nêu ra câu hỏi này là phải. Tôi cho là "Thanh" phải 19 thế mới đúng vì hai thế "Bồ Đề tử" và "Thiết Liên tử" bề ngoài tuy giống nhau nhưng cách ứng dụng lại khác nhau xa không thể hợp vào một được. Còn 36 thế phá chữ "Thành" thì ba thế "phá giáp", "phá thuẫn", "phá bài" chẳng có gì là kỳ dị đặc biệt nên bỏ đi mà chỉ để 33 thế mới hay.

    Bọn Tư Mã Lâm nghe đoạn đều phải sửng sốt. Về chữ "Thanh" họ mới học được 11 thế đánh. Còn những thế "Thiết Liên tử", "Bồ Đề tử" gì gì đó và khác nhau thế nào họ chẳng hiểu gì cả. Đến "phá giáp", "phá thuẫn", "phá bài" là ba thế họ đắc ý nhất và tự cho là những tuyệt kỹ bí truyền của môn phái thì không ngờ bị thiếu nữ lại bảo bỏ đi vì không ích gì. Họ rất kinh ngạc về sự hiểu biết của Vương Ngọc Yến và rất tức giận về sự chê bai ba thế phá thích nhất của họ. Họ nghĩ thầm: "Nhà Mộ Dung định làm nhục mình, thêu dệt nên những thuyết quái quỷ như vậy và cho một cô gái nhỏ tuổi ra liến thoắng bịp mình". Tư Mã Lâm là một tay rất thâm, y vẫn giữ thái độ bình tĩnh đáp:

    - Đa tạ cô nương chỉ giáo. Khác nào ở chỗ tối tăm được nhìn thấy ánh sáng...

    Y trầm ngâm một lát nghĩ ra được một kế quay sang bảo gã phụ tá ngồi mé tả:

    - Chử sư đệ! Sư đệ ra lĩnh giáo cô nương đi!

    Gã phụ tá mặt đầy sứt sẹo trông thật xấu xa, chừng ngoài 50 tuổi, mình đã mặc áo bào trắng, đầu còn quấn khăn trắng, chẳng khác chi người vận hiếu phục. Dưới ánh sáng lờ mờ bầu không khí càng trở nên ảm đạm. Tên y là Chử Bảo Côn, y đã biết võ rồi tìm thầy học thêm, đến làm môn hạ phái Thanh Thành. Y lớn hơn Tư Mã Lâm 10 tuổi nhưng nhập môn sau nên đành làm sư đệ. Bản tính y thâm trầm, đến Tư Mã Lâm cũng không hiểu lai lịch y. Có hỏi thì y trả lời một cách hàm hồ. Tư Mã Lâm chỉ biết đại khái là y võ công rất giỏi không kém gì mình mà thôi. Giờ sai ra hỏi Vương Ngọc Yến tưởng đã đắc sách: nếu Vương Ngọc Yến không biết gốc tích y thì làm cho đối phương mất kiêu ngạo, mà Ngọc Yến có biết rõ lai lịch thì cũng giải được mối hoài nghi cho mình từ trước tới nay.

    Chử Bảo Côn đứng lên, thò tay vào trong tay áo, lấy ra hai thứ binh khí: một ngọn chùy ngắn và một cây búa nhỏ cũng giống hệt binh khí "Lôi Công Oanh" của Tư Mã Lâm rồi nói với Ngọc Yến:

    - Xin cô nương chỉ điểm cho!

    Những người xung quanh đều mắng thầm: "Binh khí của mi chẳng khác gì binh khí của Tư Mã Lâm, cô gái này đã hiểu rõ Tư Mã Lâm chẳng lẽ lại không biết mi hay sao... ".

    Vương Ngọc Yến cũng đáp:

    - Các hạ đã sử dụng binh khí "Lôi Công Oanh" thì dĩ nhiên cũng trong phái Thanh Thành chứ gì...

    Tư Mã Lâm nói ngay:

    - Chử sư đệ đây đã biết võ nghệ rồi mới đến Thanh Thành nhập môn. Gốc tích y ở môn nào xin cô nương chỉ thị cho.

    Ngọc Yến nghĩ thầm: "Vấn đề này nan giải đây". Nàng chưa kịp đáp thì Tần trại chủ Diêu Bá Đương ngồi bên kia đã cướp lời:

    - Tư Mã chưởng môn! Chưởng môn yêu cầu cô nương nói rõ bộ mặt ngày trước của lệnh sư đệ là có ý gì vậy... Tôi thấy điều ấy thật vô thú vị.

    Tư Mã Lâm ngạc nhiên hỏi:

    - Sao lại vô thú vị...

    Diêu Bá Đương cười châm chọc:

    - Bộ mặt của lệnh sư nay đã chạm trổ tinh vi, thế thì còn gì để mà khảo cứu ra được cái dĩ vãng của nó nữa...

    Bọn đại hán ngồi đầu phía Đông nghe Diêu Bá Đương nói nhìn lại mặt Chử Bảo Côn thấy đầy sứt sẹo tức thời cười vang lên. Tiếng cười to đến nỗi những ngọn đèn lửa phải tạt đi tạt lại. Chử Bảo Côn bản tính thâm độc. Bình nhật y ghét cay ghét đắng kẻ nào cười y mặt rỗ sứt sẹo. Người nào vô ý nhìn mặt y nhưng giữ mặt thản nhiên như không chú ý thì không sao, bằng lộ vẻ kinh dị hoặc chau mày, nhăn mặt ra vẻ khó chịu thì y phải làm người đó thành sống giở chết giở mới nghe. Bây giờ y nghe Diêu Bá Đương công nhiên chế giễu mình trước mặt mọi người thì nhịn sao được... Hơn nữa mặt mũi y đã xấu lại ở trước mặt một bọn nam nữ thanh lịch trách nào y chẳng căm hận những người cứ hau háu nhìn y... Thế là y chẳng nể mặt Diêu Bá Đương vừa là một vị anh hào đất bắc vừa là một vị trại chủ, tay trái y cầm mũi cương chùy nhắm thẳng phía trước Diêu Bá Đương, tay phải cầm mẩu dây buộc ở đuôi chùy phóng mạnh ra đánh véo một tiếng như xé bầu không khí bắn đến trước ngực Diêu. Diêu Bá Đương tuy đã biết trước mình buông lời chế giễu tất đối phương chẳng chịu để yên nhưng không ngờ đối phương hạ độc thủ phóng ám khí lanh như thế. Trong lúc nguy cấp, không kịp rút đao ra gạt vội cầm cái đế đèn trên bàn nhằm ám khí đánh bật lại. Một tiếng "keng" vang dội ám khí bắn lên trần nhà. Nhìn ra thì là một mũi cương châm tuy nó chỉ dài hơn ba tấc nhưng sức mạnh vô cùng. Chả thế mà nó *****ng vào đế đèn làm cho hổ khẩu Diêu Bá Đương phải tê nhức, đế đèn rơi xuống đất. Bọn Tần trại gia vừa rút đao ra loảng xoảng vừa la lên:

    - Dùng ám khí hại người, thật là đồ hèn nhát.

    Một gã béo ỵ còn văng những câu tục ra chửi mắng thậm tệ. Mọi người bên Thanh Thành nguyên thuộc môn hộ "Âm Dương quái khí" vẫn nín thinh. Quần hào Tần gia trang muốn chửi mắng thế nào thì chửi họ cũng lờ đi như không nghe tiếng.

