1. Cao sơn lưu thủy



Click vào Play để̉ bắt đầ̀u nghe nhạc !
Nhấn Chuột Phải Và Chọn Save Target As Đề Download ca khúc này


Phổ cầm sớm nhất của nhạc khúc này cọ̀n được ghi trong “Thần kỳ bí phổ”. Giải thích về nhạc khúc này sách viết: “Cao sơn lưu thuỷ ban đầu chỉ có một đoạn, đến đời Đường nó được phân thành hai khúc nhạc giống nhau, không phân đoạn, đến đời Tống người ta mới phân Cao sơn thành 4 đoạn, lưu thuỷ thành 8 đoạn”. “Cao sơn lưu thuỷ” gắn liền với một giai thoại về mối tình tri âm tri kỉ giữa Sở Bá Nha và Chung Tử Kỳ.

Thời Xuân Thu ở nước Sở có người tên Bá Nha, họ Sở, vốn tinh thông âm luật, tài đánh đàn tuyệt kĩ hơn người. Nhưng Bá Nha luôn buồn rầu vì thấy mình vẫn chưa thể xuất thần diễn tả những cảm nhận về vạn vật. Khi sư phụ của ông biết điều đó đã đưa ông lên thuyền tới đảo Bồng Lai.

Ở nơi đây, Bá Nha được thấy vẻ hùng vĩ và tráng lệ của thiên nhiên, cảm nhận những đợt sóng dạt dào của biển lớn… Nghe những âm thanh lúc mạnh mẽ ồn ào, lúc nhẹ nhàng dịu dàng của sóng hòa lẫn với tiếng kêu của Hải Âu, bên tai Bá Nha như đang tấu lên khúc nhạc tuyệt vời của thiên nhiên. Ông lấy đàn và tự nhiên tấu lên khúc nhạc, những ý tứ dào dạt tuôn ra, dường như tất cả những huyền diệu của tự nhiên đã hòa vào trong tiếng đàn.

Thế nhưng không ai hiểu được âm nhạc của Bá Nha, vì vậy mà ông luôn cảm thấy vô cùng cô đơn, một nỗi lòng trầm tư không thể cùng ai chia sẻ.

Đến một đêm, Bá Nha trên thuyền đi ngắm cảnh núi sông, thấy trăng thanh gió mát lòng ông lại tràn đầy cảm xúc. Khi tấu đàn lên, những âm thanh mượt mà, du dương như tràn ngập cả không gian huyền diệu. Bỗng nhiên Bá Nha cảm thấy có người đang nghe tiếng đàn của mình, nhìn quanh chỉ thấy một tiều phu đứng bên núi liền mời lên thuyền.

Sau khi Bá Nha tấu khúc nhạc ca ngợi vẻ đẹp của non cao (”cao sơn”), người tiều phu nói: “巍巍乎志在高山” (Phiên âm: “Nguy nguy hồ chí tại cao sơn”. Tạm dịch: “Vòi vọi tựa núi cao”)

Bá Nha lại tấu khúc nhạc diễn tả những ngọn sóng lớn đuổi nhau ào ạt xô bờ (”lưu thủy”), người tiều phu lại bình: “洋洋乎志在流水” (Phiên âm: “Dương dương hồ chí tại lưu thủy”. Tạm dịch: “Cuồn cuộn như nước chảy”)

Bá Nha xúc động nói: “Đây thực là tri âm của ta!” Người tiều phu đó chính là Chung Tử Kì.

Khi Tử Kì lâm bệnh chết, Bá Nha chỉ gẩy đàn thêm một lần duy nhất trước mộ người tri âm rồi đập đàn vào tảng đá, không bao giờ cầm đến cây đàn nữa.

