Chiếc máy bay X-33 gầm rú rồi cất cánh, nhằm thẳng về phía thành Rome. Trong máy bay, Langdon ngồi im lặng. 15 phút vừa qua quả là hỗn độn. Giờ đây, sau khi đã giảng giải sơ qua cho Vittoria về hội Illuminati và mục tiêu chống giáo hội của họ, anh bắt đầu nhận thức rõ mức độ trầm trọng của tình hình.
Mình đang làm cái quái quỷ gì thế nhỉ? Langdon băn khoăn. Đáng lẽ lúc này thấy có cơ hội thì phải quay về nhà ngay mới phải chứ? Tuy nhiên, anh biết chẳng có cơ hội nào cả.
Lí trí của Langdon đang giục giã, thôi thúc anh quay về Boston. Nhưng sự tò mò mang tính học thuật đã lấn át thói quen cẩn trọng trong anh. Tất cả những gì anh vốn tin tưởng về sự tan rã của hội Illuminati bỗng chốc đều sai toét. Một phần, anh muốn đi tìm bằng chứng để khẳng định cho chắc chắn. Và còn cả lương tâm nữa. Kohler thì ốm yếu, Vittoria thì đơn thương độc mã.
Langdon biết rằng kiến thức của anh về hội Illuminati có thể giúp họ phần nào. Và trách nhiệm đạo đức không cho phép anh rời khỏi nơi này.
Còn có một lý do nữa. Dù Langdon thấy xấu hổ vì phải thừa nhận điều này, nhưng khi nghe nói đến vị trí của phản vật chất, mối quan tâm trước nhất của anh không phải là sự bình an của những cư dân thành Vatican, mà là một thứ khác.
Nghệ thuật.
Cái nôi của những kiệt tác nghệ thuật vĩ đại nhất thế giới đang bị đe doạ bởi một quả bom hẹn giờ. Bảo tàng Vatican chứa trên 60.000 hiện vật vô giá trong 1.407 căn phòng - những tác phẩm của Michelangelo, Da Vinci, Bernini, Botticelli. Langdon băn khoăn không hiểu người ta có kịp sơ tán những kiệt tác này không. Anh biết điều đó là không thể. Có nhiều hiện vật điêu khắc nặng hàng tấn. Đấy là chưa kể đến nhũng công trình kiến trúc vô cùng quý giá - nhà nguyện Sistine, đại thánh đường St. Peter, những dãy cầu thang xoáy nổi tiếng của Michelangelo dẫn tới viện bảo tàng Vaticano - những bằng chứng vô giá về tài năng sáng tạo của con người. Langdon tự hỏi không biết còn bao lâu nữa thì cái hộp sẽ nổ tung.
- Cám ơn ông đã đi cùng tôi, - Vittoria khẽ nói.
Tạm ngắt dòng suy nghĩ miên man của mình, anh ngước mắt lên. Vittoria đang ngồi đối diện anh, ở dãy ghế bên kia lối đi.
Mặc dù dưới ánh sáng nhợt nhạt của đèn huỳnh quang trong khoang máy bay, cô gái vẫn toát lên vẻ điềm tĩnh - một vẻ đẹp dịu dàng đầy quyến rũ. Hơi thở của cô lúc này đã trở nên sâu hơn, dường như khả năng chế ngự bản thân đã trở lại trong Vittoria… tình thương cha đã biến thành nỗi khao khát muốn báo thù và giành lại công lý.
Không có thời gian để thay quần áo, Vittoria vẫn mặc nguyên quần soóc và chiếc áo không tay. Đôi chân rám nắng của cô đang nổi da gà vì lạnh. Theo bản năng, Langdon cởi áo khoác và đưa cho Vittoria.
- Hiệp sĩ theo phong cách Mỹ? - Cô đón lấy chiếc áo, đôi mắt ánh lên vẻ biết ơn.
Máy bay xóc nẩy lên khi vượt qua một vùng không bằng phẳng, khiến Langdon thoáng cảm thấy e sợ. Không có cửa sổ, bên trong cabin thật ngột ngạt. Langdon cố gắng tưởng tượng rằng mình đang ở trên một cánh đồng rộng thênh thang. Rồi anh nhận thấy rằng ý nghĩ ấy thật nực cười. Bóng tối đặc quánh.
Langdon cố xua những ký ức ấy ra khỏi tâm trí. Đã lâu lắm rồi.
Vittoria nhìn anh.
- Ông có tin vào Chúa không, ông Langdon?
Câu hỏi khiến anh giật mình. Vẻ chân thật trong giọng nói của cô gái còn tác động mạnh mẽ hơn bản thân câu hỏi. Mình có tin vào Chúa không nhỉ? Anh đã hy vọng rằng câu chuyện để giết thời gian trong chuyến bay này sẽ xoay quanh một chủ đề khác nhẹ nhàng hơn.
Một sự thách đố về tâm linh, Langdon thầm nghĩ. Đó là biệt danh mà bạn bè đặt cho anh. Mặc dù đã rất nhiều năm Langdon nghiên cứu về tôn giáo, nhưng anh không theo bất kỳ tín ngưỡng nào.
Anh tôn trọng sức mạnh của đức tin, tính hướng thiện của các giáo hội, sức mạnh mà tôn giáo mang lại cho con người… Nhưng trong anh, sự hoài nghi về mặt học thuật vẫn còn rất lớn, và niềm tin thực ra lại là một trở ngại đối với những lập luận lôgíc.
- Tôi muốn tin lắm chứ, - anh đáp.
Câu trả lời của Vittoria không hề có hàm ý đánh giá hay thách thức:
- Vậy tại sao ông lại không tin?
Anh khẽ cười:
- Ôi, tin được cũng không phải dễ. Để có đức tin thì người ta phải tin vào rất nhiều thứ, phải tin đủ loại phép màu - ví dụ như sự Thụ thai trinh tiết và sự can thiệp của Chúa trời. Lại còn phải tuân theo vô số thứ chuẩn mực. Kinh thánh, Kinh Koran, Kinh Phật… tất cả đều có những tín điều gần giống nhau - và cả những hình phạt cũng giống nhau. Theo tất cả những loại kinh đó thì tôi sẽ bị đày xuống địa ngục nếu không chịu tuân thủ những tín điều ấy. Tôi không thể tưởng tượng được rằng lại có một vị Chúa nào muốn hành xử kiểu đó.
- Tôi hy vọng là ông sẽ không cho phép sinh viên của mình né tránh câu hỏi một cách tai quái như thế.
Lời nhận xét này khiến Langdon ngỡ ngàng:
- Gì cơ?
- Ông Langdon, tôi không hỏi là ông có tin vào những gì mà con người nói về Chúa hay không. Tôi chỉ hỏi là ông có tin rằng có Chúa hay không thôi, hai câu hỏi này khác nhau đấy. Kinh thánh là những câu chuyện… là những truyền thuyết và những nỗ lực của nhân loại để thoả mãn niềm khát khao hiểu biết về ý nghĩa của cuộc sống. Tôi không yêu cầu ông nhận xét những thứ đó. Tôi chỉ muốn biết ông có tin là có Chúa hay không thôi. Khi nằm dưới bầu trời đầy sao, ống có bao giờ cảm nhận được sự hiện điện của đấng tối linh không? Lúc ấy thâm tâm ông có mách bảo ông rằng bầu trời này là do chính tay Chúa tạo ra hay không?
Langdon đắn đo suy nghĩ một lúc.
- Tôi hơi tọc mạch, - Vittoria xin lỗi.
- Không, tôi chỉ…
- Chắc chắn là ông đã từng thảo luận vấn đề đức tin trong các giờ dạy của mình.
- Rất thường xuyên.
- Và ông đóng vai người phản biện, tôi nghĩ vậy. Luôn luôn khơi gợi để sinh viên tiếp tục tranh luận.
Langdon mỉm cười.
- Hẳn cô cũng là giáo viên.
- Không, nhưng tôi học được từ một người thầy. Cha tôi có đủ lập luận để cho rằng Mobius Strip có hai mặt.
Langdon bật cười, hình dung tác phẩm tài tình của Mobius Strip - một vòng tròn xoắn bằng giấy, về mặt kỹ thuật chỉ có một mặt. Lần đầu tiên Langdon nhìn thấy hình ảnh đơn diện ấy trong tác phẩm của M. C. Escher.
- Tôi có thể hỏi cô một câu không, thưa cô Vetra?
- Hãy gọi tôi là Vittoria. Gọi là cô Vetra nghe già quá.
Anh thở dài, đột nhiên cảm thấy mình già:
- Vittoria, tên tôi là Robert.
- Ông đang định đưa ra một câu hỏi.
- Đúng thế. Là một nhà khoa học, và là con gái của một linh mục Cơ đốc giáo, cô nghĩ gì về tôn giáo?
Vittoria ngừng lại, đưa tay gạt một lọn tóc đang xoà vào mắt:
Tôn giáo cũng như ngôn ngữ và quần áo. Chúng ta bị cuốn hút bởi những nghi thức do chính chúng ta tự đặt ra. Cuối cùng, chúng ta đều tuyên bố một điều, rằng cuộc sống có ý nghĩa, rằng chúng ta phải biết ơn nguồn sức mạnh đã tạo ra chúng ta.
Langdon nghi ngờ.
- Vậy ý của cô là tuỳ thuộc vào nơi sinh mà người ta sẽ trở thành tín đồ Hồi Giáo hay Thiên Chúa giáo?
- Chẳng phải đó là điều hiển nhiên hay sao? Hãy nghĩ đến việc truyền giáo trên thế giới mà xem.
- Vậy đức tin là ngẫu nhiên?
- Không hề. Đức tin có tính toàn cầu. Và mỗi chúng ta có những cách hiểu khác nhau mà thôi. Một số người cầu nguyện chúa Giê-su, một số thì hành hương đến thánh địa Mecca, còn những người khác thì lại nghiên cứu các hạt nhỏ hơn nguyên tử. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều tìm đến với chân lý, chân lý đó lớn lao hơn chúng ta rất nhiều.
Langdon thầm ước ao, giá sinh viên của anh cũng có thể diễn đạt gẫy gọn như vậy. Quỷ thật, ước gì chính anh cũng có khả năng diễn đạt rõ ràng như thế.
- Thế còn Chúa? - Anh hỏi. - Cô có tin vào Chúa không?
Vittoria im lặng hồi lâu.
- Khoa học cho tôi biết rằng Chúa chắc chắn tồn tại. Trí tuệ thì mách bảo tôi rằng tôi sẽ không bao giờ hiểu hết được Chúa. Còn trái tim tôi mách bảo rằng không cần phải cố gắng tìm hiểu để làm gì.
Thế có nghĩa là sao? Anh thầm băn khoăn:
- Vậy cô tin rằng quả thật là có Chúa, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được ông ta?
- Bà ta chứ, - cô gái mỉm cười. - Những người thồ dân Mỹ nói đúng đấy.
Langdon cười tủm tỉm:
- Mẹ Trái Đất.
- Đúng thế đấy. Hành tinh này là một thực thể sống. Tất cả chúng ta là những tế bào với những mục đích khác nhau. Và chúng ta tương tác với nhau, phục vụ lẫn nhau, phục vụ cho một tổng thể.
Nhìn Vittoria, Langdon thấy trong lòng dâng trào một niềm xao xuyến, một cảm giác đã từ lâu lắm rồi không xuất hiện trong trái tim anh. Đôi mắt cô gái ánh lên vẻ tinh anh láu lỉnh… và giọng nói thật thuần khiết khiến anh bị cuốn hút.
- Ông Langdon, tôi có thể hỏi ông một câu khác được không?
- Robert, - anh nói. Gọi là ông Langdon nghe già quá. Má mình già thật rồi!.
- Xin lỗi vì câu hỏi của tôi có vẻ hơi tọc mạch. Robert này, vì sao anh lại nghiên cứu về Illuminati?
Langdon đăm chiêu.
- Thực ra là vì tiền.
Vittoria lộ vẻ thất vọng.
- Tiền ư? Anh muốn nói đến thù lao tư vấn?
Langdon bật cười, cô gái đã hiểu nhầm.
- Không. Tiền là tờ tiền một mặt ấy! - Anh thò tay vào túi quần và lôi ra một ít tiền, tìm tờ 1 đô la. - Tôi bị cuốn hút bởi hội kín này khi biết rằng trên tờ tiền giấy của nước Mỹ có biểu tượng của hội Illuminati.
Mắt Vittoria nheo lại, rõ ràng là đang suy xét xem câu trả lời này có nghiêm túc hay không.
Langdon đưa cho cô tờ tiền.
- Hãy xem mặt sau. Xem dấu triện lớn bên trái.
Vittoria lật tờ bạc 1 đô la.
- Anh muốn nói đến hình Kim tự tháp?
- Kim tự tháp. Cô có biết Kim tự tháp có ý nghĩa gì trong lịch sử nước Mỹ không?
Vittoria nhún vai.
- Chính xác, - Langdon nói - Hoàn toàn chẳng có nghĩa gì.
Vittoria nhíu mày.
- Vậy tại sao nó lại là biểu tượng trung tâm của Dấu triện lớn?
- Một bí ẩn của lịch sứ. - Langdon nói - Kim tự tháp là một biểu tượng huyền bí đại diện cho sự hội tụ hướng lên trên, về phía cội nguồn của Sự tỏa sáng. Cô có nhìn thấy gì ở trên đỉnh Kim tự tháp không?
Vittoria ngắm kỹ tờ tiền giấy trên tay:
- Một con mắt bên trong hình tam giác.
- Nó được gọi là hình ba cạnh. Cô đã từng nhìn thấy hình con mắt bên trong tam giác ở đâu chưa?
Vittoria im lặng một lúc.
- Thực sự là rồi, nhưng tôi không dám chắc…
- Biểu tượng này được được trang trí tại tất cả các tụ điểm của hội Tam Điểm trên khắp thế giới.
- Biểu tượng này là của hội Tam Điểm?
- Thực ra thì không phải thế. Đó là hội Illuminati. Họ gọi biểu tượng này là "Tam giác toả sáng". Đó chính là tôn chỉ về một cuộc khai sáng mà họ muốn thực hiện. Con mắt biểu thị khả năng thâm nhập và quan sát của Illuminati. Tam giác lấp lánh đại diện cho sự khai sáng. Và hình tam giác cũng là một chữ cái Hy Lạp có tên gọi là Delta, - biểu tượng toán học của…
- Sự đổi thay. Sự chuyển dịch.
Langdon mỉm cười.
- Tôi quên mất rằng mình đang nói chuyện với một nhà khoa học.
- Vậy anh nói dấu triện lớn của nước Mỹ biểu trưng cho lời kêu gọi của phong trào khai sáng?
- Một vài người gọi đó là Trật tự thế giới mới.
Vittoria giật mình. Cô nhìn kỹ lại tờ tiền giấy:
- Chữ viết dưới hình Kim tự tháp nói rằng Novus… Ordo…
- Novus Ordo Seclorum, - Langdon ngắt lời. - Nghĩa là Trật tự trần thế mới.
- Trần thế gắn với phi tôn giáo?
- Phi tôn giáo. Cụm từ này không những miêu tả rõ ràng mục tiêu của Illuminati, mà còn trắng trợn đối lập với cụm từ bên cạnh. Chúng ta tin vào Chúa.
Vittoria có vẻ bối rối.
- Nhưng làm thế nào mà tất cả những biểu tượng này lại xuất hiện trên đồng tiền mạnh nhất thế giới được?
- Đa số các học giả cho rằng đó là do Phó Tổng thống Henry Wallace. Ông ta là một nhân vật cấp cao trong hội Tam Điểm và chắc chắn có liên quan đến hội Illuminati. Chưa ai có thể khẳng định rằng ông ta cũng là một thành viên hay chỉ vô tình chịu ảnh hưởng của Illuminati. Nhưng chính Wallace là người đã bán thiết kế dấu triện lớn cho tổng thống.
- Bằng cách nào vậy? Tại sao Tổng thống lại đồng ý…
Tổng thống lúc bấy giờ là Franklin D. Roosevelt. Wallace nói đơn giản với ông ta rằng Novus Ordo Seclorum nghĩa là "Công cuộc cải cách mới"(1).
Vittoria càng nghi ngờ:
- Và Roosevelt không để ai khác xem lại biểu tượng trước khi đưa Bộ Tài chính in?
- Không cần thiết. Ông ta và Wallace như anh em trong nhà.
- Anh em?
Xem lại sách lịch sử đi, - Langdon vừa cười vừa nói - Franklin D. Roosevelt là một nhân vật nổi tiếng của hội Tam Điểm.
Chú thích:
(1) New Deal (Thời kỳ cải cách mới): Chương trình cải cách kinh tế xã hội vào những năm 1930 nhằm chấm dứt cuộc Đại suy thoái do Tổng thống Franklin D. Roosevelt đưa ra.