    Diêu Bá Đương để rơi cái đế đèn xuống đất, theo quy củ võ lâm thế là thua một đòn rồi. Lão nghĩ bụng: "Võ công bên đối phương có nhiều tà đạo mà bên mình chỉ biết đem gươm đao ra tranh đấu một cách quang minh chính đại. Cứ như lời tiểu cô nương đây vừa nói thì 18 thế thuộc về chữ "Thanh" tựa hồ những thế đánh này có điều ám muội bên trong, bọn mình chỉ sơ ý một tý là bị chúng ám toán".

    Nghĩ vậy Diêu Bá Đương khoát tay ra hiệu cho đồng đảng yên lặng rồi hỏi Chử Bảo Côn:

    - Vừa rồi Chử huynh đệ cho ra một đòn cực kỳ lợi hại, cái đòn hiểm độc đó gọi là gì vậy...

    Chử Bảo Côn chỉ cười khành khạch chứ không trả lời. Gã đại hán béo ỵ bên Tần trại gia nói móc:

    - Chắc gọi là đòn "Ám tiễn hại người, cần chi thể diện... ".

    Mấy gã khác cũng nhao nhao lên mạt sát Chử Bảo Côn. Ngọc Yến thấy vậy lắc đầu lên tiếng bằng một giọng êm ái:

    - Diêu trại chủ! Trại chủ có điều lầm lỗi rồi.

    Diêu Bá Đương hỏi:

    - Cô nương bảo sao...

    Ngọc Yến đáp:

    - Bất luận là ai khó lòng giữ cho thân thể khỏi bị tàn tật. Có người vì bệnh hoạn mà tàn tật, người thì sơ ý té một cái cũng có thể bị què chân. Giao chiến với người khác, không địch nổi cũng có thể bị đui mắt, cụt tay là thường. Bạn hữu trong võ lâm, thân thể bị tổn thương phỏng có chi là lạ... Có phải thế không trại chủ...

    Diêu Bá Đương chỉ đáp gọn một tiếng:

    - Vâng

    Ngọc Yến lại nói:

    - Chử gia đây thuở nhỏ bị bệnh, thân thể thành vết ngấn thì có gì đáng cười... Bàn về nhân phẩm các bậc kỳ nam tử đại trượng phu thì thứ nhất là đạo đức, thứ hai là tài năng sự nghiệp, thứ ba là văn học võ công. Chử gia đây có phải giả trang làm đàn bà đâu, vậy thì dong mạo có tuấn tú hay không cũng chẳng can hệ gì.

    Diêu Bá Đương bị Vương Ngọc Yến dồn cho một hồi, câm họng không còn biết nói sao, đành cười khà khà đáp:

    - Tiểu cô nương nói thật đúng lý. Đã thế thì xin lỗi Chử huynh đệ về câu nói diễu cợt vừa rồi.

    Ngọc Yến mỉm cười nói:

    - Lão gia thản nhiên nhìn nhận lỗi mình, đủ biết người là bậc quang minh lỗi lạc.

    Nàng quay lại lắc đầu nói với Chử Bảo Côn:

    - Đừng hành động nữa! Cái đó vô dụng!

    Nàng nói câu này với nét mặt ôn nhu, lại có vẻ về bè với Chử, tựa hồ chị khuyên em trong lúc vội giận mất khôn. Lời nói của nàng ngụ ý cực kỳ thân thiết.

    Hồi 33: Vương cô nương liệu địch như thần

    Lời Vương Ngọc Yến nói với Chử Bảo Côn, người ngoài cố nhiên không hiểu mà chính Chử Bảo Côn bóp óc cũng không nghĩ ra. Còn những lời biện giải của nàng: "Những nhân vật võ lâm trong người có thương tích là việc thông thường, như cơm bữa. Những bậc kỳ nam tử đại trượng phu phải lấy phẩm cách sự nghiệp làm đầu". Luận điệu đó đã làm cho y hết sức hể hả, vì trong đời y từ trước tới giờ, trong lòng lúc nào cũng buồn bực về cái bộ mặt rỗ chằng rỗ chịt của mình mà chưa từng được ai biện hộ cho mình một cách thành khẩn và hữu lý như thế! Khi nghe nàng nói đến câu: "Đừng hành động nữa, cái đó vô dụng", y không hiểu ra sao nên hỏi lại:

    - Cô nương nói gì vậy...

    Trong bụng y nghĩ thầm:

    - Chắc nàng cho miếng "Thiên Vương Bổ Tâm châm" của ta không thi hành được và vô dụng đây. Nàng có biết đâu trong chiếc chùy của ta có cả thảy 12 mũi châm kia mà... Nếu phát ra liên tiếp, thì tánh mạng lão già đã đi đứt từ lâu rồi. Chính ra ta giết chết lão lúc nào mà chả được, chỉ vì trước mặt Tư Mã Lâm, nên ta không muốn tiết lộ bí mật mà thôi

    Vương Ngọc Yến đáp:

    - Miếng "Thiên Vương Bổ Tâm châm" của Chử gia quả là một thứ ám khí rất bá đạo...

    Chử Bảo Côn giật mình đánh thót một cái, rú lên:

    - Chà!

    Tư Mã Lâm và ba vị cao thủ khác trong phái Thanh Thành nghe tới "Thiên Vương Bổ Tâm châm" đều sửng sốt cất tiếng hỏi:

    - Cô nương bảo sao...

    Chử Bảo Côn biến sắc, đánh trống lảng:

    - Cô nương nói sai rồi. Đó không phải là "Thiên Vương Bổ Tâm châm" mà là ám khí của phái Thanh Thành chúng tôi, tên gọi "Thanh Phong đinh" đòn đánh thứ 7 trong các đòn thuộc chữ "Thanh".

    Ngọc Yến tủm tỉm cười đáp:

    - "Thanh Phong đinh" không những về hình thức bên ngoài giống thế, mà về thủ pháp cũng như khí cụ dùng để phát ra, "Thiên Vương Bổ Tâm châm" với "Thanh Phong đinh" hoàn toàn giống nhau. Song có điều về tính chất căn bản của ám khí, không căn cứ ở hình thức bên ngoài và cách phát xạ, mà phải căn cứ vào kình lực và khí thế. Khi phát ra một mũi phi tiêu, mỗi người có một thủ kình riêng, phái Thiếu Lâm ra phái Thiếu Lâm, phái Hoa Sơn ra phái Hoa Sơn, không thể miễn cưỡng làm cho giống nhau được, ám khí đó của ngươi là...

    Ngọc Yến chưa dứt lời, đã thấy Chử Bảo Côn sát khí đằng đằng, thốt nhiên chiếc cương chùy cầm ở tay trái đưa lên ngang trước ngực, chỉ còn cầm chuôi chùy bật một cái, tức thời những mũi cương châm ở trong sẽ bắn thẳng vào Ngọc Yến.

    Chử Bảo Côn tuy là người rất hiểm ác, song thấy Ngọc Yến kiều diễm như thế, vẫn không sao đang tay hạ sát được. Y lại nghĩ tới những lời nàng vừa biện giải bênh mình. Vì không đang tâm giết nàng để bịt miệng, y chỉ quát:

    - Cô nương! Đừng có nhiều lời nữa mà tự mang lấy họa vào thân.