Ngay từ thời Xuân Thu Chiến Quốc(thế kỉ 4 tr.CN), Liệt Ngự Khấu, người nước Trịnh, trong Thang vấn, sách Liệt Tử có ghi rằng:

“Bá Nha chơi đàn tuyệt hay, Chung Tử Kỳ nghe đàn càng giỏi. Bá Nha chơi đàn, chí tại núi cao, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay! vời vợi tựa Thái sơn’. Chí để nơi dòng nước chảy, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay! mênh mang như sông nước’. Bất luận là chí tại cao sơn hay chí tại lưu thuỷ, Bá Nha trong mỗi khúc nhạc đều biểu hiện chủ đề hoặc ư tưởng của mình, nhờ đó Chung Tử Kỳ có thể lĩnh hội được ý tứ đó. Nghe nhạc vốn dĩ là cảm cái khúc ý mà người chơi gửi gắm, đạo lý này vốn dĩ đă có từ ngàn xưa vậy.

Một ngày, Bá Nha cùng Chung Tử Kỳ chơi núi Thái sơn, gặp trời mưa to, hai người dừng lại dưới một mỏm núi đá. Bá Nha trong tâm phiền muộn bèn tấu một khúc nhạc. Khúc nhạc ban đầu biểu hiện cảnh mưa rơi xuống một dòng suối trên núi, tiếp đó khúc nhạc mô phỏng âm thanh của nước lên cuồn cuộn cùng đất đá đổ nát. Mỗi khúc nhạc vừa hoàn thành, Chung Tử Kỳ đều ngay lập tức nói ngay được ý tứ mỗi bài. Bá Nha thấy thế bỏ đàn mà rằng: “Giỏi thay! Các hạ có thể nghe thấu cái chí thú trong khúc nhạc, ý của các hạ cũng là ý của ta vậy”. Từ đó hai người trở thành một cặp nhân sinh tri kỷ mà đời sau vẫn ca ngợi.

Nhưng mà sách Liệt Tử hoàn toàn không nói tới chuyện Bá Nha vì Chung Tử kỳ mất mà từ đó không bao giờ chơi đàn nữa.

Vào khoảng thế kỷ thứ III tr.CN sách Lã Thị Xuân Thu, thiên Bản vị cũng ghi lại câu chuyện tương tự:

“Bá Nha chơi đàn, Chung Tử Kỳ nghe. Đàn chơi mà chí để tại Thái sơn, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay tiếng đàn! Cao cao như núi Thái Sơn’. Khi chí để nơi dòng nước chảy, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay tiếng đàn! Mênh mang như nước chảy’. Chung Tử Kỳ chểt, Bá Nha quẳng đàn dứt dây đến tận cuối đời không chơi đàn. Từ đó trên nhân thế không có ai có thể gọi là cầm giả nữa”.
Lã Thị Xuân Thu nhìn chung giống với sách Liệt Tử, chỉ khác kểt cục này: sau Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha “đến cuối đời không chơi đàn nữa”. Lã Thị Xuân Thu tuy không phải là một cuốn sử có độ xác tín cao, nhưng so với Liệt Tử trước đó thì nội dung không phải là hoàn toàn vô căn cứ. Vì thế chuyện Bá Nha vì Tử Kỳ mà không chơi đàn nữa đă trở thành một câu chuyện đẹp được lưu truyền.

Bá Nha lúc sinh thời là một người nổi tiếng. Tuân Huống (tức Tuân Tử) trong thiên Khuyến học cũng từng đề cập đến Bá Nha: “Cổ nhân chơi đàn thì cá cũng phải ngoi lên nghe, Bá Nha chơi đàn thì sáu ngựa dừng ăn”. Tuy lời lẽ có vẻ khoa trương nhưng tài năng của một đại âm nhạc gia như Bá Nha là không thể nghi ngờ.

Sau sách Liệt Tử và Lã Thị Xuân Thu, đời Tây Hán có Hàn Thi ngoại truyện, Hoài Nam Tử, Thuyết Uyển, Đông Hán có Phong tục thông nghĩa, Cầm tháo, Âm phủ giải đề… đều viện dẫn câu chuyện này. Trong các tác phẩm này đều miêu tả Bá Nha với nội dung hết sức phong phú.