***

Langdon nín thở khi chiếc X-33 lượn vòng trên sân bay Leonardo Da Vinci ở Rome. Vittoria ngồi đối diện anh, mắt nhắm nghiền như thể đang cố gắng chế ngự bản thân. Chiếc máy bay hạ cánh và đi vào ga ra.
- Rất lấy làm tiếc vì chuyến bay bị chậm trễ. - Viên phi công xin lỗi và nhô người lên từ khoang lái. - Tôi phải sửa lại máy bay, theo quy định về tiếng ồn ở khu vực đông dân cư.
Langdon kiểm tra đồng hồ. Họ đã ở trên không 37 phút.
Viên phi công xuất hiện ở cửa ngoài.
- Các vị có thể cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra không?
Cả Vittoria lẫn Langdon không ai nói gì.
- Thôi được, - anh ta vươn vai, - Tôi sẽ ở trong khoang lái, bật điều hoà và nghe nhạc. Chỉ có mình tôi và Garth.
Bên ngoài nhà chứa máy bay, ánh nắng hoàng hôn thật rực rỡ.
Langdon vắt chiếc áo khoác bằng vải tuýt qua vai. Vittoria ngẩng đầu ngước nhìn bầu trời và hít thở sâu, như thể những tia nắng mặt trời đang truyền cho cô một nguồn năng lượng tái sinh kỳ bí nào đó.
Địa Trung Hải, Langdon thầm nghĩ. Anh bắt đầu toát mồ hôi.
- Anh đã qua tuổi xem phim hoạt hình rồi cơ mà? - Vittoria hỏi, mắt vẫn nhắm nghiền.
- Gì cơ?
- Đồng hồ của anh đấy. Tôi trông thấy từ trên máy bay.
Langdon thoáng đỏ mặt. Anh đã rất nhiều lần phải thanh minh về chiếc đồng hồ đeo tay này. Chiếc đồng hồ có hình chuột Mickey này là một món quà của cha mẹ anh từ thủa thiếu thời. Dù trên mặt đồng hồ chỉ có duy nhất hình chú chuột Mickey ngớ ngẩn, méo mó đang đang tay chỉ giờ, nó vẫn là chiếc đồng hồ duy nhất trong đời anh. Chống thấm nước và phát sáng vào buổi tối nó là thứ vật dụng tuyệt vời mỗi khi đi bơi hay đi dạo trên những con đường thiếu ánh sáng ở truờng đại học. Mỗi khi có sinh viên nào thắc mắc về khiếu thẩm mĩ của mình, anh thường đáp rằng phải đeo Mickey hàng ngày vì nó luôn nhắc anh nhớ giữ cho trái tim được trẻ trung.
- 6 giờ rồi. - Anh nói.
Vittoria gật đầu, mắt vẫn nhắm nghiền.
- Hình như người ta đang đến đón chúng ta.
Langdon nghe có tiếng động cơ rì rầm từ xa vọng lại, anh ngước lên nhìn, thấy lòng trĩu nặng. Một chiếc trực thăng đang tiến lại từ phía Bắc, là là bay sát đường băng. Langdon đã từng một lần đi trực thăng hồi còn ở thung lũng Andean Palpa để chiêm ngưỡng những bức hoạ bằng cát Nazca, và không hề thấy thích chút nào. Một chiếc hộp đựng giày biệt bay. Sau một buổi sáng ngồi trên máy bay, Langdon đã hy vọng rằng Vatican sẽ cho ôtô ra đón.
Nhưng không phải vậy.
Chiếc máy bay lên thẳng bay chậm lại, lượn một vòng trên không rồi hạ cánh xuống đường băng, ngay trước mặt hai người.
Chiếc phản lực này được sơn màu trắng, hai bên có hình phù hiệu của toà thánh - hình hai chiếc chìa khoá bắt chéo trên một tấm khiên và vương miện giáo hoàng. Anh biết rất rõ biểu tượng này.
Đó là dấu ấn truyền thống của Vatican - biểu tượng thiêng liêng của Toà thánh Vatican hay "ghế thánh" của chính phủ, chiếc ghế này đúng ra là ngai vàng của thánh Peter.
Máy bay của toà thánh, Langdon vừa nhìn chiếc phi cơ hạ cánh vừa rên rỉ. Anh quên mất rằng Vatican sở hữu chiếc máy bay này để đưa Giáo hoàng ra sân bay, đi hội họp hay tới cung điện mùa hè ở Gandolfo. Nhưng bản thân Langdon thì chỉ thích đi ôtô mà thôi.
Viên phi công trèo ra khỏi buồng lái và sải bước qua đường băng trải nhựa, tiến về phía họ.
Bây giờ thì đến lượt Vittoria cảm thấy không thoải mái.
- Đấy là phi công của chúng ta?
Langdon chia sẻ sự lo ngại của cô gái:
- Vấn đề là bay hay không bay đây.
Viên phi công trông chẳng khác gì một diễn viên đang đeo vòng hoa và hoá thân vào một vở kịch nào đó của Shakespeare. Chiếc áo kẻ sọc phồng lên, màu vàng xanh rực rỡ. Anh ta mặc chiếc quần chẽn cùng màu và đeo xà cạp. Dưới chân anh ta là dôi giày bệt màu đen trông giống như dép lê, còn trên đầu chễm chệ một cái mũ nồi cũng màu đen.
- Trang phục truyền thống của đội lính gác Thuỵ Sĩ đấy! Langdon giải thích. - Do đích thân Michelangelo thiết kế.
Khi anh ta tiến đến gần hơn, Langdon cau mày.
- Phải thừa nhận rằng đây không phải là ý tưởng hay nhất của Michelangelo.
Bất chấp bộ trang phục lòe loẹt mặc trên người, viên phi công tỏ ra rất chuyên nghiệp. Anh ta tiến về phía họ, dáng nghiêm chỉnh và trang trọng hệt như một sĩ quan hải quân Mỹ. Langdon đã nhiều lần đọc về những quy định khắt khe mà người ta phải tuân thủ nếu muốn trở thành nhân viên của đội lính gác tinh nhuệ Thuỵ Sĩ. Được tuyển chọn từ một trong bốn bang theo đạo Thiên Chúa giáo của Thuỵ Sĩ, các ứng viên phải là công dân nam người Thuỵ Sĩ, tuổi từ 19 đến 30, chiều cao tối thiểu 1,68m, được quân đội Thuỵ Sĩ đào tạo và chưa lập gia đình. Đội quân siêu hạng này của toà thánh đã khiến chính phủ nhiều nước phải ghen tị - đây là lực lượng an ninh trung thành và tinh nhuệ nhất trên thế giới.
- Quý vị là người của CERN? - Người lính tiến đến trước mặt họ và hỏi bằng giọng rắn rỏi.
- Vâng, đúng thế, - Langdon trả lời.
- Quý vị đến rất đúng giờ. - Anh ta nói, mắt nhìn chăm chăm đầy bí ẩn vào chiếc X-33. Anh ta quay sang Vittoria. - Thưa cô, cô có bộ quần áo nào khác không?
- Ông nói gì ạ?
Anh ta chỉ đôi chân trần của cô gái:
- Mặc quần soóc như thế thì không được vào trong thành Vatican.
Langdon nhìn xuống chân của Vittoria, nhíu mày. Anh quên mất điều này. Vatican có những quy định ngặt nghèo đối với những ai để chân trần trên đầu gối - cả nam lẫn nữ. Quy định này nhằm tôn trọng sự thiêng liêng trong thành phố của Chúa.
- Tôi chẳng có bộ nào khác cả, - cô nói - Chúng tôi đi quá vội.
Người lính gác gật đầu, vẻ không hài lòng. Anh ta quay sang Langdon. - Ngài có mang theo vũ khí không?
Vũ khí? Langdon thầm nghĩ. Mình thậm chí còn không mang cả quần lót để mà thay ấy chứ! Anh lắc đầu.
Người lính cúi xuống và vỗ vỗ dọc hai cẳng chân của anh để tìm vũ khí. Tin người gớm, Langdon thầm nghĩ. Bàn tay mạnh mẽ của anh ta lần dần lên trên, rụt rè tiến dần đến háng Langdon. Cuối cùng, anh ta khám xét ngực và hai vai. Hiển nhiên là trên người Langdon chẳng có gì. Anh là quay sang Vittoria, đưa mắt nhìn một lượt từ chân lên đầu cô gái.
Vittoria quắc mắt.
- Không đời nào tôi để anh khám xét đâu.
Anh ta từ mắt nhìn Vittoria như muốn ra oai. Nhưng cô gái không hề nao núng.
- Cái gì đây? - Anh ta hỏi, tay chỉ vào vật hình vuông hơi phồng lên trong túi quần của cô gái.
Vittoria lôi ra một chiếc điện thoại siêu mỏng. Anh ta cầm lấy, bật lên, đợi tín hiệu và rồi hài lòng vì đó chỉ là một máy điện thoại thông thường. Anh ta đưa trả lại, Vittoria gập máy rồi đút vào túi quần.
Làm ơn quay đằng sau, anh ta nói tiếp.
Vittoria tuân lệnh, giơ hai tay ra và quay một vòng đủ 360 độ.
Người lính này săm soi khắp thân thề Vittoria. Langdon cho rằng bộ quần áo bó sát người cô gái chỉ phồng lên ở những chỗ mà hiển nhiên nó phải phồng lên. Cuối cùng thì người lính gác cũng đi đến kết luận giống như vậy.
- Cám ơn. Xin mời đi theo lối này.
Chiếc máy bay của đội lính gác Thuỵ Sĩ đang hoạt động ở chế độ chờ khi Langdon và Vittoria tiến lại gần. Vittoria leo lên trước, vô cùng thành thạo, thậm chí không phải cúi người khi đi dưới cánh quạt đang quay. Langdon do dự lùi lại.
- Không thể đi bằng ôtô được hay sao? - Anh rên rỉ, nửa đùa nửa thật với người lính gác Thuỵ Sĩ lúc này đang leo lên ghế phi công.
Anh ta không trả lời.
Langdon biết rằng với những tay lái xe điên khùng ở Rome, đi bằng máy bay có lẽ vẫn là cách an toàn hơn cả. Anh hít một hơi dài rồi leo lên khoang, thận trọng cúi người khi đi dưới cánh quạt đang quay.
Khi máy bay chuẩn bị cất cánh, Vittoria hỏi to:
- Các ông đã xác định được vị trí chiếc hộp chưa?
Anh ta quay lại nhìn, vẻ bối rối.
- Xác định vị trí cái gì?
- Cái hộp. Các ông gọi cho CERN về cái hộp đó mà?
Người phi công nhún vai:
- Tôi không biết cô đang nói về cái gì. Hôm nay chúng tôi rất bận. Chỉ huy lệnh cho tôi đến đón quý vị. Và tôi chỉ biết có thể thôi.
Vittoria và Langdon nhìn nhau lo lắng.
- Xin hãy thắt dây an toàn, - viên phi công nói khi máy bay bắt đầu tăng tốc.
Langdon với tay lấy thắt lưng và tự thắt quanh người. Khoang máy bay chật hẹp dường như đang co thêm vào. Chiếc phi cơ gầm rú lao thẳng về hướng Bắc, về phía thành Rome.
Rome… cái nôi của văn minh, nơi Caesar đã từng trị vì, nơi thánh Peter bị đóng đinh. Cái nôi của nền văn minh hiện đại. Và giờ đây ngay giữa lòng thành phố… là một quả bom hẹn giờ.