    Ngọc Yến mỉm cười đáp:

    - Ngươi không hạ thủ giết ta, ta cũng cảm ơn. Nhưng dù ngươi có hạ thủ cũng vô dụng. Hai phái Thanh Thành và Bồng Lai, đời đời cừu thù nhau. Cái việc mà ngươi định mưu đồ đó, trước đây hơn 80 năm, Hải Phong Tử đạo trưởng, vị chương môn thứ bảy của quý phái, đã từng thử qua rồi. Tài năng cũng như võ công của ông, e rằng chẳng kém gì các hạ đâu.

    Đoàn Dự, A Châu, A Bích, Diêu Bá Dương và Tư Mã Lâm thấy đầu chiếc cương chùy của Chử Bảo Côn lăm lăm chĩa đúng vào trước ngực Vương Ngọc Yến, ai nấy đều run sợ thay cho nàng.

    Cứ xem như lúc nãy Chử Bảo Côn phóng cương châm nhằm bắn Diêu Bá Dương, thế đi rất mau, kình lực rất mạnh, không một ám khí nào sánh kịp, rõ ràng là bên trong chiếc chùy đó có đặt máy móc, chứ sức người thì không thể nào mạnh được thế. Cũng may mà Diêu Bá Dương mắt sáng tay nhanh, nên mới thoát chết. Nếu y mà nhằm bắn vào Ngọc Yến, một vị cô nương yêu kiều non nớt như thế, thì làm sao mà tránh kịp... Mọi người đều nhận thấy nguy cơ ngay trước mắt, mà Ngọc Yến vẫn thản nhiên như không, miệng lại còn kể ra một chuyện đại bí mật trong võ lâm.

    Những nhân vật cao thủ trong phái Thanh Thành, người nào cũng chằm chặp nhìn vào Chử Bảo Côn, đầy vẻ nghi hoặc, họ tự hỏi:

    - Có lẽ y là môn hạ phái Bồng Lai, kẻ tử thù đối đầu của phái Thanh Thành, đã trà trộn vào nội bộ của chúng ta chăng... Sao y lại nói toàn tiếng Tứ Xuyên... Mà không thổ lộ một câu nào bằng tiếng thổ âm Sơn Đông nhỉ...

    Nguyên phái Bồng Lai ở trên bán đảo Sơn Đông, hùng bá cả miền Đông Hải. Phái Thanh Thành thì ở Tứ Xuyên. Tuy một phái ở phía Đông, một phái ở phía Tây, xa cách riêng biệt nhau, song từ hơn trăm năm trước đây, đồ đệ của hai phái đã gây thù kết oán tại huyện Tấn Dương tỉnh Sơn Tây. Rồi từ đấy, báo thù lẫn nhau, gây nên thảm họa chém giết, không gỡ ra được nữa. Cả hai phái đều có những võ công tuyệt diệu để cùng khắc chế lẫn nhau. Ngày xưa đệ tử trong hai phái gây thù kết oán cùng nhau, chỉ vì tranh luận võ công mà gây ra. Trước sau mấy chục lần đại chiến, chém giết thê thảm, nhưng rồi kết cục chẳng phái nào thắng phái nào, và cả hai bên đều bị tổn thương nặng nề.

    Hải Phong Tử, người mà Ngọc Yến vừa nhắc tới, là một nhân tài kiệt xuất trong phái Bồng Lai. Sau khi tham khảo, nghiên cứu kỹ càng những sở trưòng sở đoản và ưu khuyết điểm về võ công hai phái, ông nhận thấy võ công của ông bấy giờ có thể hơn phái Thanh Thành, nhưng ông vẫn lo sau khi ông qua đời rồi, biết đâu trong phái Thanh Thành lại chẳng sản xuất ra những bậc thông minh tài trí, mà tiến vượt hơn phái mình. Vì muốn tìm cách mất công một lần mà yên ổn lâu dài, nên ông phái một tên đồ đệ xuất sắc nhất, trà trộn vào hàng ngũ phái Thanh Thành để học trộm võ công, mong sau này gã sẽ trở thành kẻ biết người biết mình, trăm trận đánh trăm trận thắng.

    Nhưng tên đồ đệ đó chưa học được thành tài đã bị bại lộ hành tông và bị phái Thanh Thành đem ra xử tử tức khắc. Do việc đó mà hai phái lại khơi thêm hố cừu thù, và càng tăng thêm sự giới bị phòng ngừa đối phương sai người tới học trộm võ công của bản phái. Trong thời gian mấy chục năm từ đó, phái Thanh Thành quy định: Không thu nhận đồ đệ người Bắc phương. Những người nào tiếng nói đá giọng Bắc phương, chẳng cứ gì là người Sơn Đông, mà ngay người Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Tây, hay Thiểm Tây, cũng đều không thu nhận. Gần đây, quy luật lại còn nghiêm ngặt hơn, tức là không thu nhận bất cứ một ai ở các nơi khác, ngoài địa hạt Tứ Xuyên.

    "Thanh Phong đinh" là môn ám khí độc đáo của phái Thanh Thành cũng như "Thiên Vương Bổ Tâm châm" là võ công đặc biệt của phái Bồng Lai. ám khí củaChử Bảo Côn phát xuất lúc nãy chính là "Thanh Phong đinh" mà Vương NgọcYến lại gọi là "Thiên Vương Bổ Tâm châm", khiến cho tất cả những nhân vật pháiThanh Thành ở đây đều kinh sợ vô cùng. Quy luật của phái Bồng Lai cũng nghiêm ngặt khôngkém phái Thanh Thành, chỉ thu nhận đồ đệ người tỉnh Sơn Đông, mà cùng trong tỉnh này, họ lại chỉ ưa kén chọn người Lỗ Đông thôi. Người Lỗ Tây và Lỗ Nam muốn được thu nhận vào làm môn hạ phái Bồng Lai thì thiên nan vạn nan.

    Khi người ta đã hóa trang cải dạng, thì người ngoài khó mà khám phá ra được. Song về thổ âm, trăm nghìn câu thế nào cũng bị lộ tẩy một câu. Chử Bảo Côn là con nhà thế gia đại tộc ở Tây Xuyên, làm thế nào lại gia nhập được vào làm môn hạ phái Bồng Lai... Đó là một sự kỳ quặc không ai ngờ. Tư Mã Lâm tuy muốn dò xét xem Chử Bảo Côn chính là đồ đệ của ai, chẳng qua là do bản tính hiếu kỳ, chứ chẳng có ác ý gì. Người kinh hoảng nhất trong bọn lại chính là Chử Bảo Côn. Nguyên sư phụ của Chử Bảo Côn là Đô Linh Tử đạo nhân. Thời kỳ đạo nhân hãy còn nhỏ tuổi bị phái Thanh Thành chơi cho một vố đau, nên cố ý mưu toan báo phục. Về sau ông nghĩ ra một kế, sai người giả dạng làm kẻ cướp Giang Dương, lẻn vào nhà họ Chử ở Quán Huyện, bắt trói gia chủ rồi còn toan cưỡng hiếp cả hai cô con gái. Đô Linh Tử đợi sẵn bên ngoài, tới lúc nguy cấp dường như ngàn cân treo sợi tóc, Đô Linh Tử mới nhảy vào đánh đuổi hết bọn cướp giả mạo. Nhà họ Chử xiết bao cảm kích coi Đô Linh như bậc thần thánh. Đô Linh Tử liền thừa cơ hội khuyên nhủ:

    - Nếu không có võ nghệ cao cường, thì dù có gia tài trăm vạn cũng khó lòng tránh khỏi quân gian khi có biến. Tôi xem những quân cướp này, chính là người trong phái Thanh Thành ở địa phương này. Bữa nay chúng bị thất bại, lần sau tất chúng sẽ đem toàn lực tới cướp nữa.