Thí dụ như Sái Ung đời Đông Hán trong sách Cầm Tháo viết câu chuyện Bá Nha bái sư học thủ pháp “di tình” của cổ cầm.

Đến đời nhà Minh, Phùng Mộng Long trong phần khai quyển thiên thứ nhất là “Du Bá Nha suất cầm tạ tri âm”. Trong thiên tiểu thuyết này Bá Nha trở thành nhạc quan Du Bá Nha còn Chung Tử Kỳ trở thành tiều phu ở đất Hán Dương. Từ một điển tích thời cổ hơn trăm chữ đến đây từ nhân vật, địa điểm, đến tình tiết nhất nhất đều đã trở thành một thoại bản tiểu thuyết.

Cao sơn lưu thuỷ luôn gắn liền với thiên cổ giai thoại về Bá Nha và Chung Tử Kỳ. Nó có thể lưu truyền hơn hai nghìn năm cũng là nhờ nó đã dung hội được những phẩm chất tinh túy của văn hoá Trung Hoa. Đoạn giai thoại kể trên có thể nói là thể hiện được đầy đủ nhất văn hoá tinh thần về “thiên nhân hợp nhất, vật ngã lưỡng vong” của người Trung Quốc cổ đại.

Vào đời Minh, Chu Quyền Thành trong sách Thần kỳ bí phổ đối với câu chuyện này đã giải thích rất kỹ: “Hai khúc Cao sơn, lưu thuỷ vốn chỉ là một khúc. Ban đầu chí để nơi núi cao, ý nói người nhân vui ở núi. Sau đó chí để tại dòng nước chảy, ý nói kẻ trí vui ở sông nước” (”Nhân giả lạc sơn, trí giả lạc thuỷ”)

Cao sơn lưu thuỷ đã ẩn chứa sự mênh mang của trời đất cũng như hồn cốt của sông núi, có thể nói đã đạt được cảnh giới tối cao của việc biểu hiện những chủ đề cổ nhạc Trung Quốc. Nhưng mà bản thân khúc nhạc Cao sơn lưu thuỷ của Bá Nha hoàn toàn không được lưu truyền hậu thế, người đời sau không hề được lĩnh hội cách xử lý tuyệt diệu của Bá Nha trong khúc nhạc. Sở dĩ người đời sau không ngớt lưu truyền câu chuyện đằng sau Cao sơn lưu thuỷ hoàn toàn là dùng tâm mà hướng đến khúc nhạc.

Giai thoại này được lưu truyền nguyên nhân trực tiếp là vì mối tình tri âm tương tri, tương giao giữa hai người. Tri âm đã mất, Bá Nha đương nhiên đoạn huyền, tuyệt âm. Nhạc Phi trong Tiểu trùng san chỉ một từ “Người tri âm thực ít, đàn không đứt thì biết lấy ai nghe” đã phản ánh chính xác tâm trạng của Bá Nha lúc bấy giờ.

Việc quẳng đàn của Bá Nha thể hiện rất rõ chí của ông ta. Thứ nhất là việc làm thể hiện sự tôn trọng đối với người bạn đã mất, thứ nữa là vì tuyệt học của chính mình người đời không ai có khả năng lĩnh hội được mà biểu hiện sự buồn khổ và cô độc. Nghĩ như thế thì Bá Nha tất là người thị tài ngạo vật, trác tuyệt khác người, khúc nhạc của Bá Nha là cao khúc nhưng cũng vì thế mà cô độc, phàm phu tục tử không thể lĩnh hội được sự linh diệu của nhạc khúc. Bá Nha vì cảm thấy thấu đáo sự cô độc, vì phát hiện ra rằng tri âm nơi trần thế thực khó tìm mà nhất thời cảm khái.