Nhìn từ trên cao xuống, thành Rome giống như một mê cung một trận đồ bát quái với những đường phố cổ lượn ngoằn ngoèo xung quanh các toà nhà, những tháp nước và cả những di tích đổ nát.
Chiếc máy bay của Vatican hạ thấp xuống khi nó chuyển sang hướng Tây Bắc, bay xuyên qua tầng khói bụi mù mịt do thành phố đông đúc này xả lên. Langdon nhìn những chiếc xe máy, xe buýt tham quan và cả một đội quân những chiếc xe Fiat mui kín thu nhỏ đang lượn quanh các bùng binh theo khắp mọi hướng.. Koyaanisqatsi, anh nghĩ. Đây là một từ của thổ dân Hopi(1) nghĩa là cuộc sống mất cân bằng.
Vittoria ngồi lặng im ở ghế bên.
Chiếc máy bay nặng nề đáp xuống mặt đất.
Cảm thấy nôn nao trong dạ, Langdon đưa mắt nhìn ra xa. Anh trông thấy cảnh đồ nát của Đại hý trường La Mã. Langdon vẫn thường cho rằng Đại hý trường là một trong những địa danh lịch sử nực cười nhất. Còn bây giờ thì nó là biểu trưng cho sự thăng hoa của văn hoá và văn minh nhân loại. Đấu trường này xưa kia được xây dựng để phục vụ cho những sự kiện man rợ suốt nhiều thế kỷ. Chính tại nơi này, những con sư tử đói đã xé xác các tù nhân, hàng đoàn nô lệ đã phải đánh nhau đến chết, những nữ tù binh bị bắt về từ những hòn đảo xa xôi đã bị cưỡng hiếp tập thể, và những vụ xử trảm đã được tiến hành công khai. Thật mỉa mai, Langdon thầm nghĩ, nhưng cũng vô cùng thích hợp, Đại hý trường chính là nguyên mẫu của bản thiết kế Đấu trường Harvard - một sân bóng nơi mà cứ đến mùa thu là người ta lại mô phỏng lại những tập tục man rợ cổ… những người hâm mộ điên cuồng gào thét đòi được thấy máu đổ mỗi khi trường Harvard thi đấu với trường Yale.
Chiếc máy bay tiếp tục hướng về phía Bắc, và Langdon quan sát quảng trường La Mã - trái tim của Rome trước thời Chúa Giê-su. Những cây cột mục nát trông như những tấm bia mộ lung lay trong một khu nghĩa trang cổ đã may mắn không bị cuộc sống đô thị náo nhiệt nuốt chửng.
Ở phía Tây, vùng lòng chảo của dòng sông Tiber là những nhánh sông hình vòng cung chảy qua thành phố. Dù đang ở trên cao, Langdon cũng có thể thấy rằng con sông này rất sâu. Dòng nước màu nâu nặng phù sa đang sùi bọt sau những trận mưa lớn.
- Phía trước kia kìa, - viên phi công nói và cho máy bay lên cao hơn nữa.
Langdon và Vittoria cùng nhìn ra ngoài và thấy một toà lâu đài khổng lồ lờ mờ hiện ra trước mắt như một ngọn núi đang dần nhô lên từ đám sương mù: Đại thánh đường St. Peter.
- Đây mới chính là tác phẩm có giá trị của Michelangelo. - Langdon nói với Vittoria.
Langdon chưa bao giờ được chiêm ngưỡng Đại thánh đường St. Peter từ trên cao. Mặt tiền lát đá hoa cương đang lấp lánh như một vầng lửa trong ánh nắng hoàng hôn. Được tô điểm bởi 140 bức tượng các vị thánh, vị anh hùng và các thiên thần, thánh đường thờ thần Hercule rộng gấp đôi, và dài gấp 6 lần một sân bóng bình thường. Thánh đường rộng mênh mông này có thể chứa 60.000 con chiên… gấp 100 lần dân số của Vatican, quốc gia nhỏ bé nhất thế giới.
Nhưng cũng thật đáng kinh ngạc, tầm vóc đồ sộ của Đại thánh đường này không hề làm lu mờ vẻ mỹ lệ của quảng trường trước mặt nó. Quảng trường St. Peter lát đá granite rộng thênh thang là một không gian mở ngay giữa trung tâm thành phố chật chội và đông đúc, hệt như một công viên trung tâm được thiết kế theo trường phái cổ điển. Ngay trước mặt tiến của Đại thánh đường, 284 cây cột xếp thành bốn cung tròn đồng tâm bọc lấy quảng trường hình e-líp, lối kiến trúc trompe l oeit(2) một loại hình nghệ thuật hội hoạ cực kỳ đặc sắc, khiến cho quảng trường rộng lớn cỏ vẻ như cao hơn.
Đăm chiêu nhìn quang cảnh trước mặt, Langdon thầm hỏi không hiểu thánh Peter sẽ nghĩ gì nếu ngài có mặt ở đây lúc này. Bị đóng đinh treo ngược trên giá ở chính địa điểm này, thánh Peter đã chết trong đau đớn. Giờ đây, ngài đang an nghỉ trong một mộ phần cực kỳ thiêng liêng, cách mặt đất năm tầng nhà, ngay dưới mái vòm trung tâm của Đại thánh đường.
- Thành phố Vatican chào mừng quý vị. - Viên phi công lên tiếng, thái độ chẳng hiểu khách chút nào.
Langdon nhìn những toà tháp xây bằng đá đồ sộ hiện ra trước mắt - những thành trì bất khả xâm phạm bao quanh thành phố… một phương thức tự vệ mang tính trần tục nhằm đảm bảo an ninh cho một thế giới tâm linh đầy quyền năng và cũng đầy bí hiểm.
- Nhìn kìa! - Vittoria đột nhiên nắm lấy cánh tay Langdon. Cô hối hả chỉ tay xuống quảng trường St. Peter ngay bên dưới.
Langdon quay ra cửa sổ và nhìn theo.
- Kia kìa, cô chỉ tay.
Langdon đưa mắt nhìn. Phía cuối quảng trường trông chẳng khác gì một bãi đỗ xe với hàng chục chiếc xe thùng. Tất cả những chiếc xe này đều có chảo ăng ten trên nóc. Những cái tên quen thuộc được viết bên trong lòng chảo:
TELEVIOR EUROPEA(3)
VLDEO ITALIA(4)
BBC(5)
UNITED PRESS LNTERNATIONAL(6)
Langdon chợt thấy băn khoăn, không hiểu thông tin về phản vật chất đã bị rò rỉ hay chưa.
Vittoria dường như cũng cảm thấy lo lắng:
- Sao giới truyền thông lại có mặt ở đây? Chuyện gì vậy?
Viên phi công quay lại nhìn cô gái, vẻ ngạc nhiên:
- Chuyện gì ư? Cô không biết à?
- Không hề. - Cô gái trả lời với giọng khàn và mạnh mẽ.
- II Conclave(7) - anh ta nói - Sẽ bắt đầu trong vòng một giờ nữa. Cả thế giới đang chờ đợi.
Il Conclave.
Hai từ ấy tác động mạnh vào trí não Langdon, và khiến anh bỗng thấy lòng trĩu nặng. Il Conclave, Mật nghị Hồng y. Sao anh lại quên được cơ chứ? Gần đây báo chí đưa tin rầm rộ về chuyện đó cơ mà.
15 ngày trước đây, Giáo hoàng đã băng hà sau 12 năm tại vị. Báo chí khắp thế giới đều đưa tin về một cơn đột quỵ khi Người đang trong giấc ngủ - một cái chết bất ngờ đến nỗi không ít người xì xào và nghi hoặc. Hôm nay, theo đúng truyền thống cửa Thiên Chúa giáo, 15 ngày sau khi Giáo hoàng tạ thế, Vatican phải tổ chức Mật nghị Hồng y - một nghi lễ thiêng liêng với sự hiện diện của 165 Hồng y Giáo chủ từ khắp nơi trên thế giới, những nhân vật quyền thế nhất trong giáo hội, để bầu ra Giáo hoàng mới.
Tất cả các Hồng y Giáo chủ trên thế giới đều đang có mặt tại đây. Langdon thầm nghĩ khi chiếc máy bay lướt qua Đại thánh đường St. Peter. Thành Vatican rộng mênh mông trải dài dưới cánh máy bay. Toàn thể bộ máy quyền lực của giáo hội Thiên Chúa giáo La Mã đang ở trên một quả bom hẹn giờ.
Chú thích:
(1) Hopi: Thổ dân da đỏ ở Mỹ, tập trung ở vùng Đông Bắc bang Arizona.
(2) Trompe l oeil (tiếng Pháp): Đánh lừa cảm giác.
(3) Hãng truyền thông châu Âu.
(4) Hãng phim Italia.
(5) Hãng thông tấn BBC.
(6) Liên hiệp báo chí Quốc tế.
(7) Il Conclave (tiếng Ý): Họp kín.


***

Hồng y Mortati ngước nhìn lên trần nhà nguyện Sistine, cố tìm một khoảnh khắc yên tĩnh. Những bức tường được trang trí bằng các bức bích hoạ dội lại tiếng nói của các vị Hồng y từ mọi quốc gia trên thế giới. Những vị thầy tu này đang tụ tập bên hòm đựng bánh thánh chan hoà ánh nến, náo nức thì thầm, trao đồi với nhau bằng đủ mọi ngôn ngữ, trong đó sử dụng nhiều nhất vẫn là tiếng Anh, Ý và tiếng Tây Ban Nha.
Thường thì ánh sáng trong nhà nguyện vẫn mang màu vàng nhạt - những tia nắng mặt trời rọi vào trong đại sảnh, hệt như những tia sáng từ thiên đàng rọi xuống. Nhưng hôm nay thì khác. Theo lệ, người ta đã treo vải nhung đen để che kín tất cả các ô cửa sổ của nhà nguyện nhằm đảm bảo bí mật. Cách thức này đảm bảo rằng không một ai trong nhà nguyện có thể dùng ngôn ngữ cử chỉ để liên hệ với bên ngoài. Vậy là nhà nguyện tối như bưng, chỉ có nến là nguồn sáng duy nhất… Trong thứ ánh sáng lung linh này, tất cả mọi người bỗng có vẻ thanh khiết hơn, và huyền bí hơn… như những vị thánh.
Mình thật là may mắn, Hồng y Mortati thầm nghĩ, khi được giám sát toàn bộ sự kiện linh thiêng này.
Những vị Hồng y trên 80 tuổi được xem như quá già không đủ tiêu chuẩn ngồi vào bầu chọn và không tham dự Mật nghị Hồng y, nhưng ở tuổi 79, Mortati là vị Hồng y cao niên nhất ở đây và được chỉ định giám sát toàn bộ các nghi thức.
Theo truyền thống, các Hồng y sẽ có mặt trước buổi họp hai tiếng đồng hồ để gặp gỡ và thảo luận với nhau lần cuối cùng.
- Đúng 7 giờ tối, - thị thần của cố Giáo hoàng sẽ bước vào đọc lời cầu nguyện để khai mạc Mật nghị Hồng y, rồi ra khỏi nhà nguyện. Tiếp đó, hội lính gác Thuỵ Sĩ sẽ niêm phong cánh cửa và khoá Hội đồng Hồng y ở bên trong. Đây chính là lúc nghi lễ chính trị bí mật và cổ xưa nhất trên thế giới bắt đầu được tiến hành. Các Hồng y sẽ không được phép ra ngoài cho đến khi Hội đồng chọn được một người để đảm nhiệm chức vụ Giáo hoàng.
Mật nghị Hồng y. Chỉ nghe tên gọi không thôi cũng đã thấy đầy bí hiểm. Theo nghĩa đen Conclave nghĩa là "khoá bằng một chiếc chìa". Các vị Hồng y không được phép liên lạc với bên ngoài. Không điện thoại. Không tin nhắn. Không thì thầm qua khe cửa. Mật nghị Hồng y phải hoàn toàn độc lập với những tác động từ bên ngoài. Thể thức này nhằm đảm bảo rằng Hội đồng Hồng y có thể giữ được Solum Dum prae osculis… chỉ thấy duy nhất Chúa trước mắt họ.
Bên ngoài những bức tường của nhà nguyện, đương nhiên là giới truyền thông đang theo dõi là chờ đợi, họ đoán già đoán non xem thành viên nào của Hội đồng Hồng y sẽ trở thành người lãnh đạo tinh thần của một tỉ tín đồ Thiên Chúa giáo trên khắp thế giới. Những cuộc họp kín kiểu này thường tạo ra không khí căng thẳng, thấm đẫm màu sắc chính trị, và sau nhiều thế kỷ, nó đã trở thành những sự kiện rùng rợn: những vụ đầu độc, những vụ ẩu đả là thậm chí giết người cũng đã xảy ra bên trong bốn bức tường thiêng liêng này. Đó chỉ là lịch sử xa xưa, Hồng y Mortati thầm nghĩ. Buổi họp tối nay sẽ thống nhất, vui vẻ và nhất là sẽ vô cùng… ngắn gọn.
Hay ít ra thì đó cũng là những ước đoán của cá nhân ông.
Giờ đây, một sự kiện bất ngờ đã xảy ra. Bốn vị Hồng y bỗng dưng vắng mặt một cách đầy bí ẩn. Hồng y Mortati biết rằng tất cả các lối ra vào toà thánh Vatican đều được canh gác cẩn mật, và những người mất tích không thể đi đâu xa, nhưng chỉ còn chưa đến một tiếng đồng hồ nữa là giờ cầu nguyện sẽ bắt đầu.
Hồng y không thể giữ nổi bình tĩnh. Vấn đề là ở chỗ bốn vị này không phải những vị Hồng y bình thường. Họ là những vị Hồng y quan trọng nhất.
Họ là bốn người được lựa chọn.
Là người giám sát cuộc bầu chọn, Hồng y Mortati đã báo cho đội lính gác Thuỵ Sĩ về sự vắng mặt của bốn vị này. Đức cha biết rằng những vị Hồng y khác đã để ý đến sự vắng mặt bất thường này. Những lời xì xào lo lắng bắt đầu nổi lên. So với toàn thể Hội đồng Hồng y, bốn vị này phải đúng giờ nhất mới phải! Hồng y Mortati bắt đầu lo ngại rằng một đêm dài đang chờ đợi toàn bộ Hội đồng Hồng y.
Đức cha không thể hiểu nổi.