    Họ Chử là một nhà rất được trọng vọng ở địa phương này. trong nhà có mời võ sư tới bảo vệ, nay được mục kích các võ sư vừa bị quân cướp đánh cho mấy quyền cước đã té quay ra, lại nghe nói quân cướp còn tới nữa, hồn vía lên mây, hết sức năn nỉ Đô Linh Tử lưu lại. Đô Linh Tử cũng từ chối lấy lệ, đợi cho gia chủ van vỉ mãi mới giả bộ miễn cưỡng nhận lời. Đô Linh Tử xếp đặt sẵn kế hoạch từ trước, ông đã nhằm Chử Bảo Côn, con gia chủ, là một đứa nhỏ có căn cốt rất tốt, có khả nănghọc võ nghệ. Thế là ông cứ tiến hành kế hoạch bước dần từng bước một. Không bao lâu, ông chính thức nhận Chử Bảo Côn làm đồ đệ.

    Ngoại trừ việc dụng ý thâm hiểm để gây thêm oán thù với phái Thanh Thành, Đô Linh Tử cũng không có bản tính gì là thâm độc, về võ công lại rất cao cường. Ông dặn nhà họ Chử phải đề phòng rất nghiêm mật, và ngấm ngầm dạy Chử Bảo Côn luyện tập võ nghệ. Sau mười năm, Chử Bảo Côn đã trở thành một nhân vật thứ nhất thứ nhì trong phái Bồng Lai. Đô Linh Tử là người cực kỳ nhẫn nại. Từ ngày lưu trú ở Chử Gia Trang, ông liền giả làm người câm. Thủy chung không nói với ai lấy nửa lời. Trong lúc dạy võ, ông chỉ toàn viết chữ, tuyệt nhiên không nói một câu thổ âm Sơn Đông nào cả. Vì thế mà ông cùng Chử Bảo Côn, hai thày trò gần gũi suốt mười mấy năm trời, Chử không hề biết là thầy giả câm. Mãi tới lúc Chử Bảo Côn đã thành tài, Đô Linh Tử mới viết rõ nguyên ủy những tiền nhân hậu quả giữa phái Thanh Thành và phái Bồng Lai, dĩ nhiên việc sai người giả dạng làm quân cướp thì ông giấu kín không nhắc tới, để tùy đồ đệ tự quyết.

    Suốt thời gian mười năm, ân trạch của Đô Linh Tử đối với Chử Bảo Côn đã quá thâm hậu, ông đem hết võ công của phái Bồng Lai dốc ra truyền thụ cho đồ đệ. Chử Bảo Côn vô cùng cảm kích, nên sau khi nghe rõ ý chí của sư phụ, liền xin gia nhập vào làm môn hạ Tư Mã Vệ ở phái Thanh Thành. Tư Mã Vệ là phụ thân Tư Mã Lâm. Lúc đó, Chử Bảo Côn đã khá lớn, hơn nữa y lại tự giới thiệu là đã học qua mấy đường quyền cước do võ sư ở trong nhà dạy, nên Tư Mã Vệ có ý không muốn thu nhận. Song vì họ Chử là một nhà đại tài chủ ở Xuyên Tây. Nhiều tiền lại sẵn thế lực. Thanh Thành tuy là một phái võ, nhưng cơ sở chính lại ở Xuyên Tây. Vì không muốn mất hòa khí với một hào môn địa phương, hơn nữa được một đồ đệ người họ Chử càng tăng thêm thanh thế cho bản phái, nên Tư Mã Vệ thu nhận Chử Bảo Côn làm đồ đệ. Sau khi truyền dạy võ nghệ cho Chử Bảo Côn được ít lâu. Tư Mã Vệ cũng nhận thấy võ công của y không phải là tay tầm thường, ông có gặng hỏi mấy lần. Chử Bảo Côn cũng chỉ tìm lời chống chế cho xuôi chuyện.

    Tư Mã Vệ vẫn nể mặt phụ thân y, nên không bức bách quá, ông cũng cho là hạng công tử nhà giàu mà học được võ công như thế cũng không phải là chuyện dễ. Chử Bảo Côn trước khi xin gia nhập làm môn hạ phái Thanh Thành y đã từng được Đô Linh Tử dặn dò cặn kẽ, cần phải gia tâm nghiên cứu rèn luyện các môn võ của phái Thanh Thành. Mỗi năm gặp những ngày tuần tiết, Chử Bảo Côn mang lễ vật rất hậu kính thầy và tặng sư huynh cùng bạn hữu. Sư phụ cần dùng gì, y đều chiều theo ý muốn tức khắc. Nhờ ở gia tư hào phú, nên y làm việc gì cũng được chu đáo. Tư Mã Vệ yêu quí y vô cùng, đem hết võ công truyền thụ cho không giấu giếm tý gì, vì thế mà Chử Bảo Côn không kém gì Tư Mã Lâm, đều học được hết những môn sở trường của Tư Mã Vệ.

    Trước đây ba bốn năm, Đô Linh Tử sai y xuất du tới núi Bồng Lai, biểu diễn lại những môn võ của phái Thanh Thành để biết hết những điều bí điệu trong võ công bên địch, rồi sau mới quyết định đánh một trận để phá tan phái Thanh Thành. Song Chử Bảo Côn mấy năm làm môn hạ phái Thanh Thành, cảm thấy Tư Mã Vệ rất hậu tình đối với y, trong những lúc truyền thụ võ nghệ, ông coi y như con đẻ. Nên bây giờ y nghĩ việc mình ra tay tiêu diệt cả phái Thanh Thành, giết toàn gia Tư Mã Vệ, trong lòng rất là bất nhẫn. Y mới ngấm ngầm quyết định, đợi sau khi Tư Mã Vệ qua đời rồi, y mới ra tay. Còn Tư Mã Lâm sư huynh đối với y cũng bình thường, dù giết đi cũng chẳng có gì đáng kể. Vì thế nên y trùng trình thêm mấy năm nữa. Đô Linh Tử đã mấy lần thôi thúc. Chử Bảo Côn đều tìm cách thoái thác. Y nói:

    - Xét về 18 thế đánh ở chữ "Thanh" hình như chưa đủ, mà 36 thế phá ở chữ "Thành" tựa hồ còn có bí quyết riêng nữa.

    Đô Linh Tử đã tốn bao nhiêu tâm huyết, khi nào lại không theo đuổi dến cùng.

    Mùa thu năm ngoái, thốt nhiên xảy ra một việc không ai tưởng tượng được. Tư Mã Vệ bị tử thương tại miền phụ cận thành Bạch Đế, do một người bí mật nào đó dùng thế "Phá Nguyệt chùy", một trong 36 thế phá thuộc chữ "Thành" đánh thủng màng tai, vào sâu tới óc. Thế võ này tuy mang tên chữ "chùy" (cái dùi) nhưng kỳ thực không phải là dùng dùi sắt, mà chỉ là chụm 5 đầu ngón tay lại thành hình cái dùi nhọn phóng tới, rồi dùng nội lực hùng hậu đâm thủng màng tai đối phương.