Cao sơn lưu thuỷ sở dĩ được các chư tử thời Xuân thu chiến Quốc nhiều lần ghi chép là vì bối cảnh của văn hoá sĩ đương thời.

Thời Tiên Tần là giai đoạn bách gia tranh minh, nhân tài rất nhiều. Rất nhiều kẻ sĩ thời đó quan niệm rất đơn giản, hoàn toàn không nhất thiết phải trung với nước chư hầu mình sinh sống. Việc lưu động kẻ sĩ giữa các nước nhiều không kể xiết, họ luôn mong ngóng sự tri ngộ của bậc minh chủ. Họ hy vọng có thể gặp được người tri âm như mình, có thể hiểu được mộng vương công chư hầu của mình, từ đó mà phát huy sở học của mình. Đó chính là mơ ước suốt mấy ngàn năm của người đọc sách.

Nhưng mà có thế đạt được mục tiêu ấy có mấy người? Hầu hết họ đều một đời uổng phí tài năng không gặp được tri âm mà hoàn toàn vô danh, cũng có người ẩn thân nơi chợ nghèo, người thì đợi già chốn sơn lâm.

Từ đó có thể thấy, Cao sơn lưu thuỷ được lưu truyền rất rộng thời Tiên Tần chính vì điển tích phía sau nó ngụ ý một cuộc gặp gỡ kỳ diệu của đời người, cũng là sự bộc lộ sự oán trách thế nhân bạc bẽo, ngu dốt không biết đến nhân tài. Sở dĩ hàng nghìn năm sau nó vẫn khơi gợi được tiếng nói chung của không ít người cũng chính ở những tình cảm trong đó.

Bản “Cao sơn lưu thủy” lưu truyền ngày nay chủ yếu là bản do Xuyên Phái đời Thanh gia công và phát triển, được Đường Di Minh đời nhà Thanh ghi lại trong “Thiên văn các cầm phổ” (năm 1876). Ông đã hết sức phát huy các thủ pháp cổn, phất, xước, chú khiến hình tượng núi cao, nước chảy thêm rạng rỡ, nên mới có danh xưng “Thất thập nhị cổn phất lưu thủy”.

Bản nhạc này được phân thành 9 đoạn và một vĩ thanh, cụ thể là 4 bộ phận lớn: khởi, thừa, chuyển, hợp.

Phần khởi (đoạn 1 đến đoạn 3), thông qua giai điệu thâm trầm, hồn hậu, uyển chuyển và âm bội sáng rõ, đã biểu hiện được những cảnh tượng kì diệu của núi cao trùng điệp, suối chảy khe sâu một cách rõ ràng, tươi sáng.
Phần thừa (4 và 5), dàn trải không dứt, giai điệu đậm màu sắc ca hát, giống như những giọt nước chảy trong khe suối tập hợp thành dòng nước mạnh.
Phần chuyển (6 và 7), nhờ vào khúc điệu có thứ tự bội âm đi xuống và âm giới của 5 thanh đi lên, âm hóa với xung động mạnh, kết hợp với các thủ pháp cổn, phất, như một dòng thác chảy ào ạt xuống, dồn vào sông biển cuộn trào sóng lớn.
Phần hợp (đoạn 8 và vĩ thanh), vận dụng một phần âm điệu của phần thừa và phần chuyển tạo thành hiệu quả hô ứng, tạo nên dư âm như sóng trào trên sông biển, khiến người nghe có thể cảm nhận dư vị hết sức ngỡ ngàng và thú vị.
Thời nhà Đường, “Cao sơn lưu thủy” phân ra thành hai khúc, không phân đoạn.

Đến thời Tống lại phân cao sơn thành 4 đoạn, lưu thủy thành 8 đoạn, thiên về lưu thủy, khiến cho người nghe có cảm giác biển lớn đang vỗ sóng bên tai, âm vang mãi không thôi.
Nguồn từ: http://chuyenhvt.net