Vì lí do an toàn và để tránh tiếng ồn, sân bay của Vatican phải ở bên rìa phía Tây Bắc của thành phố, càng xa Đại thánh đường St. Peter càng tốt.
- Tiếp đất, - viên phi công thông báo khi họ đã hạ cánh. Anh ta háo hức mở cánh cửa trượt cho Langdon và Vittoria.
Langdon trèo ra khỏi chiếc máy bay và quay sang định đỡ Vittoria xuống, nhưng cô gái đã nhẹ nhàng xuống gần đến mặt đất. Tất cả sức mạnh trên người cô dường như đã được huy động tối đa cho mục tiêu trước mắt - tìm ra phản vật chất trước khi nó gây ra những hậu quả khủng khiếp.
Sau khi phủ tấm vải dầu chống nắng lên cửa sồ khoang lái, viên phi công dẫn họ đến chiếc xe điện cỡ lớn đang đợi sẵn gần chỗ đậu máy bay. Chiếc xe nhẹ nhàng lăn bánh dọc theo biên giới phía Tây của quốc gia này - một bức tường xi măng dày, cao khoảng 15 mét, đủ để tránh được những cuộc tấn công, kể cả bằng xe tăng. Bên trong, cứ cách 15m lại có một lính gác Thuỵ Sĩ đứng nghiêm canh gác. Chiếc xe đột ngột rẽ phải vào trạm quan sát. Các biển báo chỉ về khắp mọi hướng:
PALAZZO GOVERNATORATO(1)
COLLEGIO ETHIOPIANA(2)
BASILICA SAN PIETRO(3)
CAPELLA SISTINA(4)
Họ tăng tốc trên con đường được chăm sóc rất cẩn thận, qua một toà nhà thấp đề hàng chữ RADIO VATICANA(5). Langdon kinh ngạc nhận ra trụ sở của làn sóng phát thanh có nhiều thính giả nhất thế giới - Radio Vatican - nơi truyền bá những lời của Chúa đến với hàng triệu con chiên trên khắp thế giới.
- Attenzione(6) - người phi công nói rồi đội ngột rẽ ngoặt vào một con đường hình vòng cung.
Khi chiếc xe quay vòng, Langdon hầu như không thể tin vào những gì mà chính mắt anh đang nhìn thấy. Giardini Vaticani(7), anh thầm nghĩ. Trái tim của Vatican. Ngay trước mặt họ là phía sau của Đại thánh đường St. Peter - một khung cảnh rất ít người được chiêm ngưỡng. Bên tay phải là Cung pháp đình, nơi ở của Giáo hoàng - một công trình được trang trí theo phong cách oroco lộng lẫy y như cung điện Versailles. Sau lưng họ là toà nhà chính phủ với dáng vẻ uy nghi đường bệ - đại bản doanh của chính quyền thành phố Vatican. Bên trái, trước mặt họ là toà nhà hình chữ nhật đồ sộ - Bảo tàng Vatican. Langdon biết rằng trong chuyến đi này, anh sẽ chẳng có thời gian để vào thăm bảo tàng.
- Mọi người đâu cả rồi. - Vittoria hỏi, đưa mắt nhìn khắp những bãi cỏ và lối đi vắng tanh vắng ngắt.
Người lính gác nhìn chiếc đồng hồ đeo lay màu đen kiểu nhà binh - một vật lỗi thời kỳ dị mà anh đang đeo bên trong ống tay áo phồng của mình.
- Hội đồng Hồng y đã tập trung trong nhà nguyện Sistine. Chưa đầy một giờ đồng hồ nữa, Mật nghị Hồng y sẽ bắt đầu.
Langdon gật đầu, láng máng nhớ lại trước khi Mật nghị Hồng y khai mạc, Hội đồng Hồng y thường dành hai giờ đồng hồ trong nhà nguyện Sistine để suy ngẫm và thăm hỏi những vị Hồng y khác từ khắp nơi trên thế giới. Khoảng thời gian này được dành cho việc gặp gỡ và ôn lại kỷ niệm giữa những người bạn cũ nhằm giảm bớt căng thẳng cho tiến trình bầu cử.
- Thế còn tất cả những cư dân khác và những người phục vụ?
- Họ bị cấm vào thành phố cho đến khi cuộc họp kết thúc, vì lí do bảo mật và an ninh.
- Và khi nào cuộc họp kết thúc?
Người lính gác nhún vai:
- Chỉ có Chúa mới biết.
Sau khi xe dừng lại trên bãi cỏ rộng ngay sau lưng Đại thánh đường St. Peter, người lính gác hộ tống Langdon và Vittoria leo lên một đoạn dốc rải sỏi, tới một đại sảnh xây bằng đá hoa cương ở phía sau Đại thánh đường. Vượt qua công trình này, họ tiến tới bức tường phía sau Đại thánh đường, men theo tường, đi qua một khoảnh sân hình tam giác, rồi đi qua Via Belvedere tới một loạt các toà nhà xây sát vào nhau. Chuyên nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật nên Langdon biết chút ít tiếng Ý đủ để hiểu những bảng chỉ dẫn như Phòng in ấn Vatican, Phòng Phục chế thảm trang trí, Phòng quản lí Bưu điện và Nhà thờ thánh Ann. Họ băng qua một quảng trường nhỏ nữa và đến đích.
Sở chỉ huy của đội lính gác Thuỵ Sĩ nằm ngay sát phòng tình báo, chếch về hướng Đông Bắc so với Đại thánh đường St. Peter.
Văn phòng này là một toà nhà thấp lè tè xây bằng đá. Hai bên lối vào có hai người lính đứng gác, tưởng y như hai bức tượng đá.
Langdon phải thừa nhận rằng trang phục của những người lính này trông không đến nỗi nào. Mặc dù họ cũng mặc bộ đồng phục màu xanh vàng, mỗi người cầm một "thanh kiếm Vatican" truyền thống - thanh gươm dài gần 2,5 mét, đầu nhọt hoắt. Theo truyền thuyết kể lại thì những thanh gươm này đã chặt đầu vô số tín đồ Hồi giáo trong cuộc Thập tự chinh thế kỷ XV.
Thấy Langdon và Vittoria tiến vào, hai người lính gác bước lên một bước, bắt chéo hai thanh gươm, chắn lối vào. Một trong hai người lúng túng nhìn viên phi công.
- Pantaloni(8), - anh ta vừa nói vừa chỉ tay vào chiếc quần soóc của Vittoria.
Người phi công phẩy tay nói:
- Il comandante vuole vederli subito(9)
Hai người lính nhíu mày, nhưng vẫn miễn cưỡng đứng lùi sang hai bên.
Bên trong sở chỉ huy thật mát mẻ, khác xa so với những gì Langdon tưởng tượng về một sở chỉ huy quân đội. Căn phòng được trang trí rất cầu kỳ và tỉ mỉ, còn ngoài hành lang thì treo đầy những bức tranh mà chắc chắn nhiều viện bảo tàng lớn trên thế giới sẽ trân trọng treo trong phòng tranh chính.
Người phi công chỉ một cầu thang dẫn xuống dưới.
- Xin mời xuống dưới này.
Lần bước theo những bậc thang bằng đá hoa cương trắng, Langdon và Vittoria đi giữa hai hàng tượng chạm khắc hình các chàng trai khoả thân. Mỗi chàng trai chỉ có một thứ trang phục duy nhất: một chiếc lá vả khá sáng màu, sáng hơn so với phần da thịt trên cơ thể họ.
Đại hoạn quan, Langdon nghĩ thầm.
Đây là một trong những tấn bi kịch thê thảm nhất của nghệ thuật thời kỳ Phục Hưng. Năm 1857, Giáo hoàng Pius IX cho rằng bộ phận sinh dục nam giới được khắc hoạ quá rõ nét có thể khơi gợi lên những ham thích nhục dục ở Vatican. Thế là vị Giáo hoàng này đã đích thân cầm búa đẽo bỏ bộ phận sinh dục trên tất cả các bức tượng nam giới trong toà thánh. Kết quả là các tác phẩm của Michelangelo, Bramante và Bernini đều bị biến dạng.
Những chiếc lá vả bằng nhựa dẻo này giờ đây được dùng để đậy kín những phần bị đục đẽo đó. Hàng trăm bức tượng bị thiến.
Langdon đã mấy lần tự hỏi, không hiểu cả đống dương vật bằng đá kia giờ đang ở chỗ nào.
- Đây rồi! - người lính gác lên tiếng.
Họ đã tới chân cầu thang và đang đứng trước một cánh cửa bằng thép nặng nề. Người lính gác gõ mã số, cánh cửa mở ra. Langdon và Vittoria cùng bước vào.
Đằng sau cánh cửa là cả một sự hỗn độn.
Chú thích:
(1) Cung điện chính phủ
(2) Cung điện
(3) Nhà thờ thánh Peter.
(4) Nhà nguyện Sistine.
(5) Đài phát thanh Vantican.
(6) Attenzione (tiếng Ý): Chú ý.
(7) Giardini Vaticani: Vườn Vatican.
(8) Pantaloni (tiếng Ý): Quần soóc bó chẽn
(9) Il comandante vuole vederli subito (tiếng Ý): Tư lệnh muốn gặp người này ngay bây giờ.