    Người ta sở dĩ đứng được ngay ngắn vững vàng là nhờ ở cái màng hình bán nguyệt trong người, nó có công dụng làm cho thân thể được thăng bằng. Nếu bị trúng gió, chảy nước mắt nước mũi ra nhiều, hơi thở ở mũi khích động quá mạnh, *****ng tới màng bán nguyệt, tức thời toàn thân bị choáng váng. Sức nội kình do "Phá Nguyệt chùy" phát ra cốt làm cho rung động mạnh để phá thủng màng bán nguyệt. Về thủ pháp đã độc ác mà lúc sử dụng phải cực kỳ linh hoạt, xảo trá, đột nhiên đánh ra, thì dẫu đối phương võ công có cao cường hơn, nhưng cũng khó mà kháng cự kịp.

    Được tin Tư Mã Vệ tử thương. Tư Mã Lâm và Chử Bảo Côn từ Thành Đô đi suốt ngày đêm tới nơi phụ cận thành Bạch Đế. Sau khi điều tra thương tích, họ biết rằng Tư Mã Vệ bị trúng "Phá Nguyệt chùy", một thế võ tuyệt diệu của bản phái. Hai người vừa kinh ngạc vừa đau xót. Sau một hồi suy luận, đều cho rằng: Người trong bản phái biết sử dụng "Phá Nguyệt chùy" ngoài Tư Mã Vệ, chỉ có Tư Mã Lâm, Chử Bảo Côn, và hai vị cao thủ kỳ cựu nữa thôi. Nhưng trong lúc biến cố xảy ra thì cả bốn người cùng ở với nhau một chỗ tại Thành Đô, nên họ không có hiềm nghi gì nhau cả. Thế thì ai là hung thủ giết Tư Mã Vệ... Chắc chỉ có Cô Tô Mộ Dung hay dùng lối "Gậy Ông Đập Lưng Ông". Ngoài ra không còn ai có đủ tài làm được thế.

    Thế là phái Thanh Thành chiêu tập tất cả những nhân vật cao thủ kéo tới Cô Tô tìm Mộ Dung để thanh toán món nợ máu. Trước khi đi, Chử Bảo Côn đã hỏi ngầm Đô Linh Tử về vụ án này có phải người phái Bồng Lai đã dúng tay vào không...

    Đô Linh Tử dùng bút viết:

    - Võ công Tư Mã Vệ với ta cũng ngang nhau thôi. Nếu một mình ta mà dùng cách ám toán, thì chỉ dùng môn "Thiên Vương Bổ Tâm châm" cũng đủ giết chết đối phương. Còn nếu nhiều người vây đánh, thì phải dùng "Thiết Quài Trâu" của bản phái. Chử Bảo Côn cho là rất đúng, y đã biết rõ bản lãnh của hai sư phụ không ai hạ nổi ai. Nếu nói là dùng "Phá Nguyệt chùy" để giết Tư Mã Vệ, thì đừng nói là Đô Linh Tử không biết dùng thế đó, mà dù có biết chăng nữa, cũng không thể thắng được Tư Mã Vệ. Thế là Chử Bảo Côn không còn hoài nghi gì nữa, theo luôn Tư Mã Lâm đến Giang Nam để báo thù.

    Đô Linh Tử cũng không ngăn cản, chỉ ân cần dặn y việc gì cũng nên cẩn thận, cần sao cho thêm lịch duyệt, rộng kiến văn, đừng để đến nỗi phải chết uổng mạng dưới tay phái Thanh Thành. Khi đến Cô Tô dò hỏi tin tức, họ tới "Thính Hương tinh xá" một cách rất dễ dàng. Không ngờ bọn Tần gia trại ở Vân Châu đã đến đó trước.

    Kỷ luật của phái Thanh Thành rất nghiêm ngặt. Nếu không có hiệu lệnh của chưởng môn nhân, thì bất cứ ai cũng không được nói bừa làm ẩu, nên phái này thấy bọn cướp Tần gia trại lộn xộn như thế, họ rất lấy làm bất mãn. Phái Thanh Thành dốc chí vào việc báo cừu, nên lúc ở "Thính Hương tinh xá", cây cỏ cũng không hề động đến, ho tự mang lương khô đi để dùng. Cũng vì thế mà người phái Thanh Thành đi đâu cũng không bị mất thể diện. Không ngờ Vương Ngọc Yến và bọn A Châu đột nhiên về tới nơi, khiến cho sự tình biến diễn một cách kỳ dị ngoài tưởng tượng của mọi người. Chử Bảo Côn theo đúng thủ pháp của phái Thanh Thành để phóng "Thanh Phong đinh". Ngay hồi còn sinh tiền, Tư Mã Vệ cũng không mảy may nghi ngờ. Thế mà tự miệng Vương Ngọc Yến nói toạc ra, khiến cho Chử Bảo Côn trong lúc sửng sốt không kịp phòng ngừa, tuy y muốn giết nàng để bịt miệng, nhưng vì lòng bất nhẫn, không nỡ hạ thủ, thành ra bị lỡ. Chử Bảo Côn nghĩ thầm:

    - Năm chữ "Thiên Vương Bổ Tâm châm" đã lọt vào tai bọn Tư Mã Lâm rồi, dù ta có giết Ngọc Yến cũng vô ích, lại càng tỏ ra là có tật giật mình. " Y hồi tưởng lại câu nàng biểu, cái việc ta đang mưu đồ đây thì từ 80 năm về trước, chương môn nhân thứ bảy của bổn phái là Hải Phong Tử đã từng thử làm rồi. Tài năng và võ công người còn giỏi hơn ta. Sau nàng lại biểu: "Đừng hành động nữa, cái đó vô dụng". Phải chăng Tư Mã sư phụ đã không đem những môn tuyệt nghệ của phái Thanh Thành ra dạy ta một cách đến nơi đến chốn... Phải chăng lúc ta xin nhập vào hàng ngũ phái Thanh Thành, Tư Mã sư phụ đã khám phá được điều bí ẩn của ta, mà không muốn nói ra, và ta vẫn ngốc nghếch chẳng biết gì... Những người phái Thanh Thành biết rõ ta là gian tế, sẽ đối phó với ta ra sao... Từ đây thanh danh ta ở trong võ lâm chắc là mất hết.

    Chử Bảo Côn càng nghĩ đầu óc càng rối loạn. Y quay đầu lại thấy Tư Mã Lâm vá mọi người hai mắt đều trừng trừng nhìn mình và hai tay đều thủ vào trong tay áo.

    Chưởng môn nhân phái Thanh Thành là Tư Mã Lâm lạnh lùng nói:

    - Chử gia, nguyên trước ngươi là người trong phái Bồng Lai ư...

    Chử Bảo Côn tỏ vẻ lúng túng, thừa nhận cũng không được mà phủ nhận cũng không xong. Tư Mã Lâm lại nói tiếp:

    - Mi chui vào tận tổ phái Thanh Thành, để học môn võ tuyệt chiêu "Phá Nguyệt chùy". Sau khi học được rồi, mi liền lấy tiên phụ ta để thí nghiệm, mi là đứa lòng lang dạ thú như thế, thực là ác độc!

    Tư Mã Lâm nói dứt lời, hai tay duỗi thẳng ra, mỗi tay đều cầm một chiếc binh khí.

    Tư Mã Lâm cho là bao nhiêu tuyệt kỹ của bản phái bị Chử Bảo Côn học trộm hết, rồi y trở về truyền thụ lại cho những tay cao thủ phái Bồng Lai. Lúc phụ thân mình bị giết, tuy đúng là Chử Bảo Côn có mặt ở Thành Đô, nhưng cũng là âm mưu của y. Người phái Bồng Lai đã học được thủ pháp, đương nhiên là họ có thể gia hại Tư Mã Vệ bất cứ lúc nào.