***

Sở chỉ huy của đội lính gác Thuỵ Sĩ.
Đứng ở ngay lối vào, Langdon quan sát sự tương phản giữa các thời đại khác nhau đang bày ra trước mắt. Đủ mọi loại phương tiện liên lạc. Căn phòng là một thư viện được trang trí theo kiểu Phục hưng với những giá sách chìm trong tường, những tấm thảm phương đông treo tường, và những tấm thảm trải sàn màu sắc sặc sỡ. Trong phòng ngồn ngộn những thiết bị công nghệ cao, nào là máy tính, máy fax, bản đồ điện tử của lổ hợp Vatican, lại còn có cả một màn hình ti-vi đang mở kênh CNN. Những người đàn ông mặc bộ đồng phục sặc sỡ đang miệt mài gõ máy tính, trên đầu họ đeo loại tai nghe cực kỳ hiện đại.
- Các vị hãy đợi ở đây, - người lính gác nói.
Langdon và Vittoria đứng chờ, còn người lính gác tới gần một người đàn ông cao ráo, rắn rỏi, mặc bộ quân phục màu xanh sẫm. Ông ta đang nói chuyện bằng điện thoại cầm tay và đứng nghiêm đến nỗi gần như ngả người về đằng sau. Người lính gác nói điều gì đó, thế là ông ta đưa mắt nhìn Langdon và Vittoria. Ông ta gật đầu rồi quay lưng về phía họ, tiếp tục cuộc điện thoại.
Người lính gác quay lại.
- Tư lệnh Olivetti sẽ đến gặp các vị ngay.
- Cám ơn.
Anh ta leo lên cầu thang và ra ngoài.
Langdon quan sát Tổng Tư lệnh Olivetti đang đứng ở góc đối diện. Ông ta đúng là Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang của toàn bộ quốc gia này. Vittoria và Langdon cùng chờ đợi và quan sát những hoạt động diễn ra trước mặt họ. Những người lính gác mặc bộ quân phục sáng màu đang tíu tít bận rộn, và họ liên tục đưa ra những mệnh lệnh bằng tiếng Ý.
- Continue! a ccrcare(1)! - Một người nói lớn trên điện thoại.
- Ha Provato al museo?(2) - Một người khác hỏi.
Langdon không cần phải thạo tiếng Ý cũng có thể biết được rằng trung tâm an ninh đang trong tình trạng tìm kiếm tích cực. Đây là tin tốt lành. Tin xấu là họ chưa tìm thấy phán vật chất.
- Cô không sao chứ? - Langdon hỏi Vittoria.
Cô gái nhún vai, mỉm cười mệt mỏi.
Cuối cùng thì viên Tổng Tư lệnh cũng tắt máy điện thoại và tiến về phía họ, càng đến gần càng thấy ông ta cao lênh khênh.
Bản thân Langdon là người cao lớn và không quen nhìn lên khi nói chuyện với người khác, nhưng lần này anh phải làm thế với Tổng Tư lệnh Olivetti. Viên chỉ huy này thuộc kiểu người dầm mưa dãi nắng, khuôn mặt khỏe mạnh và rắn chắc. Mái tóc đen được cắt ngắn theo kiểu nhà binh, còn ánh mắt của ông ta thì rực lên một ý chí sắt đá chỉ có thể có được sau nhiều năm rèn luyện miệt mài. Bước đi vững chãi và chuẩn xác, tai nghe bí mật giấu sau một vành tai, Olivetti trông giống một sĩ quan tình báo Hoa Kỳ hơn là chỉ huy của dội lính gác Thuỵ Sĩ.
Viên tư lệnh chào họ bằng tiếng Anh. Trái ngược với thân hình đồ sộ giọng nói của ông ta trầm và bé đến mức Langdon thấy ngạc nhiên. Olivetti gần như thì thầm, với vẻ chỉn chu, chuẩn xác kiểu nhà binh:
- Xin chào. Tôi là Tư lệnh Olivetti - Comandante Principale(3) của đội lính gác Thuỵ Sĩ. Tôi là người đã gọi cho giám đốc của các vị.
Vittoria ngước lên.
- Cám ơn ông đã gặp chúng tôi.
Viên Tổng Tư lệnh không nói gì. Ông ta ra hiệu bảo họ đi theo và dẫn họ qua một đống các thiết bị điện tử chất ngổn ngang, đến trước một cánh cửa.
- Vào đi, - Ông ta nói và giữ cửa cho hai người.
Langdon và Vittoria bước vào trong. Đó là một phòng điều khiển mờ mờ tối, trên tường treo đầy những màn hình giám sát đang truyền về những hình ảnh đen trắng từ khắp mọi nơi trong tổ hợp. Một người lính trẻ đang chăm chú theo dõi những hình ảnh ấy.
- Fuori(4), - Olivetti nói.
Người lính gác thu dọn và đi ra.
Olivetti bước đến và chỉ tay vào một màn hình. Rồi ông quay sang những vị khách của mình:
- Hình ảnh này được truyền về từ một camera điều khiển từ xa giấu ở đâu đó trong thành Vatican. Tôi muốn có lời giải thích.
Langdon và Vittoria nhìn vào màn hình và cùng thở phào. Hình ảnh rất rõ ràng. Không còn nghi ngờ gì nữa. Đó chính là hộp phản vật chất của CERN. Bên trong, một giọt kim loại lấp lánh đang treo lơ lửng trong không trung, ánh sáng nhấp nháy theo từng nhịp của đống hồ điện tử LED. Thật kỳ lạ, khu vực bao quanh chiếc hộp hoàn toàn tối, như thể cái hộp đang ở một hốc trong tủ hay phòng tối nào đó. Phía trên màn hình lấp lóe dòng chữ: TRUYỀN TRỰC TIẾP - CAMERA số 86.
Vittoria nhìn thời gian còn lại ở bảng báo hiệu trên hộp.
- Còn chưa đến 6 tiếng đồng hồ nữa, - cô thì thầm với Langdon, khuôn mặt lộ vẻ căng thẳng.
Langdon kiểm tra lại đồng hồ.
- Vậy chúng ta còn… - Anh chợt ngừng lời, ruột gan như thắt lại.
- Nửa đêm, - Vittoria nói với vẻ mệt mỏi.
Nửa đêm, Langdon nghĩ. Tình hình trở nên phức tạp rồi đây.
Rõ ràng là đêm qua kẻ ăn cắp chiếc hộp đã tính toán một cách kỹ lưỡng. Langdon cảm thấy bất an khi thấy mình đang có mặt tại điểm zero.
Giọng nói thì thào của Olivetti lúc này càng trở nên khó nghe hơn:
- Cái vật này thuộc về trung tâm của các vị hả?
Vittoria gật đầu.
- Vâng, thưa ông. Nó đã bị đánh cắp. Cái hộp này chứa một chất nổ cực mạnh có tên là phản vật chất.
Olivetti trợn mắt:
- Tôi không lạ gì các chất nổ, thưa cô Vetra. Nhưng tôi chưa bao giờ nghe nói đến phản vật chất.
- Đây là một công nghệ mới. Chúng ta phải xác định vị trí của nó ngay lập tức, nếu không sẽ phải sơ tán toàn bộ những người có mặt trong thành Vatican.
Olivetti từ từ nhắm mắt lại rồi mở mắt ra, như thể đang hi vọng rằng Vittoria sẽ cải chính lại những điều vừa nói.
- Sơ tán à? Các vị có biết chuyện gì sẽ diễn ra trong toà thánh tối nay không?
- Chúng tôi biết, thưa ông. Nhưng tính mạng các vị Hồng y Giáo chủ đang bị đe doạ. Chúng ta chỉ còn khoảng 6 tiếng đồng hồ nữa. Các ông đã tìm được đầu mối nào để xác định vị trí của cái hộp chưa?
Olivetti lắc đầu.
- Chúng tôi vẫn chưa bắt đầu tìm kiếm.
Vittoria nghẹn lời:
- Cái gì? Nhưng chúng tôi nghe thấy những người lính gác nói về việc tìm kiếm…
- Tìm kiếm, thì đúng là thế. - Olivetti nói, - nhưng không phải cái hộp đó. Người của chúng tôi đang tìm kiếm một thứ không liên quan gì tới các vị.
Giọng Vittoria như vỡ ra:
- Các ông vẫn chưa bắt đầu tìm kiếm cái hộp sao?
Hai tròng mắt của Olivetti như tụt hẳn vào trong hốc mắt, trông vô cảm, hệt như mắt của côn trùng.
- Thế sao? Cô Vetra? Để tôi giải thích cho cô hiểu nhé. Trên điện thoại, ông giám đốc của cô nhất định không chịu cho tôi biết những thông tin chi tiết về vật thể này. Ông ta một mực yêu cầu tôi phải tổ chức tìm kiếm ngay tức khắc. Chúng tôi cực kỳ bận rộn, và cũng không thừa thãi nhân lực để làm những công việc tù mù thế này.
- Vào thời điểm này thì chúng tôi chỉ có thể thông báo với ông một thông tin thôi, thưa ông chỉ huy, - Vittoria nói, - Trong vòng 6 tiếng đồng hồ nữa, thiết bị đó sẽ khiến cho toàn bộ khu vực này tan thành mây khói.
Olivetti đứng im như trời trồng:
- Cô Vetra, có một điều cô nên biết. - Giọng ông ta đầy vẻ kẻ cả - Mặc dù nhìn từ bên ngoài thì thành phố Vatican có vẻ cổ kính, nhưng trên từng lối đi, cả ở nơi công cộng lẫn khu vực riêng, đều được gắn các thiết bị cảm biến tối tân. Nếu có kẻ muốn mang bất kỳ loại chất nổ nào đột nhập vào đây, hắn sẽ bị phát hiện ngay lập tức. Chúng tôi có máy quét chất phóng xạ đồng vị, những máy lọc mùi do các chuyên gia của DEA(5) ở Mỹ thiết kế nhằm phát hiện dấu hiệu nhỏ nhất của những chất cháy nổ và gây độc. Chúng tôi cũng sử dụng những máy dò kim loại và máy quét tia X-quang tân tiến nhất.
- Rất ấn tượng, - Vittoria nói, cũng lạnh lùng không kém - Thậm không may, phản vật chất không phải chất phóng xạ, ký hiệu hoá học của nó chỉ đơn thuần là hydro, và cái hộp thì được làm bằng nhựa. Không một thiết bị nào ở đây có thể phát hiện ra nó.
- Nhưng thiết bị đó có nguồn năng lượng lớn, - Olivetti nói, tay chỉ vào ánh đèn điện tử LED(6) đang nhấp nháy. - Thậm chí chỉ cần một dấu vết nhỏ của hợp chất Niken- Cadmi(7) cũng có thể…
- Nhưng pin của nó cũng bằng nhựa.
Sự kiên nhẫn của Olivetti rõ ràng là đang mất dần đi.
- Pin bằng nhựa?
- Chất lỏng điện phân polyme kết hợp với Teflon.
Olivetti khom lưng xuống, như thể muốn nhấn mạnh lợi thế chiều cao của mình.
- Xin thưa với quý cô, mỗi tháng Vatican là mục tiêu của hàng chục vụ uy hiếp bằng bom. Đích thân tôi đã đào tạo từng người trong đội lính gác Thuỵ Sĩ về các kỹ thuật gây nổ hiện đại. Theo như tôi được biết thì trên thế giới này chưa có một loại chất nổ nào có sức mạnh như cô miêu tả, trừ khi cô muốn đề cập đến một đầu đạn hạt nhân có lõi bé bằng quả bóng chày.
Vittoria bực bội nhìn ông ta:
- Thiên nhiên còn nhiều điều bí ẩn chưa được khám phá lắm.
Olivetti cúi xuống thấp hơn nữa:
- Tôi xin hỏi cô là ai? Vị trí cửa cô ở CERN là gì?
- Tôi là thành viên cấp cao trong hội đồng nghiên cứu và được chỉ định tới Vatican để giải quyết vụ khủng hoảng này.
- Xin lỗi vì sự thô lỗ của tôi, nhưng nếu thực sự có một cuộc khủng hoảng như thế thì tại sao tôi phải làm việc với cô chứ không phải giám đốc của cô? Và tại sao cô bất kính đến nỗi mặc quần cộc để vào trong toà thánh?
Langdon muốn rên lên. Không thể tin nổi, trong tình cảnh này mà ông ta vẫn còn tâm trí để mà lo chuyện quần áo. Nhưng rồi anh lại nhớ ra rằng nếu những dương vật bằng đá mà còn bị xem là dâm ô thì quần soóc của Vittoria hẳn phải là một mối đe doạ đối với an ninh quốc gia.
- Thưa Tổng Tư lệnh Olivetti, - Langdon can thiệp, cố gắng tháo ngòi quả bom nổ chậm thứ hai. - Tên tôi là Robert Langdon. Tôi là giáo sư nghiên cứu tôn giáo ở Mỹ và không có mối quan hệ nào với CERN. Tôi từng được chứng kiến vụ thử phản vật chất và xác nhận rằng những lời của cô Vetra là đúng, phản vật chất cực kỳ nguy hiểm. Chúng tôi có đủ mọi lí do để tin rằng một tổ chức chống tôn giáo đã đem vật đó vào đặt trong khu vực của các ông nhằm mục đích phá hoại Mật nghị Hồng y.
Olivetti quay phắt lại, chăm chú nhìn Langdon:
- Một phụ nữ mặc quần soóc nói với tôi rằng một giọt chất lỏng sắp làm nổ tung cả thành Vatican, rồi lại còn một vị giáo sư người Mỹ nói rằng chúng tôi là mục tiêu của một tổ chức bài tôn giáo. Nói trắng ra thì các vị muốn tôi làm gì?
- Tìm cái hộp, - Vittoria nói, - Ngay bây giờ.
- Không thể được. Thiết bị này có thể ở bất kỳ chỗ nào trong tổ hợp. Vatican rất rộng lớn.
- Hệ thống camera của toà thánh không có bộ phận định vị toàn cầu sao?
- Bình thường chúng không mấy khi bị đánh cắp. Phải mất vài ngày mới xác định được vị trí của chiếc camera mất tích.
- Chúng tôi không có vài ngày. - Vittoria nói một cách cương quyết Chúng tôi chỉ có 6 tiếng đồng hồ.
- Sau 6 tiếng thì sao, cô Vetra? - Olivetti đột ngột lớn tiếng. Ông ta chỉ vào hình ảnh trên màn hình. - Sau khi những con số này đếm ngược đến 0 sao? Thành Vatican biến mất sao? Các vị nghe đây, tôi không thể tử tế với những người đem hệ thống an ninh của chúng tôi ra làm trò đùa. Và tôi cũng chẳng thích thú gì khi cái hộp xuất hiện một cách bí ẩn bên trong khu tổ hợp này. Nhưng tôi quả thật có lo lắng. Phận sự của tôi là thế. Nhưng những gì quý vị vừa nói thì không thể chấp nhận được.
Không kiềm chế thêm được nữa, Langdon lên tiếng:
- Ông đã bao giờ nghe nói đến hội Illuminati chưa?
Vẻ lạnh lùng của ông Tổng tư lệnh lập tức tan biến. Mắt ông ta trợn ngược lên như thể sắp bị cá mập tấn công.
- Tôi cảnh cáo các vị! Tôi không có thời gian cho những trò đùa kiểu này.
- Vậy là ông đã nghe nói đến hội Illuminati rồi phải không?
Hai tròng mắt của Olivetti tưởng như sắp lồi hẳn ra ngoài:
- Tôi đã thề sẽ bảo vệ giáo hội Thiên Chúa. Đương nhiên là tôi phải biết đến hội Illuminati. Chúng đã bị đập tan từ nhiều thập kỷ nay rồi.
Langdon thò tay vào túi áo lôi ra bản fax có hình ảnh cơ thể Leonardo Vetra bị đóng dấu sắt nung rồi đưa cho Olivetti.
- Tôi là một học giả chuyên nghiên cứu về Illuminati, - Langdon nói trong khi Olivetti đang xem xét bức ảnh. - Phải hết sức khó khăn tôi mới dám chấp nhận rằng hội Illuminati vẫn còn hoạt động, vì sự xuất hiện của dấu hiệu này và cũng vì lời nguyền sẽ tiêu diệt thành Vatican của họ, tôi đã thay đối ý kiến.
- Một lò lửa đảo bằng kỹ thuật vi tính. - Olivetti đưa trả tờ fax lại cho Langdon.
Langdon trợn tròn mắt, không tin vào mắt mình:
- Trò bịp là thế nào? Ông hãy nhìn hình đối xứng này đi! Đáng lẽ ông phải là người đầu tiên nhận ra tính xác thực của…
- Tính xác thực là thứ đầu tiên các vị thiếu. Có lẽ cô Vetra chưa cho ông biết đấy thôi, từ hàng chục năm nay, các nhà khoa học của CERN lúc nào cũng chỉ trích các chính sách của Vatican. Họ liên tục yêu cầu chúng tôi tự phủ nhận thuyết Sáng tạo, chính thức xin lỗi Galileo và Copernicus, rút lại những lời chỉ trích của chúng tôi về các công trình khoa học nguy hiểm hoặc vô đạo đức Theo các vị thì giả thuyết nào đúng hơn: Một là một nhóm tà giáo đã diệt vong từ cách đây 400 năm bây giờ bỗng nhiên trỗi dậy và sở hữu một loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt vô cùng hiện đại. Hai là một số kẻ đùa dai ở CERN đang bày ra một trò xảo trá nhằm phá hoại một sự kiện vô cùng thiêng liêng ở thành Vatican. Giả thuyết nào đây?
- Người trong bức ảnh đó, - Vittoria nói, giọng cô gái sùng sục như một dòng nham thạch đang sôi, - chính là cha tôi. Người vừa bị sát hại. Ông tưởng là tôi nói đùa đấy à?
- Tôi không biết, thưa cô Vetra. Tôi chỉ biết rằng khi nào được nghe một lời giải thích hợp lí thì tôi mới phát lệnh báo động. Cảnh giác và thận trọng là phận sự của tôi… đối với những vấn đề tôn giáo kiểu này thì luôn phải giữ cho đầu óc thật sáng suốt. Nhất là trong ngày hôm nay.
Langdon nói:
- Ít ra thì cũng phải cho hoãn Mật nghị Hồng y lại chứ.
- Hoãn? - Olivetti há hốc mồm. - Thật là ngông cuồng. Mật nghị Hồng y không phải là trận đấu bóng chày ở Mỹ để mà tạm hoãn chỉ vì trời mưa. Đây là một sự kiện thiêng liêng với những quy định và thủ tục nghiêm ngặt. Chưa kể đến một tỉ tín đồ Thiên Chúa giáo trên thế giới đang chờ đợi một vị lãnh tụ tinh thần mới, và chưa tính đến các nhà báo đang chầu chực ở ngoài kia, thì bản thân Mật nghị Hồng y cũng đã vô cùng thiêng liêng rồi - không thể thay đổi được. Kể từ năm 1179, tất cả Mật nghị Hồng y đều được tiến hành đúng theo quy định, bất chấp cả động đất, nạn đói, thậm chí cả đại dịch. Các vị nghe đây, không thể nào huỷ bỏ Mật nghị Hồng y chỉ vì một nhà khoa học bị ám sát và một giọt chất mà chỉ có Chúa mới biết đó là cái gì.
- Đưa tôi đến gặp người có thẩm quyền, - Vittoria yêu cầu.
Olivetti gầm lên:
- Cô đang nói chuyện với người đó đây.
- Không, - cô nói - Một người trong giới tăng lữ kia.
Những tia máu trên trán Olivetti bắt đầu vằn lên:
- Tất cả giới tăng lữ đã ra khỏi thành phố. Ngoài đội lính gác Thuỵ Sĩ ra, những người duy nhất có mặt ở đây lúc này là Hồng y đoàn. Và họ đang ở trong nhà nguyện Sistine.
- Thế còn Giáo chủ Thị thần? - Langdon nói nhẹ như không.
- Ai?
- Thị thần của cố Giáo hoàng. - Langdon vừa lặp lại từ đó một cách tự tin vừa thầm mong rằng mình không nhớ nhầm. Anh đã từng đọc tài liệu về cách sắp xếp thứ tự quyền lực ở Vatican sau khi Giáo hoàng tạ thế. Nếu Langdon nhớ không nhầm, trong khi chờ Giáo hoàng mới được bầu, quyền lực tuyệt đối tạm thời thuộc về trợ lí riêng của cố Giáo hoàng - viên thị thần của Người - thư ký thuộc hạ của Người, người giám sát tiến trình của Mật nghị Hồng y, cho đến khi một Giáo hoàng mới được bầu chọn xong.
- Tôi tin rằng lúc này thì Giáo chủ Thị thần là người có thầm quyền.
- Il camerlengo?(8) - Olivetti cáu kỉnh - Giáo chủ Thị thần là vị thầy tu duy nhất tại đây. Ngài là người giúp việc của cố Giáo hoàng!
- Nhưng Giáo chủ Thị thần đang có mặt ở đây. Thế mà ông lại đứng ra giải quyết thay ông ấy sao?
Olivetti khoanh tay trước ngực:
- Thưa ông Langdon, đúng là theo quy định ở Vatican thì Giáo chủ Thị thần là người điều hành chính trong thời gian diễn ra Mật nghị Hồng y, nhưng lý do duy nhất là vì vị thầy tu này không đủ điều kiện để được đề cử làm Giáo hoàng tiếp theo nên sẽ không thể làm thiên lệch kết quả của cuộc bỏ phiếu. Cũng như trong trường hợp tổng thống của các vị từ trần, một trong những trợ lí của ông ta sẽ tạm thời ngồi thay trong phòng nghị sự. Vị Giáo chủ Thị thần này còn khá trẻ, và sự hiểu biết của người về mặt an ninh, hay bất cứ vấn đề gì khác liên quan đều rất hạn chế. Trên thực tế, tôi là người chịu trách nhiệm chính ở đây.
- Đưa tôi đến chỗ Giáo chủ Thị thần. - Vittoria nói.
- Không được. Mật nghị Hồng y sẽ bắt đầu trong vòng 40 phút nữa. Giáo chủ Thị thần đang ở trong Văn phòng của Giáo hoàng để chuẩn bị. Tôi không có ý định làm phiền ngài về những vấn đề an ninh.
Vittoria mở miệng định nói tiếp nhưng đột nhiên có tiếng gõ cửa. Olivetti ra mở cửa.
Một người lính mặc lễ phục chỉnh lề đứng bên ngoài chỉ tay vào đồng hồ: É I ora, comandante(9).
Olivetti nhìn đồng hồ và gật đầu. Ông ta quay lại nhìn Langdon và Vittoria như thể một vị quan toà đang chuẩn bị đưa ra phán quyết về sinh mạng của họ.
- Đi theo tôi.
Ông ta đưa hai người ra khỏi phòng điều hành, qua trung tâm an ninh, đến một phòng nhỏ có tường bằng kính trong suốt sát mảng tường phía sau:
- Văn phòng của tôi. - Ông ta đẫn họ vào trong. Căn phòng không có gì đặc biệt - bàn làm việc bừa bãi, ngăn đựng tài liệu, ghế gấp, bình lọc nước. - Tôi sẽ quay trở lại đây sau 10 phút nữa. Tôi đề nghị hai vị dành khoảng thời gian này để nghĩ cho kỹ xem các vị muốn gì.
Vittoria mất bình tĩnh:
- Ông không được bỏ đi như thế! Cái hộp đó…
- Tôi không có thời gian, - Olivetti cáu kỉnh. - Có lẽ tôi nên tạm giữ cô cho đến khi cuộc bầu chọn kết thúc, lúc đó thì tôi sẽ có thời gian.
- Signore(10) - người lính thúc giục, chỉ tay vào đồng hồ lần nữa.
- Spazzare la cappella!(11)
Olivetti gật đầu và chuẩn bị đi.
Spazzare la cappella? - Vittoria hỏi lại - Các ông định đi rà soát nhà nguyện sao?
Olivelti quay lại, ánh mắt sắc như dao nhìn xoáy vào cô gái:
- Chúng tôi rà soát để tìm bọ điện tủ, cô Vetra ạ - cẩn tắc vô áy náy. - Ông ta chỉ vào chân Vittoria: "Tôi nghĩ rằng chuyện này thì cô không hiểu nổi đâu.
Ông ta đóng sầm cánh cửa tấm kính rung lên bần bật. Trong cơn tức giận, ông ta rút chìa khoá ra, tra vào ổ và vặn. Chốt khoá nặng nề bật ra.
- Idiota!(12) - Vittoria rên lên. - Ông không được nhốt chúng tôi ở đây!
Nhìn xuyên qua cửa kính, Langdon thấy Olivetti nói gì đó với người lính gác. Anh ta gật đầu. Khi Olivetti sải bước ra khỏi phòng, anh ta xoay lại đứng đối diện với họ qua lớp kính, hai tay khoanh trước ngực, vũ khí kè kè sát bên hông.
Hoàn hảo, Langdon thầm nghĩ. Hoàn hảo chết người.
Chú thích:
(1) Continua a cercare (tiếng Ý): Tiếp tục tìm kiếm.
(2) Ha provato al museo (tiếng Ý): Có thể ở viện bảo tàng.
(3) Comandante Principale (tiếng Ý): Tổng Tư lệnh.
(4) Fuori (tiếng Ý): Ra ngoài.
(5) DEA (Drug Eníorcement Adminitration): Cục quản lí được phẩm Hoa Kỳ.
(6) LED (Light - emitting diode): đi-ốt phát sáng.
(7) Cadmi: Là một nguyên tố hoá học trong bảng tuần hoàn các nguyên tố, có ký hiệu là Cd.
(8) Il camerlengo (tiếng Ý): Giao chủ Thị thần.
(9) E l ora, comandante (tiếng Ý): Đến giờ rồi, thưa tư lệnh.
(10) Signore (tiếng Ý): Quý ông, thưa ngài.
(11) Spazzare la cappella (tiếng Ý): Dọn nhà thờ.
(12) Idiota (tiếng Ý): Khốn kiếp.


***

Vittoria chăm chăm nhìn người lính gác Thuỵ Sĩ đang đứng bên ngoài cánh cửa đã bị khoá. Người lính gác cũng chòng chọc nhìn lại hai người, bộ quần áo sặc sỡ tương phản với vẻ mặt hằm hằm của anh ta.
Che fiasco(1), Vittoria nghĩ. Giam giữ con tin bằng một người trang bị đầy đủ vũ khí nhưng lại mặc piiama.
Langdon không nói gì, Vittoria hy vọng anh chàng Harvard này sẽ vận dụng trí thông minh của mình để tìm ra cách giải quyết vấn đề. Nhưng nhìn nét mặt của anh, cô biết anh vẫn còn đang sốc và chưa kịp suy nghĩ bất cứ điều gì. Cô cảm thấy ân hận vì đã lôi Langdon vào cuộc.
Theo bản năng, Vittoria rút điện thoại di động và gọi cho Kohler, nhưng cô chợt nhận ra mình thật ngớ ngẩn. Trước hết, người lính gác có thể đi vào và tước mất điện thoại của cô. Thứ hai, nếu Kohler được cấp cứu kịp thời, ông ta chắc vẫn đang nằm liệt một chỗ. Mà nếu có đi được chăng nữa… thì lúc này Olivetti cũng chẳng thèm đếm xỉa đến lời nói của bất cứ ai.
Phải nhớ lại! Cô tự nhủ. Hãy nhớ lại giải pháp cho phép thử này!
Lục lại trí nhớ là phương pháp của một triết gia theo đạo Phật.
Thay vì đặt câu hỏi cho trí não để tìm giải pháp cho một vấn đề tưởng như vô vọng, Vittoria chỉ cần yêu cầu trí não của mình nhớ lại vấn đề. Giả thuyết là một khi người ta biết câu trả lời nằm trong đầu thì câu trả lời đó ắt hẳn phải tồn tại… vì vậy sẽ loại bỏ được những ý nghĩ tuyệt vọng. Vittoria thường sử dụng cách này để giải những bài toán hóc búa trong khoa học… những thách thức mà đa số người cho rằng không thể giải quyết nổi.
Nhưng giờ đây, phương pháp này chẳng mang lại kết quả gì.
Thế là cô cân nhắc các sự lựa chọn… những điều cần làm. Cần phải cảnh báo một người nào đó. Một nhân vật nào đó của toà thánh phải nghiêm túc lắng nghe ý kiến của cô. Nhưng người đó là ai? Giáo chủ Thị thần? Nhưng bằng cách nào? Khi cô đang bị nhốt trong một cái hộp kính chỉ có một cửa ra duy nhất.
Công cụ, cô tự nhủ. Công cụ lúc nào cũng sẵn có. Phải xem xét mọi thứ xung quanh.
Theo bản năng, Vittoria thả lỏng hai vai, mắt nhắm lại thư giãn, hít thở sâu ba lần. Cô cảm thấy trái tim mình đang đập chậm dần lại, các cơ bắt đầu mềm ra. Cảm giác kinh hoàng trong lòng tan biến. Được rồi, cô gái thầm nghĩ, hãy để cho đầu óc được thư thái. Những yếu tố tích cực trong tình huống này là gì? Mình đang có những gì?
Một khi đã bình tĩnh trở lại, khả năng phân tích của Vittoria trở nên cực kỳ mạnh mẽ. Trong vòng vài giây, cô gái nhận ra rằng chính tình cảnh bị giam giữ nơi đây lại là chìa khoá giúp họ trốn thoát.
- Tôi sẽ gọi điện thoại, - cô bất chợt lên tiếng.
Langdon ngước mắt lên:
- Tôi cũng định nhắc cô gọi cho Kohler nhưng…
- Không phải Kohler. Một người khác.
- Giáo chủ Thị thần.
Langdon hoàn toàn không hiểu gì cả.
- Cô định gọi cho Giáo chủ Thị thần? Nhưng bằng cách nào?
- Olivetti nói rằng Giáo chủ Thị thần đang ở trong văn phòng của Giáo hoàng.
- Được rồi. Thế cô có biết số điện thoại riêng của Giáo hoàng không?
- Không. Nhưng tôi không gọi bằng điện thoại của tôi. - Cô gật đầu chỉ về phía hệ thống điện thoại công nghệ cao trên bàn của Olivetti. Hệ thống này dày đặc những nút gọi nhanh. - Người đứng đầu của cơ quan an ninh phải có đường dây liên lạc trực tiếp với văn phòng của Giáo hoàng.
- Ông ta cũng đã bố trí một vận động viên cử tạ được trang bị đầy đủ vũ khí đứng cách chúng ta có 1,8 mét.
- Và chúng ta bị khoá bên trong.
- Tôi biết rất rõ điều đó.
- Ý tôi là người lính gác kia bị khoá ở phía ngoài. Đây là phòng riêng của Olivetti. Tôi nghĩ không ai khác có chìa khoá.
Langdon nhìn người lính gác:
- Lớp kính này tương đối mỏng còn khẩu súng thì khá lớn.
- Thế anh ta sẽ làm gì, chẳng lẽ lại bắn chúng ta chỉ vì tội gọi điện thoại?
- Có trời mới biết! Đây là một nơi kỳ lạ, và mọi thứ đều sắp…
- Chỉ có một trong hai giải pháp, - Vittoria nói - Nếu không làm thế thì chúng ta sẽ ở trong nhà tù của Vatican trong vòng 5 giờ 48 phút nữa. Ít ra thì chúng ta sẽ ngồi ngay hàng ghế đầu, khi phản vật chất phát nổ.
Mặt Langdon tái đi:
- Nhưng người lính kia sẽ gọi cho Olivetti ngay khi cô nhấc máy. Ngoài ra, có những 20 nút bấm trên máy điện thoại. Và tôi cũng chẳng thấy có chú thích nào cả. Cô định bấm thử tất cả các nút rồi cầu may hay sao?
- Không. - Cô nói và sải bước đến bên máy điện thoại. - Chỉ một nút thôi. - Vittoria nhấc máy lên và ấn nút trên cùng.
- Số 1. Tôi cá những đồng đô la Mỹ mang biểu tượng của Illuminati trong túi anh đấy. Đây là số văn phòng của Giáo hoàng. Đối với tư lệnh của đội lính gác Thuỵ Sĩ thì còn có gì quan trọng hơn số máy này?
Langdon không còn thời gian để phản đối. Người lính gác bên ngoài lấy báng súng gõ nhẹ vào lớp kính. Anh ta ra hiệu cho cô đặt máy xuống.
Vittoria nháy mắt với anh ta, thế là người lính gác bắt đầu nổi cơn thịnh nộ.
Langdon lùi xa khỏi cánh cửa và quay về đứng cạnh Vittoria.
- Hi vọng là cô đoán không sai, anh chàng ngoài kia có vẻ chẳng hài lòng chút nào!.
- Chết tiệt! - Cô gái nói trong khi nghe tín hiệu. - Vớ phải máy ghi âm rồi.
- Ghi âm? - Langdon hỏi lại. - Giáo hoàng dùng máy ghi âm để trả lời điện thoại?
- Đấy không phải là văn phòng của Giáo hoàng, - Vittoria nói rồi gác máy. - Đó là thực đơn hàng tuần chết tiệt dành cho nhà bếp của Vatican.
Langdon cười gượng với người lính gác bên ngoài cửa kính.
Anh ta đang giận dữ nhìn qua tấm kính, tay rút máy bộ đàm và gọi cho Olivetti.
Chú thích:
(1) Che fiasco (tiếng Ý): Thất bại.