    Chử Bảo Côn xám mặt lại. Y tự nghĩ sư phụ Đô Linh Tử sở dĩ cho y trà trộn vào phái Thanh Thành quả là có dụng ý như thế thực. Song mãi tới ngày nay, y chưa hề tiết lộ với ai một chút võ công nào của phái Thanh Thành. Nay sự tình đã xảy ra thế này, dầu rằng trăm miệng khôn phân lẽ nào... Xem chừng cuộc ác chiến sắp xảy ra đến nơi rồi. Đối phương người nhiều thế mạnh, võ công của Tư Mã Lâm và hai vị cao thủ khác nữa đều ngang sức với mình cả, hôm nay khó lòng tránh khỏi cuộc đổ máu. Chử Bảo Côn nghiến hai hàm răng lại tử nhủ:

    - Mình tuy chưa làm việc đó, nhưng lòng phản thày đã có từ lâu, dù bị phái Thanh Thành giết cũng là đáng tội.

    Vì nghĩ trong lòng như vậy nên Chử Bảo Côn chỉ trả lời:

    - Tư Mã sư phụ nhất quyết không phải là tôi sát hại...

    Tư Mã Lâm quát:

    - Cố nhiên là không phải tự tay mi giết, nhưng mà mi truyền võ công cho kẻ khác giết. Thế thì phỏng khác gì chính tay mi hạ sát...

    Tư Mã Lâm lại quay sang nói với hai ông già:

    - Khương sư thúc và Mạnh sư thúc! Đối với tên phản đồ này bất tất phải theo quy luật võ lâm. Chúng ta phải hợp lực lại để giết y.

    Hai ông già gật đầu và cũng duỗi thẳng hai tay, rút binh khí từ trong tay áo ra, người nào cũng tay trái cầm chùy, tay phải cầm búa, đứng vây hai bên. Chử Bảo Côn lùi lại mấy bước đứng tựa lưng vào chiếc cột lớn trong sảnh, để tránh khỏi cái thế trước sau đều bị uy hiếp.

    Tư Mã Lâm hô lớn:

    - Ta giết đứa phản đồ để báo thù cho cha!

    Nói vừa dứt tiếng, Tư Mã Lâm xông thẳng lại nhằm đỉnh đầu Chử Bảo Côn đánh luôn một chùy. Chử Bảo Côn nghiêng người tránh, và dùng tay trái đánh trả lại một trùy. Ông già họ Khương quát:

    - Đứa phản đồ kia... Mi còn mặt mũi nào mà sử dụng võ công của bản phái...

    Ông vừa quát vừa dùng tay trái đâm chùy vào cổ họng đối phương. Tay phải cầm cây búa nhỏ dùng thế "Phượng Điểm Đầu" gõ luôn ba búa vào đầu đối phương. Bọn người ở Tần gia trại thấy họ sử dụng tiểu chùy một cách rất thuần thục, và phép đánh cũng rất kỳ lạ. Chúng đều động tính hiếu kỳ nhìn xem không chớp mắt. Diêu Bá Dương cùng những tay cao thủ đều gật gù khen thầm:

    - Phái Thanh Thành tiếng tăm lừng lẫy Xuyên Tây, thực xứng đáng lắm.

    Bị ba người vây đánh, Chử Bảo Côn đỡ bên trái thì hở bên phải. Y cố gượng cầm cự, trong khoảng khắc đã thấy rõ cơ nguy. Tư Mã Lâm căm phẫn, nóng lòng muốn báo thù cho cha, thế đánh dồn dập rất mãnh liệt. Chử Bảo Côn không tài nào chống lại được. Hai ông già họ Khương và họ Mạnh dùng toàn những thế "Ôn", "Ngân", "Ấm", "Độc", tức là 4 bí quyết lớn trong võ công phái Thanh Thành. Dùi đâm búa đánh. mỗi lần ra tay đều nhằm vào những chỗ yếu hại của đối phương. Những chiêu số và binh khí của ba người sử dụng, Chử Bảo Côn đều thuộc lòng cả. Vừa ra đòn này, y có thể suy biết ba bốn đòn kế tiếp và biến hóa ra sao rồi, nhờ thế nên một người chống ba mà vẫn cầm cự được.

    Chống đỡ được hơn mười hiệp, Chử Bảo Côn đột nhiên cảm thấy trong lòng bứt rứt và thầm nghĩ:

    - Tư Mã sư phụ quả thực không bạc đãi mình. Cứ xem những chiêu thức mà hai sư thúc sử dụng đây, không có một thế nào là mình không hiểu rõ. Trong lúc luyện tập hay biểu diễn, họ còn có thể cố ý giấu giếm không lộ những thế võ kỳ diệu hiểm yếu ra cho mọi người biết, chứ lúc này là cuộc tranh đấu liều mạng, tất nhiên ba người phải dốc toàn lực ra. Suy đấy đủ biết võ công của phái Thanh Thành đúng là sư phụ đã dạy hết cho mình, không dấu một thế nào nữa.

    Nghĩ thế nên Chử Bảo Côn hết sức cảm kích nghĩa sư đệ, y không cầm lòng được, lại nói lớn:

    - Tư Mã sư phụ, quyết không phải là tôi sát hại đâu...

    Chử Bảo Côn vừa phân tâm, thì Tư Mã Lâm đã nhảy phắt tới chỉ còn cách có hơn một thước. Phái Thanh Thành hay dùng những binh khí vừa nhỏ vừa ngắn, lợi hại nhất những lúc đánh giáp lá cà. Tư Mã Lâm nhảy sát lại gần như thế, nếu đối thủ là người khác phái, thì hẳn đã nắm chắc phần thắng tới tám phần mười rồi. Khốn nỗi võ công của Chử Bảo Côn cùng với hắn hai bên giống nhau, nên hạ nhau rất khó. Dưới ánh đèn mọi người thấy hoa ca mắt, Tư Mã Lâm và Chử Bảo Côn thân hình nhanh như điện chớp, hai tay vung múa tít thò lò. Trong chớp mắt hai bên đã giáp chiến tới bảy tám hiệp, dùi thép đâm qua, đâm lại, chùy nhỏ thì gõ ngang đánh dọc. Hai đối thủ hung hăng quyết liệt như phát điên. Cả hai người cùng luyện tập đã quá tinh thục, nên hễ bên này đánh ra một thế là tự nhiên bên kia đã đỡ ngay được và trả đòn liền. Trong khoảng khắc hai bên đã đấu tới mấy chục hiệp, người ngoài chỉ nghe thấy những tiếng binh khí va chạm loảng xoảng, còn những thế tiến công thủ ngự thì không ai trông rõ.

    Hai ông già thấy Tư Mã Lâm đánh mãi không hạ được đối phương, đột nhiên huýt lên một tiếng, rồi hai người đều lăn xả xuống đất, tấn công vào hạ bàn Chử Bảo Côn. Chử Bảo Côn đối với thế "Lôi Công Trước Địa Oanh" cũng đã thuộc làu. Song hai tay đang bận đối phó với binh khí của Tư Mã Lâm, không còn rảnh chút nào để chống với hai ông già, chỉ còn cách nhảy tránh mà thôi. Ông già họ Khương đánh một chùy từ trái sang phải, ông già họ Mạnh lại đánh một chùy từ phải sang trái.

    Chử Bảo Côn giơ chân đá phốc vào cằm ông già họ Mạnh, ông già họ Mạnh cả giận quát mắng:

    - Quân **** má này! Muốn liều mạng chăng...

    Ông vừa mắng vừa lùi tránh tránh sang một bên. Ông già họ Khương lại thừa thế tiến lên, đánh quét ngang một chùy. Tư Mã Lâm cũng giơ chùy nện thẳng vào mi mắt Chử Bảo Côn.

    Trong lúc cấp bách, Chử Bảo Côn chỉ kịp giơ chùy lên gạt chùy của Tư Mã Lâm, chân bên trái đành liều để cho ông già họ Khương đánh trúng. Chiếc chùy tuy nhỏ mà sức đánh rất mạnh, Chử Bảo Côn đau điếng người, buốt đến tận xương, y không hiểu là chân trái còn hay đã gãy rồi. Khương lão đắc thế đâu có chịu nhường, ông liền đánh tiếp luôn trùy thứ hai.

    Chử Bảo Côn đưa chùy ra đỡ, hai chùy chạm nhau tóe lửa. Đột nhiên Chử Bảo Côn thấy đau nhói lên, y lại bị Khương lão đâm cho 1 dùi vào chân trái nữa. Nhát dùi này chính ra thì Chử Bảo Côn vẫn có thể tránh được, song y biết rõ, nếu tránh khỏi mũi dùi thì hai ông già sẽ đổi thế "Lôi Công Trước Địa Oanh" thành thế "Địa Mẫu Lôi Võng" thì không còn cách nào chống đỡ được nữa. Vả y tưởng rằng chân trái đã bị gãy rồi thì liều chịu thêm một dùi nữa cũng cam. Chiếc dùi đâm vào sâu hai tấc, máu chảy vọt ra, đương lúc quay lộn tranh đấu, máu phun vào bốn bức tường trắng thành từng vệt loang lổ.

    Vương Ngọc Yến thấy A Châu chau đôi mày liễu, và bĩu môi ra, biết rằng nàng có ý chán ghét nhóm người đánh nhau lộn ẩu, làm nhơ bẩn căn phòng thanh nhã tinh khiết của nàng. Ngọc Yến nhếch mép cười nói:

    - Thôi, các ông đừng đánh lộn nữa, có gì thì nói với nhau. Việc gì phải giở trò man rợ vô lý như thế...

    Tư Mã Lâm và hai ông già có ý đánh chết kẻ thù ngay tại trận. Còn Chử Bảo Côn tuy vẫn muốn ngừng tay, nhưng đối phương không chịu thôi biết làm sao được.

    Vương Ngọc Yến thấy bốn người vẫn ác chiến, không lý gì đến lời nói của nàng, mà chủ ý không chịu ngừng tay là bọn ba người phe Tư Mã Lâm nên nàng lại nói tiếp: - Tại tôi buột miệng nói ra một câu "Thiên Vương Bổ Tâm châm" để tiết lộ việc cơ mật trong môn hộ của Chử tướng công. Tư Mã chưởng môn! Các ông hãy ngừng tay mau!

    Tư Mã Lâm quát:

    - Thù cha chẳng đội trời chung, sao lại không báo... Cô nói lôi thôi gì vậy...

    Vương Ngọc Yến nói tiếp:

    - Ông không chịu ngừng tay, tôi sẽ buộc lòng phải giúp Chử tướng công.

    Tư Mã Lâm hơi chột dạ, nghĩ thầm:

    - Thiếu nữ xinh đẹp này có luồng nhãn quang rất lợi hại, nếu võ công nàng lại cao cường mà giúp cho đối phương, kể ra cũng có điểm bất lợi cho mình. Song thoáng cái lại nghĩ khác:

    - Những nhân vật cao thủ phái Thanh Thành hiện ở cả đây, quá lắm bên ta kéo ùa cả ra mà đánh, thì còn sợ gì cô gái ngây thơ non nớt đó...

    Vì nghĩ thế nên Tư Mã Lâm tay đánh lại gia thêm kình lực không thèm lý gì đến Ngọc Yến nữa.

    Ngọc Yến quay sang bảo Chử Bảo Côn:

    - Chử tướng công hãy sử dụng thế "Lý Tồn Hiếu Đả Hổ" rồi sử dụng tiếp thế "Trương Quả Lão Đảo Kỵ Lư".

    Chử Bảo Côn ngẩn người ra, nghĩ thầm:

    - Thế đánh trước là võ công của phái Thanh Thành, thế đánh thứ hai lại là võ công của phái Bồng Lai, hai đằng chiêu số khác nhau làm sao lại có thể sử dụng liên tiếp với nhau được... Có điều đang lúc tình thế cấp bách, làm gì còn kịp suy nghĩ kỹ càng, nên y cũng theo lời Ngọc Yến sử dụng ngay thế "Lý Tồn Hiếu Đả Hổ" nghe "xoảng xoảng" hai tiếng, hai chiếc tiểu chủy của Tư Mã Lâm và ông già họ Khương vừa đánh tới đã bị bật ra. Tiếp theo Chử Bảo Côn xiêu vẹo người đi, lùi lại ba bước, chính lại vừa tầm tránh khỏi đòn phục kích của Mạnh lão. Đòn phục kích này rất là âm độc, hiểm ác, dùng cả dùi lẫn búa đánh luôn 3 đường liên hoàn. Những tay cao thủ trong bọn Diêu Bá Dương ở Tần gia trại đứng bên xem đều toát mồ hôi lo thay cho Chử Bảo Côn. Họ đều cho rằng Chử Bảo Côn không tài nào tránh khỏi thế đánh liên hoàn đó được.

    Không ngờ Chử Bảo Côn vừa gạt được hai chùy của Tư Mã Lâm và Khương lão, rồi tiếp đó lùi lại ba bước để tránh khỏi thế phục kích liên hoàn của Mạnh lão. Những bước lùi đó Chử Bảo Côn đi loạng choạng, chẳng ra lối gì, tựa như anh chàng say rượu. Ấy thế mà chính là nhờ ở những bước loạng choạng đó y đã tránh khỏi những đòn ác liệt của đối phương tựa hồ hai bên trước khi giao đấu đã cùng nhau luyện tập rất thuần thục, rồi đem ra biểu diễn trên sân khấu vậy. Những người trong Tần gia trại đứng xem một cách say sưa khoái trá. Mỗi lần thấy Chử Bảo Côn tránh khỏi một đòn họ lại vỗ tay reo, khi Chử Bảo Côn tránh luôn khỏi ba đòn, tiếng vỗ tay reo hò lại càng rầm rộ.

    Những nhân vật phái Thanh Thành trước kia vẫn trầm lặng nhưng lúc này người nào người nấy dều nhăn nhó rất khó coi. Đoàn Dự gọi bảo Chử Bảo Côn:

    - Hay lắm! Hay lắm! Chử huynh! Vương cô nương dặn thế nào, Chử huynh cứ làm đúng như thế, nhất định sẽ không bị thua đâu.

    Chử Bảo Côn vừa tránh khỏi ba đòn nguy hiểm, mà trong lúc lùi lại ba bước theo thế "Trương Quả Lão Đảo Kỵ Lư" hoàn toàn không kịp nghĩ tới hậu quả ra sao hết. Đầu óc mê man cho là chết cũng được, sống cũng hay. Chử Bảo Côn đã buông lỏng tính mạng từ lâu rồi. Y không ngờ võ công của phái Thanh Thành và phái Bồng Lai khác nhau như nước với lửa, thế mà lại sử dụng liên tiếp với nhau được. Trong lòng Chử Bảo Côn hết sức kinh ngạc, kinh ngạc hơn cả những người trong Tần gia trại và phái Thanh Thành. Ngọc Yến lại hô:

    - Chử tướng công hãy sử dụng thế "Hàn Tương Tử Tuyết Ủng Lam Quan" rồi tiếp đến thế "Khúc Kính Thâm U".