***

Tổng đài Vatican được bố trí trong phòng thông tin phía sau bưu điện Vatican. Đây là một căn phòng nhỏ chứa hệ thống tổng đài điện thoại Corelco 141 gồm 8 đường dây. Văn phòng này mỗi ngày tiếp nhận trên 2000 cuộc gọi, đa số được tự động chuyển vào hệ thống ghi âm điện thoại.
Tối nay, nhân viên thông tin trực ban đang một mình ngồi nhấm nháp tách trà ướp cà phê, lòng cảm thấy tự hào là người duy nhất được phép ở lại Vatican đêm nay. Tất nhiên, niềm vinh dự này thỉnh thoảng bị phá hỏng bởi sự hiện diện của những người lính canh Thuỵ Sĩ cứ lượn lờ ngoài cửa. Được hộ tông tới tận nhà vệ sinh, người trực ban thầm nghĩ. Thế đấy, phải chịu khổ sở vì Mật nghị Hồng y thần thánh.
May mắn là những cuộc điện thoại tối nay đều rất nhẹ nhàng. Hay có lẽ đây chính là điều không may, anh ta nghĩ. Trong vài năm vừa qua, sự quan tâm của thế giới đối với những sự kiện ở Vatican đang giảm dần. Những cuộc gọi của giới báo chí cũng ít dần, và thậm chí những kẻ cuồng tín cũng không hay gọi đến quấy nhiễu nữa. Văn phòng báo chí đã hy vọng rằng sự kiện tối nay sẽ vui như hội. Nhưng buồn thay, dù cho xe hòm của giới truyền thông đỗ chật quảng trường St. Peter, thì cũng chỉ toàn thấy các hãng thông tấn của Italia và châu Âu. Chỉ thấy lác đác vài hãng tin lớn phủ sóng toàn cầu… và rõ ràng là những hãng này cũng chỉ cử đến đây toàn những phóng viên hạng hai.
Người nhân viên trực tổng đài với lấy cốc trà. Thầm băn khoăn không hiểu đêm nay Mật nghị Hồng y sẽ kéo dài bao lâu. Có lẽ đến nửa đêm hoặc muộn hơn, anh ta ước đoán. Ngày nay, trước khi cuộc bầu chọn bắt đầu, những người trong cuộc đều đã biết trước ai được ưu ái và có khả năng trở thành Giáo hoàng. Vì vậy Mật nghị Hồng y chỉ còn là một nghi lễ kéo dài khoảng ba đến bốn giờ đồng hồ, chứ không phải là cuộc bầu chọn thực sự như xưa.
Đương nhiên là những bất đồng giữa các thành viên của Hồng y đoàn có thể khiến cho Mật nghị Hồng y kéo dài, có thể đến rạng sáng hoặc… lâu hơn nữa. Mật nghị Hồng y năm 1831 kéo dài 54 ngày. Đừng có là đêm nay, anh ta tự nhủ; nghe đồn rằng Mật nghị Hồng y đêm nay chẳng qua chỉ là "hình thức" mà thôi.
Dòng suy nghĩ của người trực tổng đài bất chợt bị cắt ngang bởi tiếng chuông phát ra từ đường dây nội bộ trong tổng đài.
Anh ta nhìn ánh đèn đỏ nhấp nháy và gãi đầu. Kỳ lạ thật, anh ta nghĩ thầm. Đường dây số 0. Ai ở trong khu vực tin gọi tổng đài vào tối nay nhỉ? Ai mà giờ này vẫn còn ở trong toà thánh?
- Citta del Vaticano, prego(1)? - Anh ta nhấc máy lên.
Người ở đầu dây nói tiếng Ý rất nhanh. Nhân viên trực tổng đài lờ mờ nhận ra giọng nói này, đó là kiểu nói của những người lính gác Thuỵ Sĩ - một thứ tiếng Ý trôi chảy pha chút âm điệu của người Thuỵ Sĩ gốc Pháp. Tuy nhiên, người gọi điện này chắc chắn không phải là một lính gác Thuỵ Sĩ.
Khi nghe thấy giọng phụ nữ trong máy, người trực tổng đài sững lại, suýt làm đổ cốc trà. Anh ta nhìn đường dây một lần nữa. Không hề có sự nhầm lẫn. Số nội bộ. Cuộc gọi này là từ bên trong thành Vatican. Chắc chắn là có sự nhầm lẫn! Anh ta thầm nghĩ. Một phụ nữ ở trong thành Vatican? Tối hôm nay?
Người phụ nữ đó nói rất nhanh và có vẻ giận dữ. Sau nhiều năm trực tổng đài, người nhân viên đã có kinh nghiệm và biết phải làm thế nào để đối phó với một kẻ điên khùng. Nhưng giọng nói của người này không hề điên khùng chút nào. Khẩn cấp nhưng có ý thức. Bình tĩnh và rõ ràng. Anh ta lắng nghe yêu cầu của người đang gọi đến và bối rối.
- Il camerlengo?(2) - người trực ban hỏi lại, anh ta đang cố tìm xem cuộc gọi quỷ quái này từ đâu đến. - Tôi không thể nối máy… vâng, tôi biết Giáo chủ Thị thần đang ở trong văn phòng của Giáo hoàng nhưng… cô là ai, và cô muốn cảnh báo ngài về chuyện… - Anh ta lắng nghe, mỗi lúc một thêm mất bình tĩnh. Mọi người đang gặp nguy hiểm? Sao cơ? Và cô đang gọi từ đâu? Có lẽ tôi nên liên lạc với đội cận vệ Thuỵ Sĩ… - Người trực ban ngừng đột ngột. - Cô nói cô đang ở đâu? ở đâu?
Anh ta lắng nghe, vẻ kinh ngạc, rồi quyết định:
- Xin hãy giữ máy, anh ta nói rồi tạm gác máy trước khi người phụ nữ kịp trả lời. Rồi anh ta lại gọi trực tiếp cho tư lệnh Olivetti. Người phụ nữ đó không thể nào…
Phía bên kia đường dây ngay lập tức có người trả lời.
- Per l amore di Dio!(3) - người phụ nữ ấy lập tức hét toáng lên. - Hãy nối máy đi!.
Cánh cửa văn phòng đội Cận vệ Thuỵ Sĩ bật mở. Người lính gác đứng tránh sang một bên và Tổng Tư lệnh Olivetti lao vào phòng. Những gì người lính gác nói với ông ta trên máy bộ đàm không hề sai chút nào. Vittoria Vetra đang đứng cạnh bàn làm việc sử dụng điện thoại riêng của Olivetti.
Che coglioni che hả questaz!(4) Olivetti thầm nghĩ. Nhanh thật!
Nhanh như cắt, ông ta sải bước đến bên cánh cửa, tra mạnh chìa khoá vào ổ. Olivetti giật cánh cửa ra và hỏi:
- Các người đang làm cái gì thế?
Vittoria làm như không nghe thấy gì.
- Vâng, - cô vẫn tiếp tục nói trên điện thoại. - Và tôi phải cảnh báo…
Olivetti giật phắt chiếc điện thoại từ tay cô gái rồi đưa lên ngang tai. - Gã nào đang nói chuyện đấy!
Trong phút chốc, thân hình cứng ngắc của Olivetti sụp xuống.
- Vâng, thưa Giáo chủ Thị thần… - Ông ta nói - Đúng thế, thưa cha… nhưng yêu cầu của bộ phận an ninh… dĩ nhiên là không ạ… con đang giữ cô ấy ở đây vì… được ạ, nhưng mà… - Ông ta lắng nghe. - Vâng, thưa cha. - Cuối cùng ông ta thốt lên. - Con sẽ đưa họ lên ngay lập tức.
Chú thích:
(1) Città del Vaticano, prego (tiếng Ý): Xin chào, đây là thành phố Vatican
(2) Il camerlengo (tiếng Ý): Giáo chủ Thị thần.
(4) Che coglioni che hả questaz (tiếng Ý): Một câu chửi thế (nghĩa bậy).


***

Cung điện của Giáo hoàng gồm một tổ hợp những khối nhà nằm ngay bên cạnh nhà nguyện Sistine, về phía Đông Bắc của thành Vatican. Mặt trước của cung điện hướng ra quảng trường St. Peter, và cả khu ở lẫn văn phòng của Giáo hoàng đều được bố trí bên trong công trình tráng lệ này.
Vittoria và Langdon im lặng đi theo Tổng Tư lệnh Olivetti, qua những hành lang dài trang trí hoa văn cầu kỳ theo kiểu rococo. Olivetti tức tối đến nỗi chùm cơ trên cổ ông ta nổi gồ hẳn lên. Sau khi leo hết ba tầng cầu thang, họ tiến vào một hành lang rộng rãi, sáng mờ.
Langdon sững sờ trước những kiệt tác nghệ thuật treo đầy trên tường - những bức tượng bán thân mới tinh, những tấm thảm thêu, những cây cột trụ - những tác phẩm trị giá hàng trăm ngàn đô la. Một đài phun nước bằng thạch cao tuyết hoa kéo dài hai phần ba dãy hành lang. Olivetti rẽ trái rồi bước tới bên một khung cửa rộng chưa từng thấy.
- L ufficio del Papa!(1) - Vị Tổng Tư lệnh tuyên bố và quắc mắt nhìn Vittoria một cách đầy bực tức. Cô gái không hề nao núng, bước qua Olivetti và gõ mạnh vào cánh cửa.
Văn phòng của Giáo hoàng, Langdon thầm nghĩ, anh không dám tin rằng mình đang đứng ngay trước cửa một trong những căn phòng thiêng liêng nhất của mọi tôn giáo trên thế giới.
- Avanti!(2) - có người từ bên trong nói vọng ra.
Khi cánh cửa mở ra, Langdon phải lấy tay che mắt. Ánh nắng mặt trời thật chói chang. Dần dần, quang cảnh trước mắt anh trở nên rõ nét.
Văn phòng của Giáo hoàng trông giống phòng đại tiệc hơn là phòng làm việc, bàn đá hoa cương đỏ, tường được trang trí bằng những bức bích hoạ. Một cây đèn chùm khổng lồ treo trên trần, và những ô cửa sổ hình vòm. Quảng trường St. Peter trong ánh nắng chiếu hiện ra đẹp đến sững sờ.
- Chúa ơi, Langdon thầm nghĩ. Đứng đây mà ngắm cảnh mới tuyệt làm sao!
Ở phía cuối phòng, bên một cái bàn chạm trố rất cầu kỳ, một người đàn ông đang viết lách gì đó, vẻ giận dữ.
- Avanti! - người này nhắc lại một lần nữa, rồi đặt bút xuống và vẫy họ lại gần.
Với những bước đi chắc nịch kiểu nhà binh, Olivetti dẫn đầu.
- Signore(3) - Ông ta nói vẻ biết lỗi. Non ho potuto(4)….
Người đàn ông đó ngắt lời Olivetti, rồi đứng dậy quan sát hai vị khách.
Giáo chủ Thị thần trông không giống những ông già yếu ớt và hiền lành mà Langdon vẫn thường mường tượng. Vị thầy tu này không đeo tràng hạt hay dây thánh giá, cũng không mặc tấm áo chùng nặng nề. Thay vào đó, ngài mặc bộ áo thầy tu màu đen nhẹ nhàng, khiến cho thân hình săn chắc nổi bật hẳn lên. Trạc 40 tuổi Giáo chủ Thị thần thực ra chỉ là một đứa trẻ so với độ tuổi trung bình của một thị thần ở Vatican. Ngài có khuôn mặt đẹp đến kinh ngạc, mái tóc dày màu nâu gợn sóng, đôi mắt xanh sáng long lanh như thể được truyền sức mạnh từ vô vàn những bí ẩn của vũ trụ. Tuy nhiên, khi Giáo chủ Thị thần đến gần, Langdon nhận thấy trong đôi mắt xanh ấy vẻ mệt mỏi kiệt quệ - giống như một linh hồn vừa trải qua 15 ngày khó khăn nhất trong cuộc đời của mình.
- Ta là Carlo Ventresca, - vị thầy tu này nói tiếng Anh cực kỳ trôi chảy - Thị thần của cố Giáo hoàng. - Giọng nói của ngài chỉ pha một chút âm sắc của tiếng Ý, toát lên vẻ khiêm tốn và nhân từ.
- Vittoria Vetra, - cô gái bước lên phía trước và chìa tay ra. - Cám ơn cha đã cho chúng con được gặp mặt.
Olivetti co rúm người khi nhìn thấy Giáo chủ Thị thần bắt tay Vittoria.
- Đây là ông Robert Langdon, - Vittoria nói - Nhà nghiên cứu sử học tôn giáo thuộc trường Đại học Harvard.
- Padre(5), - Langdon cố gắng phát âm tiếng Ý thật chuẩn. Anh cúi đầu và chìa tay ra.
- Không, không, - Giáo chủ Thị thần đỡ Langdon dậy. - Đứng trong văn phòng của Giáo hoàng không khiến cho ta trở thành Giáo hoàng. Ta chỉ là một thầy tu bình thường - một kẻ tôi tớ của Người.
Langdon đứng im.
- Xin mời, - Giáo chủ Thị thần nói, - mời tất cả mọi người ngồi xuống. - Ngài kéo vài chiếc ghế xung quanh bàn làm việc.
Langdon và Vittoria cùng ngồi xuống. Còn Olivetti thì rõ ràng là muốn đứng.
Giáo chủ Thị thần ngồi xuống bên bàn làm việc của mình, khoanh tay thở dài rồi nhìn từng vị khách.
- Thưa cha, - Olivetti nói, - Trang phục của người phụ nữ này là do sơ suất của con. Con…
- Trang phục của cô ấy không phải là thứ khiến ta bận tâm, - Giáo chủ Thị thần uể oải đáp, dường như ngài đã quá mệt mỏi nên cũng không để tâm đến chi tiết đó. - Nhân viên trực tổng đài của toà thánh điện cho ta nửa tiếng trước giờ khai mạc Mật nghị Hồng y và nói rằng có một phụ nữ đang gọi từ phòng làm việc của ông để cảnh báo về một mối đe doạ lớn mà ta chưa được biết, đó mới chính là điều khiến ta phải bận tâm.
Olivetti đứng như trời trồng, lưng chùng xuống, y như một người lính đang phải trải qua một kỳ sát hạch gắt gao.
Langdon như bị thôi miên trước sự hiện diện của Giáo chủ Thị thần. Dù còn rất trẻ và có vẻ mỏi mệt, vị thầy tu này vẫn thể hiện phong thái của một anh hùng bí ẩn với dáng vẻ quyền uy và sức hút mạnh mẽ.
- Thưa cha, - Olivetti nói, giọng có vẻ hối lỗi, nhưng vẫn rất cứng nhắc - Cha không cần phải bận tâm về những vấn đề an ninh. Cha còn có những trọng trách khác.
- Ta biết rõ những phận sự của mình. Ta cũng hiểu rằng ở cương vị của một người phụ trách lâm thời, ta có trách nhiệm đảm bảo cho tất cả những thành viên của Hồng y đoàn được bình an vô sự. Đã xảy ra chuyện gì?
- Con vẫn đang kiểm soát được tình hình.
- Rõ ràng là không.
- Thưa cha, - Langdon ngắt lời, anh lôi ra tờ fax nhàu nhĩ rồi đưa cho Giáo chủ Thị thần. - Cha hãy xem đi.
Tống Tư lệnh Olivetti bước lên, định can thiệp.
- Thưa cha, xin đừng bận tâm về…
Giáo chủ Thị thần cầm lấy tờ fax, chẳng thèm để ý đến Olivetti. Ngài nhìn bức ảnh chụp Leonardo Vetra bị sát hại rồi thở dài.
- Gì thế này?
- Đó là cha của con, - Vittoria nói, giọng run rẩy. - Ông ấy là một linh mục và một nhà khoa học. Đêm qua, cha của con đã bị sát hại.
Vẻ mặt của vị thầy tu trẻ ngay lập tức dịu lại. Ngài quay sang nhìn Vittoria:
- Con của ta, ta rất lấy làm tiếc. - Giáo chủ Thị thần làm dấu thánh rồi lại tiếp tục nhìn tấm hình, ánh mắt của ngài lộ vẻ kinh hãi. - Kẻ nào đã… và vết bỏng trên… - Giáo chủ Thị thần ngừng lời, nheo mắt nhìn kỹ tấm hình.
- Đó là biểu tượng của Illuminati, - Langdon nói - Chắc cha không lạ gì cái tên đó.
Giáo chủ Thị thần thoáng ngỡ ngàng.
- Ta đã từng nghe thấy cái tên đó, đúng thế, nhưng mà…
- Illuminati đã sát hại Leonardo Vetra để đánh cắp công nghệ mới mà ông ấy đang…
- Thưa cha, - Olivetti xen vào. - Câu chuyện này thật lố bịch. Hội Illuminati ư? Rõ ràng đây là một trò lừa bịp có tính toán.
Giáo chủ Thị thần dường như đang cân nhắc những lời nói của Olivetti. Rồi ngài quay sang và nhìn Langdon kỹ đến nỗi anh cảm thấy nghẹt thở.
- Ông Langdon, ta cống hiến cả đời mình cho giáo hội, cho nên ta không lạ gì những lời đồn đại về Illuminati… và truyền thuyết về những dấu sắc nung. Nhưng xin ông nhớ rằng ta là người của thực tại. Chưa cần dựng lại nhũng bóng ma này thì Thiên Chúa giáo đã có nhiều kẻ thù lắm rồi.
- Biểu tượng này là thực, - Langdon có ý bảo vệ quan điểm của mình. Anh với lấy tờ fax và xoay ngược lại cho Giáo chủ Thị thần xem.
Vị thầy tu trẻ tuổi im bặt khi nhìn thấy biểu tượng đối xứng hai chiều đó.
- Kể cả công nghệ máy tính hiện đại, - Langdon nói thêm, cũng không thể làm giả biểu tượng đối xứng hai chiều này.
Khoanh tay trước ngực và im lặng hồi lâu, cuối cùng Giáo chủ Thị thần cũng lên tiếng:
- Hội Illuminati đã diệt vong. Từ lâu lắm rồi. Đó là một sự thật lịch sử.
Langdon gật đầu.
- Con cũng nghĩ như cha, cho đến tận ngày hôm qua.
- Ngày hôm qua?
- Trước khi một loạt sự kiện xảy ra trong ngày hôm nay. Con tin rằng hội Illuminati đã sống dậy để thực hiện những mục đích xa xưa của họ.
- Tha lỗi cho ta. Kiến thức lịch sử của ta không được tốt cho lắm. Mục đích gì vậy?
Langdon hỏi một hơi thật sâu:
- Phá huỷ thành Vatican.
- Phá huỷ thành Vatican? - Giáo chủ Thị thần có vẻ bối rối nhưng không hề hoảng hốt. - Điều đó là không thể.
Vittoria lắc đầu:
- Sợ rằng chúng con còn có vài tin xấu khác.
Chú thích:
(1) L ufficio del Papa (tiếng Ý): Văn phòng Giáo hoàng.
(2) Avanti (tiếng Ý): Vào đi.
(3) Signore (tiếng Ý): Thưa ngài.
(4) Non ho potuto (tiếng Ý): Tôi không thể.
(5) Padre (tiếng Ý): Đức cha.

***



Có đúng như thế không? - Giáo chủ Thị thần kinh ngạc hỏi lại, hết quay sang Vittoria lại đến Olivetti.
- Thưa cha, - Olivetti trấn an, - Con phải thừa nhận rằng chúng ta đang có một bằng chứng. Một camera giám sát đang truyền về hình ảnh của nó, nhưng khi cô Vetra nói về sức mạnh của vật này thì con không thể…
- Khoan đã nào, - Giáo chủ Thị thần nói - Ông có thể nhìn thấy thứ đó à?
- Vâng, thưa cha. Trên camera không dây số 86.
- Thế tại sao không thu hồi vật đó? - Giáo chủ Thị thần có vẻ giận dữ.
- Rất khó, thưa cha. - Trong tư thế đứng nghiêm, Olivetti giải thích tình hình.
Giáo chủ Thị thần lắng nghe và Vittoria nhận thấy vị thầy tu này mỗi lúc một thêm lo lắng.
- Ông có chắc (hắn là camera đó vẫn còn ở trong thành Vatican hay không? Biết đâu có kẻ đã đem chiếc camera đó ra ngoài và truyền hình ảnh từ nơi khác về thì sao.
- Không thể nào, Olivetti nói - Các bức tường ngoài của chúng ta được trang bị hàng rào điện tử để bảo vệ hệ thống viễn thông ở bên trong. Tín hiệu này chỉ có thể được truyền đi từ bên trong toà thánh, nếu không chúng ta không thể nhận được tín hiệu!
- Và theo phán đoán của ta thì các ông đang huy động toàn bộ lực lượng để tìm kiếm chiếc camera mất tích đó? - Giáo chủ Thị thần hỏi.
Olivetti lắc đầu:
- Không, thưa cha. Phải mất hàng trăm giờ đống hồ tìm kiếm mới có thể xác định được vị trí của nó. Lúc này thì chứng con còn phải quan tâm đến một số vấn đế an ninh khác, và theo lời của cô Vetra đây thì giọt chất đó rất nhỏ, nó không thể nào gây ra vụ nổ lớn như cô ấy nói được ạ.
Vittoria không thể kiên nhẫn thêm được nữa:
- Giọt chất đó đủ sức san phẳng toàn bộ thành Vatican đấy! Ông không hiểu những gì tôi nói hay sao?
- Thưa cô, - Olivetti nói, giọng đanh như thép. - Tôi rất hiểu biết về chất nổ.
- Kiến thức của ông đã lỗi thời rồi, - cô phản bác lại không kém phần cứng rắn. - Tôi biết là bộ quần áo này của tôi khiến ông cảm thấy vô cùng khó chịu, nhưng xin nói để ông biết, tôi là một nhà vật lý học cao cấp chuyên nghiên cứu về lượng tử ở một viện nghiên cứu tiếng tăm nhất thế giới. Chính bản thân tôi là người đã thiết kế cái bẫy phản vật chất để giữ cho mẫu vật đó không san phẳng tất cả mọi thử ngay bây giờ. Và tôi cũng xin báo trước với ông là phải tìm chiếc hộp trong vòng 6 tiếng nữa, nếu không thì những người lính gác của ông sẽ chẳng còn gì để bảo vệ trong thế kỷ sau, trừ một cái hố toang hoác trên mặt đất.
Olivetti lao tới bên Giáo chủ Thị thần, cặp mắt vô hồn của ông ta bừng bừng giận dữ.
- Thưa cha, lương tâm của con không cho phép chuyện này đi xa hơn nữa. Những kẻ quấy rối này đang làm lãng phí thời gian quý báu của cha. Hội Illuminati ư? Một giọt chất mà huỷ diệt được tất cả chúng ta hay sao?
- Đủ rồi, - Giáo chủ Thị thần tuyên bố. Dù cho Thị thần của Giáo hoàng chỉ nói rất khẽ, nhưng âm thanh ấy như vang vọng khắp căn phòng. sau đó chỉ còn sự im lặng. Ngài nói tiếp bằng một giọng như đang thì thầm:
- Dù có nguy hiểm hay không, dù có phải là hội Illuminati hay không, dù vật đó là gì đi chăng nữa thì cũng không nên để nó ở trong thành Vatican… nhất là lại vào đúng thời điểm diễn ra Mật nghị Hồng y. Ta yêu cầu các ông phải tìm cho ra và mang nó đi. Hãy tổ chức tìm kiếm ngay lập tức.
Olivetti vẫn khăng khăng:
- Thưa cha, nếu như có sử dụng tất cả lực lượng tìm kiếm trong khu vực thì cũng phải mất vài ngày mới am được chiếc camera đó. Sau khi nói chuyện với cô Vetra, con đã yêu cầu một lính gác Thuỵ Sĩ kiểm tra lại thông tin về các loại tên lửa đạn đạo, nhưng chẳng hề thấy bất kỳ thông tin nào về phản vật chất. Chưa có trang web nào đề cập đến nó. Chưa hề.
- A con lừa vênh váo, Vittoria nghĩ thầm. Tên lửa đạn đạo? Ông tìm trong từ điển bách khoa toàn thư chứ gì? Phải tìm ở vần A chứ?
Olivetti vẫn tiếp tục nói thao thao:
- Thưa cha, nếu cha nghĩ rằng chúng con nên tìm kiếm bằng mắt trần toàn bộ khu vực Vatican thì con kịch liệt phản đối.
- Ông chỉ huy. - Giọng nói của Giáo chủ Thị thần như sôi lên:
- Xin nhắc cho ông nhớ, nói chuyện với ta tức là nói chuyện với ngôi vị Giáo hoàng. Ta nhận thấy rằng ông không hề tỏ ra phục tùng bề trên của mình - tuy nhiên, theo luật thánh, ta là người chịu trách nhiệm ở đây. Nếu ta không nhầm thì toàn bộ Hồng y đoàn đang an toàn trong nhà nguyện Sistine, và từ giờ cho đến khi Mật nghị Hồng y kết thúc thì công việc của ông chẳng có gì là bận rộn cả. Ta không hiểu tại sao ông lại lưỡng lự không muốn tìm kiếm thiết bị đó. Nếu ta không nhầm thì ông đang cố tình đặt Mật nghị Hồng y vào vòng nguy hiểm.
Olivetti tỏ vẻ khinh bỉ:
- Cha lại nói thế hay sao! Tôi đã phục vụ Giáo hoàng của ngài suốt 12 năm! Và cả đời Giáo hoàng trước đó 14 năm! Kể từ năm 1438, đội lính gác Thuỵ Sĩ đã từng…I
Chiếc máy bộ đàm bên hông Olivetti ré lên, ngắt lời ông ta.
- Thưa Tổng tư lệnh?
Olivetti bật nắp và ấn nút:
- Tôi đang bận, có chuyện gì!
- Xin lỗi, - một người lính gác Thuỵ Sĩ nói - Sĩ quan thông tin báo cáo. Báo cáo Tổng Tư lệnh, chúng ta vừa bị đe doạ đánh bom.
Olivetti chẳng hề quan tâm.
- Vậy các anh tự giải quyết đi! Tiến hành rà soát như thường lệ rồi báo cáo lên cho tôi.
- Chúng tôi đã tiến hành rồi, thưa chỉ huy, nhưng kẻ gọi điện đến… - Người lính ngừng lại. - Tôi sẽ không gọi cho chỉ huy thế này nếu hắn ta không đề cập đến thứ mà chỉ huy đã lệnh cho chúng tôi tìm kiếm. Phản vật chất.
Mọi người trong phòng kinh ngạc nhìn nhau.
- Hắn ta nói gì? - Olivetti lắp bắp.
- Phản vật chất, thưa chỉ huy. Trong khi rà soát tìm bom thì chúng tôi cũng tiện thể tìm luôn thứ mà hắn đe doạ. - Thông tin về phản vật chất thì… thành thật mà nói là rất đáng lo ngại.
- Sao nãy anh bảo rằng trong những hướng dẫn về đạn dạo không nhắc gì đến phản vật chất?
- Tôi tìm thấy thông tin trên mạng.
Alleluia(1), Vittoria thầm nghĩ.
- Vật chất đó dường như có sức nổ khá lớn, - người lính ấy nói tiếp - Khó có thể tin được rằng những thông tin này là chính xác. Nhưng theo tài liệu tôi vừa đọc thì phản vật chất có sức công phá gấp 100 lần so với đầu đạn hạt nhân.
Olivetti sụp xuống. Ý như một ngọn núi bỗng dưng đổ sập xuống. Cảm giác đắc thắng trong lòng Vittoria nhanh chóng bị xoá sạch bởi vẻ mặt kinh hãi của Giáo chủ Thị thần.
- Đã xác định được kẻ nào gọi đến chưa? - Olivetti lắp bắp.
- Vô vọng. Điện thoại di động, sóng khoá mã. Đường dây liên lạc từ vệ tinh đang rối loạn nên chúng ta đã bị mất tín hiệu phân vùng tam giác. Tần sóng IF cho thấy hắn ta đang ở đâu đó trong thành Rome, nhưng không có cách nào tìm được hắn.
- Hắn có yêu cầu gì không? - Olivetti khẽ hỏi.
- Không, thưa chỉ huy. Hắn chỉ cảnh báo rằng có phản vật chất đặt trong khu vực toà thánh. Hắn rất ngạc nhiên khi thấy tôi chưa biết gì. Hắn hỏi tôi đã nhìn thấy phản vật chất chưa. Vì ban nãy chỉ huy có hỏi tôi về phản vật chất nên tôi quyết định gọi ngài để xin ý kiến.
- Anh làm thế là đúng, - Olivetti nói - Tôi sẽ xuống đó trong vòng một phút nữa. Báo cho tôi ngay nếu hắn gọi tới.
Người trong máy bộ đàm thoáng ngập ngừng:
- Kẻ gọi đến vẫn đang giữ máy, thưa chỉ huy.
Olivetti trông như bị điện giật:
- Hắn vẫn đang giữ máy?
- Vâng. Trong vòng 10 phút vừa qua chúng tôi đã cố gắng lần theo dấu vết của hắn, nhưng chỉ càng rối thêm. Hắn biết chúng ta không thể tìm được hắn nên khăng khăng đòi nói chuyện với Giáo chủ Thị thần. Hắn nhất định không chịu gác máy.
- Nối máy cho hắn đi, - Giáo chủ Thị thần ra lệnh. - Ngay lập tức!
Olivetti thương lượng.
- Thưa cha, đừng làm thế. Việc này nên để cho một người lính gác Thuỵ Sĩ được đào tạo bài bản xứ lý thì tốt hơn ạ.
- Ngay lập tức!
Olivetti đành tuân lệnh.
Một lát sau, điện thoại trên bàn Giáo chủ Thị thần Ventresca đố chuông. Giáo chủ Thị thần nhấn nút bật loa ngoài.
- Nhân danh Chúa, anh là ai?
Chú thích:
(1) Alleluia: Lạy Chúa cứu thế - Messiah (Bài hát ca ngợi Chúa).


***
Nguồn từ: http://chuyenhvt.net