    Chử Bảo Côn thấy lần này lại sử dụng thế võ của phái Bồng Lai trước rồi tiếp đến thế của phái Thanh Thành. Y không kịp đắn đo gì nữa, tức thời dùng dùi và chùy che giữ phía trước người. Vừa lúc đó hai chiếc dùi của Tư Mã Lâm và Mạnh lão đồng thời đâm tới, thấy đối phương đã giữ kín cửa ngõ, không còn chỗ sơ hở dể đánh vào được, nhưng họ vẫn dùng sức đánh ra coi như một đòn bỏ đi. Hai mũi dùi *****ng vào chùy của đối phương kêu "xoảng" một tiếng, hai chiếc dùi đồng thời bị bật ra. Chử Bảo Côn không cần nghĩ ngợi, lún thấp người xuống, và ngoặt tay đâm xéo một mũi dùi ra đằng sau. Khương lão đương sắp nhảy ra đánh phía sau lưng đối phương, không ngờ mũi dùi của đối phương bất thình lình đâm ra vừa nhằm đúng chỗ, lại đúng lúc.

    Thế đánh "Khúc Kính Thâm U" tuy cũng là võ công của phái Thanh Thành, nhưng không có chỗ thâm diệu đặc biệt. Song vận dụng về phương vị và thời gian, quyết không thể nào trái ngược với lẽ thường trong võ học như thế được. Có điều cũng vì mũi dùi đâm vô lý như thế, khiến cho Khương lão không ngờ cứ nhảy xổ tới thành ra đưa người vào mũi dùi, như người tự sát vậy. Lúc biết là nguy, thì không thể nào tránh kịp nữa. "Phập" một cái, mũi dùi đã đâm trúng vào ngang thắt lưng. Khương lão người bị lảo đảo không gượng được, té sấp xuống, máu tuôn ra như suối. Hai người trong phái Thanh Thành vội chạy ra vực Khương lão lui lại. Tư Mã Lâm mắng:

    - Chử Bảo Côn! Mi thật là quân **** má. Chính tự tay mi đâm sư thúc đây. Mi còn cãi được nữa không...

    Ngọc Yến cướp lời:

    - Khương tiên sinh bị thương là do tôi bảo y đâm đó. Các ông phải ngừng tay ngay! Tư Mã Lâm giận quát:

    - Mi có bản lãnh hãy bảo nó giết ngay ta đây này!

    Ngọc Yến nhếch mép cười đáp:

    - Cái đó phỏng có khó gì... Chử tướng công hãy sử dụng thế "Lý Thiết Quải Ngọc Động Luận Đạo".

    Chử Bảo Côn nghĩ bụng:

    - Trong các môn võ công của phái Bồng Lai, chỉ có thế "Lã Thuần Dương nguyệt hạ quá Động Đình" với thế "Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo", mà sao cô nương này lại lôi Lý Thiết Quải vào đó, chắc là nàng nghiên cứu võ công bản phái chỉ biết có chừng, mà buột miệng nói trệch đấy thôi.

    Song trước tình thế cấp bách, Chử Bảo Côn không còn kịp hỏi lại, đành cứ đem sở học lúc bình thời ra sử dụng thế "Lã Thuần Dương nguyệt hạ quá Động Đình".

    Thế võ này chính ra thì bước dài về đằng trước, dáng điệu nhẹ nhàng như là phi hành trên không trung. Nhưng chân trái Chử Bảo Côn bị hai vết thương nên lúc bước dài dáng điệu xiêu vẹo, không thể nào ngay ngắn giống Lã Thuần Dương được, mà đúng là Lý Thiết Quải không hơn không kém. Nhưng trái lại chính nhờ ở chỗ xiêu vẹo đó, người hơi nghiêng về bên trái, chiếc tiểu chùy cầm bên tay phải thay làm chiếc quạt lá bồ, lúc lướt ngang ra, vừa nhằm đúng lúc Mạnh lão nhao đầu tới. "Đốp" một tiếng, chiếc chùy đã đập vào mồm Mạnh lão, làm gãy luôm mười mấy cái răng rơi xuống đất. Đau quá, Mạnh lão nhảy lộn bậy, quẳng binh khí xuống đất, hai tay bịt miệng, ngồi phịch xuống đất. Tư Mã Lâm hoảng vía, không giữ được chủ ý, phân vân chưa biết nên tiếp tục giao đấu hay hãy tạm ngừng tay rồi sẽ tìm cách báo thù sau...

    Hai thế mà Vương Ngọc Yến vừa chỉ điểm cho Chử Bảo Côn quả thực là xảo diệu tuyệt luân, dự tính biết rõ những sự kiện sẽ diễn biến ra sao. Mạnh lão sau khi đánh luôn ba đường liên hoàn nhất định sẽ nhảy tới hông bên phải Chử Bảo Côn, mà lúc đó Chử Bảo Côn đưa ngang chiếc chùy ra nhất định là đánh trúng vào mồm Mạnh lão. Vì Chử Bảo Côn chân trái bị thương tập tễnh, sử dụng thế "Hán Chung Ly Ngọc Động Luận Đạo" lại biến thành thế "Lý Thiết Quải Ngọc Động Luận Đạo", chiếc chùy đưa xéo ra, chứ nếu đánh thẳng, thì lại sai đi mấy tấc thì không đánh trúng được. Những sự tính toán tinh vi, liệu định chuẩn đích, thực là thần diệu tuyệt vời không thể nào tưởng tượng được. Người thường không thể nào dự liệu biết trước được thế đánh của hai bên một cách chuẩn đích như thế. Thế mà Vương Ngọc Yến chỉ buột miệng nói ra, mà tựa như có kỳ tài biết trước cả ba người sẽ phải sử dụng những thế gì, chẳng khác gì người đã thuộc lòng cả trong bụng từ lâu rồi.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    Lần sửa cuối bởi SevenLove™, ngày 04-01-2008 lúc 06:14 PM. Lý do: Tự động gộp các bài viết liên tiếp...

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Các Chủ đề tương tự

  1. Một vài tấm ảnh đẹp về thiên văn nè
    Bởi thienthanaoden trong diễn đàn CLB thiên văn
    Trả lời: 25
    Bài viết cuối: 27-06-2011, 01:52 PM
  2. Video: Thiên tài piano 5 tuổi - xúc động
    Bởi Wind trong diễn đàn Nhạc quốc tế
    Trả lời: 9
    Bài viết cuối: 07-05-2008, 11:37 PM
  3. Khủng long
    Bởi Tuân_se7en trong diễn đàn Khám phá thế giới
    Trả lời: 3
    Bài viết cuối: 25-04-2008, 05:47 PM
  4. Hạ Long có xứng đáng là một trong 7 kì quan của Thế Giới hay không
    Bởi DarkLord8x trong diễn đàn Ý kiến xây dựng diễn đàn
    Trả lời: 4
    Bài viết cuối: 22-02-2008, 01:19 PM
  5. Quán ăn lưu động - Thành Long
    Bởi buratino trong diễn đàn Xem phim
    Trả lời: 2
    Bài viết cuối: 05-06-2006, 08:46 AM

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •