Chào các bạn,

ChuyenHVT.net thành lập 2005 - Nơi lưu trữ rất nhiều kỉ niệm của các thế hệ học sinh trong hơn 15 năm qua. Tuy chúng mình đã dừng hoạt động được nhiều năm rồi. Và hiện nay diễn đàn chỉ đăng nhập và post bài từ các tài khoản cũ (không cho phép các tài khoản mới đăng ký mới hoạc động). Nhưng chúng mình mong ChuyenHVT.net sẽ là nơi lưu giữ một phần kỉ niệm thanh xuân đẹp nhất của các bạn.


M.

Trang 1 của 2 12 CuốiCuối
Kết quả 1 đến 15 của 16

Chủ đề: Giải mã các hiện tượng dị thường

  1. #1
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định Giải mã các hiện tượng dị thường

    Giải mã các hiện tượng dị thường
    Đại tá, nhà nghiên cứu Đỗ Kiên Cường, Viện Vật lý Y Sinh học - Trung tâm Khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự - Bộ Quốc phòng


    Tác giả bài viết - tiến sĩ Đỗ Kiên Cường là một nhà khoa học. Ông có cái nhìn tổng hợp, khoa học, tỉnh táo, khách quan soi rọi những hiện tượng đã và đang được xã hội quan tâm, tranh luận, phản biện quyết liệt.

    Đến nay chúng ta có nhiều diễn giải khác nhau về các hiện tượng dị thường và do chưa có giải thích cuối cùng, thỏa đáng nên còn tồn tại rất nhiều cách giải thích đối chọi nhau, mỗi người mang một niềm tin, một lý giải riêng. Xuyên suốt loạt bài, tác giả Đỗ Kiên Cường bằng quan điểm khoa học hiện đại đã trình bày thực trạng, các định hướng giải thích vả giả thuyết khoa học hiện nay. Tất nhiên, cách lý giải khoa học cũng có những giới hạn, hạn chế và không hẳn thỏa mãn hiểu biết của chúng ta...

    Mục lục

    Kỳ 1: Luân hồi - Huyền thoại và sự thật
    Kỳ 2: Niềm tin vào các chuyện lạ
    Kỳ 3: Ủy ban điều tra khoa học các tuyên bố dị thường
    Kỳ 4: Các hiện tượng dị thường là gì?
    Kỳ 5: Khả năng tiên tri qua hai trường hợp điển hình
    Kỳ 6: Chiêm tinh học
    Kỳ 7: Khả năng dự báo của kinh dịch
    Kỳ 8: Thần giao cách cảm có thật hay không?
    Kỳ 9: Truyền thuyết Tam giác quỷ Bermuda
    Kỳ 10: Về Uri Geller, nhà tâm linh “lừng danh thế giới”!
    Kỳ 11 Ngoại cảm qua một trường hợp điển hình (P1)
    Kỳ 12: Bản chất hiện tượng phân thân qua lên đồng (P2)
    Kỳ 13: Ngoại cảm của một trường hợp điển hình (P3)
    Kỳ 14: Trị liệu tâm linh
    Kỳ 15: Ma nhập
    Kỳ 16: Kinh nghiệm cận kề cái chết
    Kỳ 17: Bí ẩn của vật thể bay không xác định (P1)
    Kỳ 18: Bí ẩn của vật thể bay không xác định (P2)
    Kỳ 19: Bí mật của thôi miên
    Kỳ 20: Hé mở bí mật khí công
    Kỳ 21: Bí mật của xuất hồn – thoát xác
    Kỳ 22: Thực chất của viễn di sinh học
    Kỳ 23: Người tự cháy
    Kỳ 24: Bí ẩn các nhà du hành vũ trụ cổ
    Kỳ 25: Lợi ích của Thiền
    Kỳ 26: Bí ẩn những giấc mơ tiên tri
    Kỳ 27: Thực chất của "Gọi vong người chết"
    Tổng kết loạt bài giải mã các hiện tượng dị thường

    Kỳ 1: Luân hồi - Huyền thoại và sự thật

    Luân hồi là niềm tin phổ biến trong nhiều nền văn hóa từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim. Nó cho rằng con người có thể sống không chỉ một mà nhiều kiếp, mỗi kiếp cần một cơ thể mới. Vì thế nó thường gắn với các hiện tượng như mượn xác hay đầu thai. Nó có thể đi kèm hay không đi kèm với quan niệm linh hồn bất tử, tức sự tồn tại sau cái chết.

    Cần nhấn mạnh rằng, không chỉ người dân, mà hiện nay không ít nhà khoa học cũng tin là có linh hồn. Điều đó thực ra không lạ, khi lưu ý rằng, linh hồn bất tử là ước nguyện rất tự nhiên của con người, vì đó chính là cách thức cuối cùng để con người bớt sợ hãi trước cái chết.

    Một số trường hợp điển hình

    Ngày 19/7/1985, cô gái Ấn Độ 17 tuổi Sumitra chết và gia đình đang chuẩn bị an táng. Bỗng nhiên cô sống lại, tự xưng là Shiva và không biết một ai xung quanh. Cô nói cô mượn xác Sumitra để sống lại.

    Shiva là một phụ nữ 22 tuổi chết hai tháng trước. Thi thể cô tìm thấy trên đường tàu hỏa với nhiều vết thương trên đầu. Được đưa về gia đình Shiva, Sumitra nhận ra người thân, bạn bè, láng giềng, đồ vật cá nhân; viết đúng nét chữ và văn phong Shiva, trong khi Sumitra vốn không biết chữ! Quan niệm luân hồi rất phổ biến tại Ấn Độ, nên nhà Shiva tuyên bố Sumitra đúng là con gái họ vừa từ cõi chết trở về.

    Năm 1956 cuốn Truy tìm Bridey Murphy của nhà thôi miên Mỹ Morey Berstein được ấn hành, viết về bà Ruth Simmons với biệt danh Virginia Tighe. Khi được thôi miên, Tighe nhập về kiếp trước ở Ireland thế kỉ 19. Khi đó bà nói thứ tiếng Ireland nặng và mô tả chính xác cuộc sống hằng ngày của tầng lớp bình dân thời đó. Bà gọi tên người bán tạp phẩm, cha cố, dân làng, người thân thích và cũng biết nhảy một vũ điệu địa phương. Cuốn sách trở thành best-seller và được dựng thành phim. Dân chúng tổ chức các buổi dạ tiệc về “kiếp trước”. Một chú bé ở Shaunee, Oklahoma, tự sát bằng súng vì muốn tự mình khám phá sự thật.

    Tranh cãi về nghiên cứu của Stevenson

    GS tâm thần Ian Stevenson, ĐH Virginia, Mỹ, là người tiên phong trong nghiên cứu luân hồi. Từ hàng ngàn tư liệu, ông chọn ra các trường hợp tiêu biểu và xuất bản cuốn Hai mươi trường hợp gợi ý về luân hồi, cho rằng luân hồi có thể có thật.

    Các nhà khoa học không đồng ý với Stevenson. Trên tạp chí Người yêu cầu nghi ngờ năm 1994, của Ủy ban điều tra khoa học các tuyên bố dị thường (nay đổi thành Ủy ban yêu cầu nghi ngờ), Leonard Angel khảo sát trường hợp luân hồi điển hình nhất của Stevenson và kết luận, nó thất bại trong sáu đặc trưng căn bản của luân hồi. Nhà triết học Paul Edwards, 2002, xem các bằng chứng của Stevenson mang tính giai thoại.

    Phản bác mạnh nhất là lập luận không có bằng chứng về các quá trình vật chất mà nhờ chúng, một nhân cách có thể tồn tại sau cái chết và được “cấy” vào một cơ thể khác. Chính Stevenson, với tư cách nhà khoa học, cũng nhận thấy hạn chế này khi trả lời phỏng vấn trên BBC (vì mọi quá trình tư duy, nhận thức, tình cảm... liên quan với “linh hồn” đều dựa trên các quá trình vật chất cụ thể trong bộ não). Một phản bác khác là tại sao chúng ta không nhớ kiếp trước của mình, nếu luân hồi là sự thật? Trước phản bác hợp lý này, có ý kiến cho rằng, luân hồi không dành cho tất cả mọi người, mà chỉ dành cho những cái chết bi thảm mà thôi. Vậy tại sao những người tài cao đức trọng nhưng chết yên bình thì không được luân hồi, mà một kẻ xấu xa lại có thể được ban đặc ân, miễn là chết đuối hoặc nhảy lầu?

    Một số nhà khoa học cho rằng, bằng chứng luân hồi là kết quả của kí ức chọn lọc, trí nhớ sai hay một số hiện tượng tâm lý đặc biệt như đa nhân cách, nhân cách phân ly và kí ức ẩn giấu.

    Đa nhân cách, nhân cách phân ly và ký ức ẩn giấu

    Đa nhân cách là rối loạn tâm thần hiếm gặp, với chỉ hơn 200 trường hợp trên y văn thế giới được phát hiện trong 100 năm qua. Hội chứng được dư luận chú ý đầu tiên vào năm 1957, do tác phẩm Ba khuôn mặt của Eve của hai nhà tâm thần Thigpen và Cleckley về một nữ bệnh nhân có ba nhân cách là Eve trắng, Eve đen và Jane. Trong ba nhân cách thì hai Eve thường cãi nhau, còn Jane đóng vai hòa giải! Sau điều trị, người phụ nữ lấy lại được nhân cách gốc của mình. Tờ Thời báo New York ngày 11/3/1994 đăng tải bài viết về một người đàn ông có 11 nhân cách, trong đó 8 nhân cách tuyên bố biết một số chi tiết của một vụ án. Vì thế quan tòa thẩm tra xem lời khai của từng nhân cách có khớp với nhau và với vụ án hay không.

    Các nhân cách có thể nổi lên lần lượt hay đồng thời. Đó là lý do một cô gái bỗng tự xưng là một thanh niên hoàn toàn khác, dân gian gọi là “ma nhập”. Dễ bị nhập nhất là người thần kinh yếu ớt và lúc nhỏ bị ngược đãi. Ngoài ra là người ưa thích và có khả năng phân thân. Vì thế các nghệ sĩ duy cảm dễ lên đồng, xuất hồn hay bị ma nhập hơn giới khoa học duy lý.
    Nhân cách phân ly là khi người bệnh khăng khăng xem mình là người khác, như một cách thoát ly khỏi thực tế không mong muốn. Nếu trong đa nhân cách, một người có thể vào vai hàng chục nhân cách khác nhau, thì trong nhân cách phân ly, thường chỉ có hai nhân cách (nhân cách gốc và nhân cách phân ly) mà thôi. Đa nhân cách và nhân cách phân ly thường gắn với các hiện tượng như cầu hồn, thoát xác, ma nhập, đầu thai hay luân hồi.

    Ký ức ẩn giấu là hiện tượng tâm lý đặc biệt, khi ta nhìn, nghe, đọc hay thu nhận được một số thông tin mà không biết là ta đã biết chúng. Vì không biết nên chúng ẩn giấu trong vô thức (hay vì ẩn giấu nên ta không biết). Thuật ngữ xuất hiện do một nhà tâm lý Canada thôi miên để người bệnh nhớ về “kiếp trước”. Dưới thôi miên, người bệnh viết và nói một thứ tiếng xa lạ, mà khi tỉnh lại anh không biết nó là gì và từ đâu ra. Các nhà nghiên cứu kết luận đó là Oscan, tiền thân của tiếng Latin. Mãi sau mới biết rằng, khoảng một năm trước, trong thư viện, người bệnh ngồi bên một người đang nghiên cứu một văn bản cổ bằng tiếng Oscan. Chỉ một thoáng nhìn ở mức vô thức, do kí ức ẩn giấu mà người bệnh biết thứ ngôn ngữ tối cổ đó!

    Lý giải các bằng chứng luân hồi

    Hiện nay, hầu hết bằng chứng luân hồi đều dựa trên lời kể của các em bé. Báo chí phương Tây từng nhắc tới những em bé chỉ vài ba tuổi nhưng có thể kể đúng một số chi tiết đời tư hay tính cách của các vị Lạt ma Tây Tạng quá cố, khiến nhiều người xem đó là bằng chứng của luân hồi.

    Khoa học lại đưa ra cách giải thích khá đơn giản về nguyên lý. Đầu tiên, do hiện tượng đa nhân cách hay nhân cách phân ly mà em bé đóng vai người khác, chứ không phải kiếp trước của em là một Lạt ma hay “linh hồn” của vị đó đang “nhập” vào em. Trong lúc đang thế vai, một số động tác, lời nói, cách ăn ngủ, chơi bời... của em có thể ngẫu nhiên phù hợp với hành vi của một người đã chết nào đó. Với những ai tin tưởng luân hồi, đó chính là bằng chứng của sự đầu thai!

    Thêm nữa, có thể thông tin về người chết đã được kể trước mặt em, và vô thức của em nắm bắt được qua ký ức ẩn giấu. Lớn lên một chút, thông tin phát lộ ở ý thức, giúp em có thể kể lại, lúc đúng lúc sai. Và hiện tượng ký ức chọn lọc của môn tâm lý sẽ giúp ta chỉ nhớ những thông tin đúng mà quên hết mọi thông tin sai để đi đến kết luận, em bé chính là kết quả của sự luân hồi.

    Vậy tại sao em bé “đầu thai” có thể phân biệt được người thân, nhà cửa hay đồ chơi của người khác? Đó là do hiệu ứng Hans thông minh, tức đọc ám hiệu từ ngôn ngữ cơ thể của người xung quanh (ngựa Hans đầu thế kỉ 20 tại Berlin “biết làm toán” do đọc ngôn ngữ cơ thể người đối diện). Vì quá mong muốn người chết sống lại qua luân hồi, nên gia đình tạo nhiều ám hiệu chủ ý và không chủ ý. Bắt được các gợi ý, em bé “đầu thai” có thể vượt qua mọi thử thách (thực ra là đơn giản) của một gia đình đang xúc động. Và chắc chắn em sẽ thành công khi phát ra tín hiệu được mong đợi: con chính là người mà cha mẹ đang cần.

    Tại sao thường chỉ em bé dăm ba tuổi mới “luân hồi”, còn khi lớn hơn thì ít quan tâm tới “kiếp trước”? Nhỏ hơn độ tuổi này, nhân cách chưa hình thành nên không thể “phân ly nhân cách” để đóng vai người khác. Lớn hơn độ tuổi này, nhân cách gốc ngày càng vững, nên bé khó hay không muốn thế vai nữa.

    Về những trường hợp nêu trên TT&VH

    Các hiện tượng tâm lý đã nêu có thể áp dụng cho mọi trường hợp luân hồi, chứ không chỉ cho ba trường hợp trên TT&VH. Bé Bình - Tiến nói đúng chuyện chết đuối và “mẹ em làm nghề đánh đánh như thế này này” (đánh máy) chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Hàng ngàn em bé khác nói và hành động như thế hằng ngày, nên nếu vài em tạo nên sự chú ý thì cũng không lạ. Do nhân cách phân ly mà Bình đóng được vai Tiến, với những chỉ dẫn chủ ý và không chủ ý của bố mẹ Tiến. Việc biết đường đi, nhận ra nhà... là do hiệu ứng Hans thông minh. Một chú ngựa còn biết làm toán hay biết ai là Tổng thống Mỹ, tại sao một em bé “đầu thai”, vốn rất nhạy cảm để có thể đóng vai người khác, lại không biết cần phải làm gì để cả người lớn và bản thân đều hài lòng?
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

    Các bài viết cùng chuyên mục:

    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  2. Đã có 2 người nói lời cảm ơn.


  3. #2
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Kỳ 2: Niềm tin vào các chuyện lạ

    Năm 1997, tuần báo Time đưa ra số liệu thăm dò tại Mỹ, quốc gia dẫn đầu thế giới về công nghệ. Trong số những người được thăm dò ngẫu nhiên qua điện thoại, 81% tin thiên đường có thật, trong lúc chỉ 16% không tin; 63% tin có địa ngục so với 30% không tin. Trả lời câu hỏi: Điều gì xảy ra sau khi chết?, 61% tin là được lên thiên đường, 5% tin sẽ luân hồi, 4% cho rằng đó là dấu chấm hết và 1% sợ bị đầy xuống địa ngục. Như các con số đã thể hiện, ở đây đức tin cảm xúc đạt tới tỷ lệ 70%, trong khi sự tường minh trí tuệ chỉ có 4%!


    Uri Geller: Nhìn cong thìa - tâm linh hay ảo thuật?

    Những thăm dò gần đây cũng cho kết quả tương tự. Chẳng hạn kết quả của Gallup năm 2005 cho thấy, 73% số người được hỏi tin ít nhất một trong mười hiện tượng lạ. Trong đó 41% tin ngoại cảm có thật; 37% tin có những ngôi nhà bị ma ám; 25% tin thuật chiêm tinh; 20% tin có luân hồi; và đặc biệt vẫn có tới 21% số người tin phù thủy có thật! Nghiên cứu đối tượng trên toàn thế giới qua mạng của Đại học Monash, nước Úc, năm 2006 cũng cho thấy, 70% tin có các hiện tượng không giải thích được làm thay đổi cuộc đời của họ, thường là theo hướng tích cực; 80% tin có linh cảm và 50% tuyên bố đã gặp kiếp trước của chính mình. Điều đáng quan tâm là các kết quả đó bền vững với thời gian, cho dù khoa học ngày càng phát triển, giúp con người khám phá nhiều bí ẩn của tự nhiên.

    Lý giải như thế nào?

    Đứng trước thực tế đó, các nhà khoa học đã cố gắng đưa ra nhiều cách lý giải. Chẳng hạn trong cuốn Vũ trụ nghệ thuật, do đại học danh tiếng Oxford (Anh) ấn hành năm 1995, nhà thiên văn nổi tiếng John Barrow cho rằng, hệ quả âm tính của việc trông gà hóa cuốc, tưởng có sư tử ở một nơi không có, là rất nhỏ (mất chút công sức đi đường vòng để tránh) so với việc không nhìn thấy khi nó có thật (có thể bị sư tử ăn thịt). Nói cách khác, có thể có hoặc không có ma quỷ, với người nguyên thủy, đó là một thách đố không có lời giải. Vậy tốt nhất là cứ tin nó có thật và tổ chức thờ cúng, còn hơn không tin mà nó có thật thì nguy to. Theo Barrow, đây chính là căn nguyên mang tính sinh tồn của sự mê tín.

    Còn theo cố thiên văn gia Carl Sagan thuộc Đại học Cornell (Mỹ), cha đẻ chương trình tìm kiếm các nền văn minh trong vũ trụ SETI, trong cuốn Thế giới quỷ ám - Khoa học như ngọn nến trong bóng tối, năm 1996, thì ngay cả ma quỷ cũng không đáng sợ bằng nỗi sợ hãi không tên; vì thế người ta cứ thích tin vào ma quỷ.

    Hai nhà tâm lý Singer và Benassi thì cho rằng, việc thừa nhận thế giới huyền bí giúp con người có cảm giác làm chủ số phận tốt hơn. Bằng cách đó họ giảm được sự bất định của cuộc sống, ít nhất trong tâm tưởng. Vì thế khi có một “lý thuyết” giản đơn cho phép biết trước tương lai vốn không thể biết trước, chúng ta có xu hướng tin theo một cách không phê phán. Đó chính là nhu cầu qui hoạch trong một vũ trụ không thể qui hoạch, một nhu cầu rất con người và rất chính đáng! Vì thế chúng ta tin tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, tướng số... mà không hề băn khoăn xem chúng có đúng hay không. Các kết luận đó được đưa ra sau một nghiên cứu năm 1981, khi hai ông bố trí một nhà ảo thuật trình diễn trước hai nhóm sinh viên tâm lý đại cương. Một nhóm được thông báo trước rằng, đó là một nhà tâm linh có các khả năng “kỳ diệu” như nhìn cong thìa hay làm đồ vật biến mất; trong khi nhóm còn lại biết trước rằng, đó chỉ là sự khéo tay. Sau buổi trình diễn, hai phần ba số sinh viên thuộc nhóm thứ nhất tin rằng, đó chính là khả năng tâm linh huyền diệu. Tuy nhiên, hai nhà khoa học rất ngạc nhiên khi thấy, hơn một nửa số sinh viên thuộc nhóm thứ hai, dù biết trước đó chỉ là ảo thuật, vẫn khẳng định rằng, đó không phải là ảo thuật, mà là “tâm linh”!

    Và không nên quên rằng với người nguyên thủy, nhìn đâu cũng thấy thánh thần và ma quỷ. Cái nhìn đó đã lặn sâu vào vô thức để trở thành bản chất con người. Nói cách khác, niềm tin vào sự huyền bí, như loạt bài phản ánh hiện tượng luân hồi vừa đăng trên TT&VH, chính là nhu cầu của con người và được quyết định từ bản năng sinh tồn, từ bản chất bên trong của con người. Khoa học chỉ như ngọn nến trong bóng tối (lời Sagan), nên rất khó đẩy lùi xu hướng đó.

    Cũng không nên quên nhu cầu giải trí của công chúng và sức ép đối với giới truyền thông. “Đuôi một con cá” không phải là tin, nhưng “Quái vật hồ Loch Ness” thì đích thị là một tin mà đa số chúng ta đều muốn nghe. Chúng ta ai chẳng thích xem cảnh David Copperfield bay lượn trong không trung hơn cảnh một vị giáo sư khẳng định, điều đó trái với qui luật tự nhiên? Vì thế khi các nhà khoa học Mỹ lập một kênh truyền hình để giải thích các hiện tượng lạ bằng khoa học vào năm 1988, thì chỉ sau ba buổi phát sóng, họ phải đóng kênh vì không có người xem. Trong khi đó, hàng chục kênh chuyên kể chuyện lạ thì phát sóng năm này qua năm khác mà không bao giờ sợ thiếu người ngồi lì trước ti vi và xem chăm chú!

    Cũng có người cho rằng, vì khoa học hiện hành không thể lý giải mọi hiện tượng tự nhiên, nên nhiều hiện tượng lạ cũng có thể nằm ngoài sự giải thích của khoa học. Người viết bài này thì cho rằng, ngoài các lý do kể trên, nguyên nhân chủ yếu của niềm tin vào sự huyền bí nằm ở bí ẩn của bộ não, cấu trúc phức tạp nhất tự nhiên. Bộ não phức tạp đến mức, số khả năng kết mạng của các tế bào thần kinh - yếu tố quyết định khả năng tư duy và nhận thức - lớn hơn tổng số hạt cơ bản có trong toàn vũ trụ. Vì thế có lẽ bộ não và tâm trí mãi mãi là những bí ẩn không thể lý giải được đến tận cùng. Và đó có thể là lý do tồn tại vĩnh hằng của nghệ thuật hay tôn giáo, cũng như của niềm tin vào sự huyền bí của con người.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  4. Đã có 2 người nói lời cảm ơn.


  5. #3
    Super Moderator LonelySoul's Avatar
    Ngày tham gia
    15-07-2007
    Tuổi
    36
    Bài viết
    2,784
    Cảm ơn
    1,149
    Đã được cảm ơn 817 lần ở 359 bài viết

    Mặc định

    Nông dân này ngày càng bác học rồi
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

  6. #4
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Kỳ 3: Ủy ban điều tra khoa học các tuyên bố dị thường

    Ủy ban điều tra khoa học các tuyên bố dị thường CSICOP (Committee for the Scientific Investigation for Claims of the Paranormal), nay đổi tên thành Ủy ban yêu cầu nghi ngờ CSI (Committee for Skeptical Inquiry), là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập năm 1976 tại Mỹ.

    Chính xác hơn, nó được thành lập ngày 30/4/ 1976 tại hội thảo quốc tế “Các trào lưu phi lý tính mới: phản khoa học và giả khoa học” tại ĐH quốc gia New York. Đây là phản ứng tự nhiên của cộng đồng khoa học đối với “cơn trào dâng” các hiện tượng mê tín mới và sự thừa nhận không phê phán các hiện tượng ngoại cảm và tâm linh (còn gọi là các hiện tượng psi) của dư luận Mỹ và một số nước phương Tây nửa cuối TK 20.

    Mục tiêu

    Tuyên bố của hội thảo do nhà triết học Paul Kurtz chấp bút, viết: “Hiện có sự quan tâm mạnh mẽ của dư luận đối với tâm linh, các hiện tượng huyền bí và sự giả khoa học. Truyền thanh, truyền hình, báo chí, sách, tạp chí thường xuyên đưa tin về trị liệu tâm linh, viễn di sinh học, sự bất tử, luân hồi, ảnh Kirlian, năng lượng sinh học, phẫu thuật tâm linh, trị liệu niềm tin, thuật chiêm tinh, vật thể bay không xác định, ma nhập, ma quấy rối, và “các tài năng” như Uri Geller, Edgar Cayce và Jeane Dixon”. Vì thế theo tuyên bố, xuất hiện xu hướng lành mạnh là tổ chức một chiến lược phản bác các quan điểm phản khoa học đó. Tuyên bố viết tiếp: “Với những ý nghĩ đó trong đầu, chúng tôi thành lập tổ chức tạm gọi là CSICOP (tên gọi sẽ được chỉnh sửa sau)”.


    James Randi bóc trần khả năng "bẻ cong thìa bằng ý nghĩ"

    Phương châm hành động của Ủy ban là không phản đối bất cứ hiện tượng lạ nào chỉ dựa trên định kiến hay tiền niệm, mà sẽ khảo sát chúng một cách cởi mở, hoàn chỉnh, khách quan và cẩn thận. Nhiều học giả lừng danh thế giới tham gia Ban điều hành Ủy ban, như Paul Kurtz (chủ tịch), Carl Sagan (cha đẻ chương trình tìm kiếm nền văn minh ngoài trái đất SETI bằng cách ghi sóng điện từ), Murray Gell-Mann (Nobel vật lý), Francis Crick (Nobel vì cấu trúc ADN), Stephen Jay Gould (tác giả thuyết tiến hóa hiện đại hóa), Richard Dawkins (nhà sinh học bác bỏ quan niệm về sự sáng tạo tối cao của nhiều nhà khoa học hàng đầu), Sergei Kapitza (nhà vật lý Nga đoạt giải Nobel), Skinner (cha đẻ thuyết hành vi của cảm xúc)... Bên cạnh đó là nhiều nhà hoạt động xã hội, nhà văn, nhà báo, nhà ảo thuật mà điển hình là James Randi,người đã thực hiện nhiều “hiện tượng tâm linh” chỉ bằng khả năng ảo thuật siêu hạng của mình. Hoạt động của Ủy ban bao gồm mọi hoạt động học thuật liên quan với các hiện tượng lạ như tổ chức nghiên cứu, đào tạo, xuất bản sách báo và tạp chí, hội thảo, tuyên truyền, phản biện... Tạp chí Người yêu cầu nghi ngờ ra hàng quí là nơi đăng tải các nghiên cứu gốc của Ủy ban, trong đó nhiều công trình đã trở thành tiêu chuẩn để đánh giá các hiện tượng psi.

    Một số nghiên cứu điển hình

    * Đọc nguội. Trong bài “Thuyết phục người lạ rằng bạn biết tất cả về họ như thế nào” (tập 1, số 2, 1977) nhà tâm lý Ray Hyman chứng tỏ rằng, giới tiên tri, bói toán, bói bài, bói chỉ tay, cũng như giới cầu hồn, gọi vong có thể thu được thông tin qua đọc ngôn ngữ cơ thể nhờ hiệu ứng Hans thông minh. Đây là công trình được trích dẫn nhiều nhất.



    Tạp chí Người yêu cầu nghi ngờ số 1-2/2006


    * Đi trên than hồng (số Thu 1985). Nhà vật lý Bernard Leikind và nhà tâm lý William McCarthy đi trên than hồng và thấy rằng, đó không phải nhờ “sức mạnh của tâm trí”, mà do nhiệt dung riêng thấp của loại than củi dùng trong thực hành (vì thế không ai đi trên sắt nung!).

    * Thuật chiêm tinh (số Đông 1986-1987 và số Xuân 1987). Nhà vật lý Geoffrey Dean khảo sát thuật chiêm tinh phiên bản thật (chứ không phải các phiên bản trên báo) và nhận thấy, tuy không đáp ứng các tiêu chuẩn khoa học, nhưng nó “không nhất thiết phải đúng”. Theo Dean, nó giống như “kẹo cao su tâm lý”, thỏa mãn nhu cầu nhai (tâm lý) chứ không cần có thật.

    * Thử nghiệm psi tại Trung Quốc (số Hè 1988). Đoàn đại biểu của Ủy ban được Trung Quốc mời nghiên cứu khí công và một số trẻ em có khả năng tâm linh. Mọi thử nghiệm đều cho kết quả âm tính. Dưới sự kiểm soát chặt chẽ, không một khí công sư nào tác động được tới các đối tượng ở phòng bên cạnh. Trẻ em thì không thể hiện được khả năng “tâm linh” khi sự lừa gạt bị ngăn ngừa. Và khả năng lại xuất hiện khi các điều kiện kiểm soát được gỡ bỏ.

    * Kinh nghiệm cận kề cái chết: Nhập hay thoát xác? (số Thu 1991). Nữ tiến sĩ tâm lý Susan Blackmore khảo sát kinh nghiệm cận tử bằng các tiếp cận hóa thần kinh, sinh lý và tâm lý. Bà giải thích thành công kinh nghiệm dị thường đó bằng các yếu tố khoa học.

    * Luân hồi (số Thu 1994). Leonard Angel khảo sát một trong 20 trường hợp luân hồi điển hình nhất của GS tâm thần học Stevenson và kết luận, nó thất bại trong sáu điểm căn bản đặc trưng cho luân hồi (Stevenson không đồng ý với phân tích).

    Vĩ thanh

    Ngoài Ủy ban trên (có sự tham gia của giới học thuật quốc tế), các tổ chức nghi ngờ cũng được thành lập tại nhiều nước. Ngoài các hoạt động học thuật thường qui, họ treo giải 200.000 euro mỗi nước cho bất cứ nhà ngoại cảm hay tâm linh nào thực hiện được khả năng của mình trong các thí nghiệm được thiết kế đặc biệt để ngăn ngừa sự rò rỉ thông tin qua các kênh cảm giác và sự lừa gạt. Cho đến nay chưa một ai nhận được các giải thưởng danh giá đó.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  7. #5
    Moderator thử việc kembong's Avatar
    Ngày tham gia
    26-06-2007
    Bài viết
    3,014
    Cảm ơn
    886
    Đã được cảm ơn 811 lần ở 415 bài viết

    Mặc định

    nốt đi chứ còn gì .mà sao cưng post ở box truyện ??
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    người điên thì không nhớ , người say thì không buồn

  8. #6
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Trích dẫn Gửi bởi kembongxjnh Xem bài viết
    nốt đi chứ còn gì .mà sao cưng post ở box truyện ??
    anh là mod box đọc truyện mà cưng,
    dạo này chẳng biết post truyện gì nên post mấy cái suy ngẫm và cái này chơi

    Kỳ 4: Các hiện tượng dị thường là gì?

    Các hiện tượng dị thường hay các hiện tượng lạ là tập hợp nhiều hiện tượng phức tạp, từ các chủ đề tín ngưỡng - tôn giáo (như thần thánh, ma quỉ, thiên đường, địa ngục…) cho tới các lý thuyết khoa học mới mà ban đầu người ta chưa hiểu nên bị xem là dị thường. Xin giới hạn chủ đề trong phạm vi đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học đang gây tranh cãi là cận (hay ngoại) tâm lý (parapsychology).

    Cận tâm lý là gì?

    Cận tâm lý là một lĩnh vực học thuật nghiên cứu một số hiện tượng bất thường liên quan với kinh nghiệm của con người, cũng thường được gọi là các hiện tượng tâm linh (psychic phenomena) hay psi. Phần lớn giới cận tâm lý hy vọng có thể giải thích chúng, cho dù phải mở rộng biên giới hiện hành của khoa học. Một số thì tin rằng, khoa học hiện tại đủ khả năng giải thích nếu không phải tất cả thì cũng phần lớn các hiện tượng dị thường.


    Nhà nghiên cứu và ảo thuật gia James Randi đang nghiên cứu
    bản Tiên tri năm 1671 của Nostradamus

    Ba nhóm hiện tượng là đối tượng của cận tâm lý: ngoại cảm (gồm thần giao cách cảm, thấu thị, tiên tri và hậu tri), viễn di sinh học hay tác động của tinh thần lên vật chất (chẳng hạn bẻ cong thìa bằng ý nghĩ) và các hiện tượng liên quan với sự tồn tại sau cái chết (như kinh nghiệm cận kề cái chết, xuất hồn hay thoát xác, luân hồi, ma nhập…). Chúng còn gọi là các hiện tượng psi, do hai nhà nghiên cứu Thouless và Weisner dùng lần đầu năm 1944, khi họ mượn chữ cái thứ 23 trong tiếng Hy Lạp như một thuật ngữ trung tính để mô tả các hiện tượng lạ.

    Các tiếp cận cơ bản

    Là một môn khoa học, cận tâm lý có 5 tiếp cận cơ bản: 1) Nghiên cứu kinh viện, khi thảo luận các chủ đề có tính triết học của cận tâm lý; 2) Nghiên cứu phân tích, khi tiến hành phân tích các bộ số liệu lớn về psi; 3) Nghiên cứu các trường hợp cụ thể, gồm xem xét kinh nghiệm cá nhân, khảo sát tại thực địa, so sánh niềm tin và sự kiện xảy ra ở các nền văn hóa khác nhau; 4) Nghiên cứu lý thuyết, khi lập mô hình toán học, mô hình mô tả hay hiện tượng luận cho psi; 5) Nghiên cứu thực nghiệm, khi cố gắng kiểm soát psi trong phòng thí nghiệm.



    Vòng tròn trên các cánh đồng nước Anh -
    sản phẩm của người ngoài hành tinh?

    Ở Việt Nam mới manh nha một số nghiên cứu thuộc ba nhóm giữa; chẳng hạn nghiên cứu nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên (phương pháp 2 và 3) hay cố GS Nguyễn Hoàng Phương lập mô hình toán cho trường sinh học năm 1981. Trong khi đó, hai tiếp cận quan trọng nhất là tiếp cận 1 có vai trò dẫn dắt về thế giới quan và tiếp cận 5 có thể cung cấp những bằng chứng quyết định thì chưa được triển khai.

    Bốn quan điểm về psi

    Vì khoa học chưa thu thập được bằng chứng quyết định, cũng như chưa có lý thuyết thống nhất, nên hiện có bốn quan điểm đánh giá psi như sau:

    Quan điểm 1: Không thừa nhận sự tồn tại của psi. Theo những người phản đối, psi không thể tồn tại vì trái ngược với nền tảng khoa học mà con người đã thiết lập được. Tờ Tuần tin tức (Mỹ) từng cho rằng, công nhận thần giao cách cảm hay viễn di sinh học là bác bỏ thành tựu của khoa học hiện đại trong suối 300 năm qua. Nhiều nhà vật lý ủng hộ quan điểm này, vì dường như psi trái ngược với các qui luật vật lý như bảo toàn năng lượng, dẫn truyền thông tin…

    Điểm mạnh của quan điểm này là dựa trên nền tảng khoa học hiện hành. Ưu điểm khác là cho đến nay, chưa ai đưa ra được một bằng chứng đủ tin cậy về psi. Điểm yếu của trào lưu này là kiên quyết bác bỏ một số hiện tượng có thể có thật.

    Quan điểm 2: Gắn psi với tín ngưỡng và tôn giáo. Theo đó, psi là bằng chứng của linh hồn bất tử (như luân hồi hay khả năng đọc ý nghĩ người chết), ma quỉ (như ma nhập hay “ngôi nhà ma ám”), thánh thần (như kinh nghiệm cận kề cái chết, xuất hồn hay thoát xác).

    Không nên nghĩ đơn giản là quan điểm này góp phần khôi phục sự mê tín dị đoan, vì hiện nay nhiều nhà khoa học nổi danh lại có xu hướng thần học khi đối mặt với những câu hỏi về nguồn gốc hay ý nghĩa của vũ trụ. Vì thế nếu có người tin rằng Big Bang chính là hiện thân của đấng sáng tạo tối cao (đều là khởi thủy của vũ trụ) thì cũng không có gì lạ.

    Người viết cho rằng, quan điểm này không phải là đối tượng của khoa học. Đó là hai lĩnh vực khác nhau (dù có thể bổ sung cho nhau), vì tín ngưỡng dựa trên niềm tin, còn khoa học dựa trên sự nghi ngờ.

    Quan điểm 3: Xem khoa học hiện hành không đủ khả năng giải thích psi. Trường phái này giả định psi nằm ngoài giới hạn của khoa học hiện hành. Vì thế để giải thích psi, nó dùng hai tiếp cận. Một là dùng các quan niệm cổ xưa (giải thích tiên tri bằng Kinh Dịch, tử vi hay chiêm tinh; giải thích “đọc ý nghĩ người chết” hay hậu tri bằng linh hồn, ma quỉ; giải thích phong thủy hay cảm xạ học bằng quan niệm thiên địa nhân hợp nhất, thiên nhân giao cảm…). Hai là phát triển các lý thuyết mới như trường sinh học, năng lượng và thông tin sinh học (từng xuất hiện tại nước ta, điển hình là nghiên cứu của cố GS Nguyễn Hoàng Phương), lý thuyết lượng tử của tương tác giữa vật chất và tinh thần (điển hình là học giả Roger Penrose tại Cambridge, Anh), lý thuyết các chiều không gian dư, lý thuyết các vũ trụ song song…

    Nhược điểm lớn nhất của trường phái này là tính tư biện và siêu hình, là sự thoát ly khỏi các nền tảng khoa học hiện đại, đặc biệt là các thành tựu của khoa học tâm trí. Chẳng hạn, họ xem thần giao cách cảm không tuân theo qui luật suy giảm theo khoảng cách của vật lý mà không biết rằng, các sóng điện từ tần số cực thấp (như sóng điện não) có thể lan truyền vòng quanh Trái đất nhờ cộng hưởng Schumann. Hoặc các luận giải về linh hồn, trường hào quang… cho thấy họ ít quan tâm tới những khám phá mới về bộ não và tâm trí, đặc biệt là vô thức, thành tố quan trọng nhất trong các hiện tượng psi.

    Quan điểm 4: Giải thích một số yếu tố có thực của psi bằng khoa học hiện đại. Quan điểm này thừa nhận một phần sự tồn tại của psi và cố gắng giải thích bằng khoa học hiện hành. Chẳng hạn giải thích tương tác giữa các sinh thể với môi trường bằng các điện từ trường sinh học; giải thích khả năng bắt tín hiệu nhỏ yếu từ xa bằng ngưng tụ sinh học và hệ xử lý tiềm thức độ nhạy cao; giải thích một số yếu tố của xuất hồn, kinh nghiệm cận tử, luân hồi… bằng các hoạt động vô thức hay bằng các rối loạn tâm thần như nhân cách phân ly hay đa nhân cách; giải thích niềm tin vào tiên tri bằng nhu cầu qui hoạch tương lai của con người; giải thích các trào lưu mê tín mới bằng niềm tin vào sự huyền bí, vốn là nét nhân cách được hình thành và gìn giữ qua hàng triệu năm tiến hóa.

    Ưu điểm lớn nhất của khuynh hướng này là có thể giải thích psi một cách khoa học và biện chứng; là chỉ ra được giới hạn của psi nhằm chống lại sự lạm dụng; là sự tin tưởng vào các nguyên lý căn bản của triết học duy vật và khoa học hiện đại. Người viết là người kiên trì ủng hộ trào lưu tư tưởng này.

    Bạn xếp các hiện tượng luân hồi TT&VH vừa đăng tải vào nhóm giải thích nào?
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  9. #7
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Kỳ 5: Khả năng tiên tri qua hai trường hợp điển hình

    Tiên tri luôn thu hút sự quan tâm rộng rãi của dư luận. Rất nhiều người thường xuyên đi xem bói, lấy lá số tử vi, xem chỉ tay, xem tướng... mà không hề băn khoăn về tính xác thực của các loại hình “dự báo” đó. Xin khảo sát hai nhà tiên tri lừng danh trong nước và quốc tế.
    Hai trường hợp điển hình


    Chân dung thầy thuốc kiêm nhà tiên tri Nostradamus

    Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm: Khả năng của Trạng Trình được lưu truyền qua nhiều trăm năm, khi ông được xem là biết việc 500 năm trước và 500 năm sau, khi dự báo chính xác 81 năm Pháp thuộc và sự kiện Bác Hồ giải phóng thủ đô cuối năm Ngọ (1954), đầu năm Mùi (1955) qua lời sấm: “Cửu cửu càn khôn dĩ định - Thanh minh thời tiết hoa tàn - Trực đáo dương đầu mã vĩ - Hồ binh bát vạn nhập Tràng An” (Luật trời đất đã định: 9 lần 9 là 81; Vào tiết thanh minh cuối năm Ngọ đầu năm Mùi; Tám vạn quân cụ Hồ sẽ về giải phóng thủ đô). Ông cũng được ca ngợi khi khuyên Nguyễn Hoàng vào Nam lập nghiệp: “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân” (Dải Hoành Sơn là nơi có thể dung thân đến vạn đời). Tương truyền trong cuộc sống hàng ngày, ông cũng thường tiên tri thành công, chẳng hạn một lần đang ngồi với học trò, thấy người hàng xóm sang tìm, ông liền độn một quẻ Dịch và đoán người đó sang mượn búa. Mở cửa đón khách thì thấy đúng như vậy!

    Nhà tiên tri Nostradamus ông tên thật là Michael de Nostredame (1503-1566), là thầy thuốc Pháp lừng danh thế giới vì khả năng tiên tri. Tác phẩm của ông đến nay vẫn được ấn hành và thu hút khá đông người đọc. Toàn bộ dự báo của Nostradamus được viết trong công trình Tiên tri, trong đó 6 tập được phát hành lúc ông còn sống, tập đầu tiên vào năm 1555. Công trình hoàn chỉnh gồm các khổ thơ tứ tuyệt có vần, được gọi là Thế kỉ, vì 100 khổ ghép lại thành một phần. Tổng cộng có 940 khổ thơ, chia thành 10 thế kỉ, trong đó thế kỉ cuối chỉ có 40 khổ. Ông được xem là dự báo chính xác cái chết của vua Henry II, Đại hỏa hoạn London 1666, cuộc chạy trốn của vua Louis XVI và hoàng hậu Antoinette, sự nghiệp của Napoleon, chiến tranh thế giới thứ 2 và Hitler... Không lạ khi nhiều người xem Nostradamus là nhà tiên tri lừng danh nhất trong lịch sử nhân loại.

    Khoa học và tương lai của vũ trụ

    Với thành công rực rỡ của cơ học Newton (chẳng hạn dự báo chính xác chu trình 69 năm của sao chổi Harley), khoa học thế kỉ 19 tin rằng, nếu đủ kiến thức và kĩ năng, chúng ta có thể dự báo chính xác hành trạng của vũ trụ trong một tương lai bất kì. Đó chính là quyết định luận Laplace nổi danh trong lịch sử khoa học. Điều đó có nghĩa, tiên tri là một khả năng có cơ sở khoa học. Vấn đề chỉ là chúng ta có đủ giỏi để dự báo đủ xa hay không mà thôi. Và Nostradamus vẫn được viện dẫn để chứng minh cho khả năng kì diệu đó.

    Vấn đề hoàn toàn thay đổi khi bước sang thế kỉ 20. Nguyên lý bất định Heisenberg của cơ học lượng tử (khoa học về thế giới vi mô) cho rằng, không thể xác định chính xác hành trạng của thế giới vi mô. Và đó là vấn đề nguyên tắc, chứ không phải là vấn đề kĩ thuật. Điều đó chứng tỏ, không thể dự báo tương lai của các sự biến trong vũ trụ, bất kể con người thông minh và tài giỏi đến mức nào. Đó là phát súng ân huệ đối với quyết định luận Laplace và ước vọng tiên tri của con người.

    Giải mã hai nhà tiên tri Trạng Trình:

    Cho rằng Trạng Trình đoán đúng thời Pháp thuộc là không đúng, vì nếu lấy mốc giải phóng thủ đô là 1954 - 1955, thì trừ đi 81 năm, sẽ được thời điểm 1873 - 1874, theo lời sấm là bắt đầu thời kì Pháp thuộc. Đây là kết luận hoàn toàn sai so với lịch sử, dù tính theo thời điểm Pháp bắt đầu xâm lược (1858), chiếm Hà Nội lần cuối (1884) hay bắt đầu khai thác thuộc địa (1897). Cũng không thể xem “Hồ binh bát vạn nhập Tràng An” là sự kiện Bác Hồ giải phóng thủ đô đáng tự hào, vì dưới thời Nguyễn Bỉnh Khiêm, “Hồ binh” mang nghĩa hoàn toàn khác (quân man di biên ngoại, theo cách gọi khinh khi của người Hán đối với các dân tộc ít người phía tây bắc Trung Hoa). Nói cách khác, giữa lời sấm và sự kiện Điện Biên Phủ chấn động địa cầu không hề có dây mơ rễ má gì với nhau.



    Ngôi nhà đã tu sửa của Nostradamus
    ở Salon-de-Provence

    Việc Trạng Trình khuyên Nguyễn Hoàng vào Nam mở đầu cơ nghiệp nhà Nguyễn thì chỉ là kết quả của cái nhìn sâu sắc về địa chính trị, chứ không phải là sản phẩm của tiên tri. Chuyện độn đúng việc mượn búa của hàng xóm thì đơn giản là sự trùng hợp ngẫu nhiên, khi ông thường xuyên cho mượn búa.

    Nostradamus: Giới nghiên cứu mất nhiều công khảo sát các dự báo của Nostradamus và phát hiện, thực tế hoàn toàn khác với sự ngưỡng mộ dành cho ông. Ít người biết rằng, sau khi ông chết, các khổ thơ vẫn tăng sau mỗi lần xuất bản. Ngoài ra là nhiều lần xuất bản “ma”, chẳng hạn một lần xuất bản đề 1568, nhưng kĩ thuật in ấn cho thấy, nó được in trong thời gian 1649 - 1700. Điều đó chứng tỏ, người hâm mộ đã viết nhiều dự báo và gán cho ông. Dự báo sau khi các sự kiện đã xảy ra thì làm gì mà không chính xác!

    Chẳng hạn khổ thơ 2-51 được xem là dự báo Đại hỏa hoạn London 1666 có nội dung: “Dòng máu của người chính nghĩa sẽ đổ ở London - Thiêu cháy do tiếng sét của hai mươi ba sáu - Nhà thờ cổ sẽ sụp đổ từ đỉnh cao chất ngất - Nhiều tín đồ của giáo phái sẽ bị giết”. Để phù hợp với đám cháy 1666, nhiều thay đổi và giải đoán đã được thực hiện. Như “nhà thờ cổ” được xem là Đại giáo đường St Paul, bị tiêu hủy trong hỏa hoạn; “hai mươi ba sáu” được xem là 1666... Trong khi đó, theo nhà nghiên cứu Randi, đồng sáng lập Ủy ban điều tra khoa học các tuyên bố dị thường, Mỹ, khổ thơ dường như miêu tả sự kiện cùng thời Nostradamus, đó là cuộc tàn sát người Tin Lành dưới thời Nữ hoàng Mary I, nếu thay đổi một chút (nhưng hợp lý) nội dung câu thơ thứ nhất và thứ ba: “Dòng máu người ngoại phạm là sai lầm ở London”, và “Quí bà già nua sẽ mất quyền lực tối cao”, vì Mary I lúc đó mất trí do quá già. Sau sự kiện trên 3 tháng, bộ sách Tiên tri mới được xuất bản lần đầu vào tháng 5-1555, một thời gian đủ dài để Nostradamus biết rõ mọi thông tin. Mọi dự báo khác của Nostradamus cũng ở tình trạng tương tự. Và không nên quên rằng, Nostradamus tiên tri ông chết tháng 11-1567; thực tế là tháng 7-1566 ông đã từ trần.

    Tại sao tiên tri?

    Vì đó là bản chất bên trong của con người - loài động vật duy nhất trên trái đất có nhu cầu và biết qui hoạch tương lai. Vì thế khi có các loại hình qui hoạch đơn giản và tiện dụng, chúng ta có xu hướng tin tưởng một cách không phê phán. Điều đó giúp chúng ta tìm thấy sự yên bình, chí ít trong tâm tưởng? Và đó là một nhu cầu mang tính nhân văn.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  10. #8
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Kỳ 6: Chiêm tinh học

    Chiêm tinh học có từ 1.700 năm trước Công nguyên tại thành Babylon cổ xưa và chưa bao giờ thiếu người tin tưởng, dù luôn phải chịu sự công kích từ nhiều nhà tư tưởng hàng đầu nhân loại.

    Chiêm tinh học cho rằng các thiên thể có ảnh hưởng tới mọi hành trạng của con người trên trái đất và do đó, có thể dự báo tính cách và số phận từng người dựa trên việc quan sát chuyển động của các hành tinh. “Chiêm tinh không phải là khoa học, mà là bệnh lý”? Đó là ý kiến của một nhà khoa học tuyên bố để ngăn ngừa sự mê tín mới? Hoàn toàn không - đó là ý kiến của triết gia kiêm thầy thuốc Maimonides (1135-1204) từ TK 12. Vậy tại sao nhân loại TK 21 vẫn tin tưởng thuật chiêm tinh, chẳng hạn tại Mỹ có tối thiểu 20.000 người hành nghề chiêm tinh có đăng ký? Có một thực tế là dịch vụ chiêm tinh không hề rẻ tại bất cứ nơi nào trên thế giới, vì thế chúng ta cần biết nó có chính xác hay không.


    Minh họa về chiêm tinh năm 1888

    Các con số bất ngờ

    Một tổng kết năm 1984 về 3.011 dự báo chiêm tinh trên báo chí cho thấy, chỉ có 338 dự báo đúng. Phần lớn trong các dự báo đúng cũng rất mơ hồ và ai cũng có thể đạt được điều đó nếu chịu khó theo dõi tin tức, như ngôi sao nọ cưới bạn gái hay chiến tranh vẫn tiếp tục giữa hai phía xung đột...

    Nhà vật lý Geoffrey Dean nghiên cứu lá số chiêm tinh của 22 người rồi đảo ngược kết quả. Kỳ lạ thay, 21/22 người cho rằng, các lá số đảo ngược đó mô tả chính xác tính cách và số phận của họ!


    Bản chiêm tinh thế kỷ 15 mô tả mối tương quan giữa
    Các bộ phận cơ thể và các đối tượng chiêm tinh

    Nhà tâm lý Silverman thuộc ĐH Michigan, Mỹ, nghiên cứu 2.978 cặp vợ chồng và 478 cặp đã ly hôn và nhận thấy, tỷ lệ tan vỡ của hai nhóm hòa hợp và không hòa hợp theo tiêu chuẩn chiêm tinh là như nhau. Nhà vật lý M.C. Jerni thấy thời điểm sinh của 6.000 chính trị gia và 1.700 nhà khoa học phân bố hoàn toàn ngẫu nhiên, trái với kết quả chiêm tinh. Nhà vật lý Carlson cho thấy, chiêm tinh chỉ đúng trong mô tả tính cách của 34% số người được nghiên cứu, một tỷ lệ... không cao hơn đoán mò.

    Lý giải của khoa học

    Đứng trước các con số đầy mâu thuẫn đó, các nhà khoa học đã đưa ra tới 26 lý do giải thích tại sao chúng ta thấy chiêm tinh hay các loại hình tiên tri khác dường như chính xác. Dưới đây là một số lý giải thường gặp nhất.

    * Hiệu ứng Barnum: Phần lớn các dự báo chiêm tinh thường mơ hồ và tổng quát đến mức, có thể áp dụng chúng cho tất cả mọi người. Hiệu ứng này được đặt theo tên một gánh xiếc đầu TK 20, khi vào năm 1949, một GS tâm lý đưa ra một mô tả nhân cách khôn khéo đến mức, tất cả sinh viên của ông đều tin nó là của mình.

    * Xu nịnh sẽ đưa chúng ta tới bất cứ đâu: Nói chung các dự báo đều dễ nghe. Khi có ai tuyên bố ta tài giỏi, thông minh, sáng tạo, nhạy cảm, giao thiệp rộng, giàu trí tuệ và dễ thăng tiến, nhiều khả năng ta sẽ xem đó là một nhà chiêm tinh rất đáng tin cậy!

    * Ước vọng muốn tin: Không ai đi tìm một nhà chiêm tinh mà lại muốn ông hay bà ta nói sai. Chính ước vọng muốn tin đó khiến chúng ta tạo ra những ám hiệu kín đáo hay rõ ràng giúp nhà chiêm tinh điều chỉnh các dự báo. Khi gặp một thiếu nữ băn khoăn “tôi không gặp rắc rối về tình cảm chứ?”, dù kém nhạy cảm cách mấy thì nhà chiêm tinh cũng biết cần phải nói như thế nào.

    *Hội chứng tiến sĩ Fox: Khi thấy đang trong một tình thế giàu tính trí tuệ và khi tin là đang được nghe một người thấu hiểu vấn đề diễn thuyết, ta sẽ thấy thỏa mãn mà không để ý xem thực ra điều trình bày có đúng hay không. Năm 1974, ba nhà y khoa dùng một diễn viên đóng vai “Tiến sĩ Myron L. Fox”. Cử tọa gồm 55 nhà tâm thần học, tâm lý học, giảng viên, quan chức trường phổ thông và nhà hoạt động xã hội ngồi nghe TS Fox tình bày về lý thuyết trò chơi ứng dụng trong giảng dạy vật lý. Bài giảng chỉ là lối văn cầu kỳ có chủ tâm, nhưng khi điền phiếu thăm dò, 42 người đồng ý rằng bài giảng được tổ chức tốt, với nhiều minh họa và có tính kích thích tư duy. Cũng có 14 người thấy diễn giả nói nhiều ở những điểm đã rõ ràng, và 1 người thấy buổi thuyết trình quá phức tạp. Tuy nhiên hầu hết đều muốn nghe thêm về chủ đề mà không một ai nhận ra rằng, bài giảng chỉ là trò lừa gạt. Vì thế nếu gặp một nhà chiêm tinh có kinh nghiệm và tỏ ra thông tuệ, nhiều khả năng là chúng ta sẽ tin!

    * Hiệu ứng Hans thông minh: Nhiều nhà chiêm tinh phản ứng tốt trước ngôn ngữ cơ thể và nét mặt khách hàng để cải thiện các dự báo. Hiện tượng này được đặt theo tên chú ngựa Hans tại Berlin đầu TK 20 biết làm toán do đọc ngôn ngữ cơ thể người đối diện. Hiệu ứng vầng hào quang: Đó là kết quả của ấn tượng ban đầu. Ta có xu hướng tin tưởng nhà chiêm tinh hay thầy bói có tính cách nồng nhiệt hơn lạnh lùng, tự chủ hơn thiếu tự chủ, ăn mặc tươm tất hơn quần áo cẩu thả, ưa nhìn hơn kém hình thức... Giới hành nghề tiên tri thuộc nằm lòng quy tắc này.

    * Tương quan ảo: Đây là quy luật vàng của tâm lý học: tin là thấy. Từ vô số sự kiện xảy ra trong đời, bao giờ ta cũng nhặt ra được những sự kiện phù hợp với dự báo của nhà chiêm tinh được ta tin tưởng. Đó cũng chính là qui luật vàng chi phối nhiều hiện tượng ngoại cảm và tâm linh khác.

    * Ký ức chọn lọc: Nói chung ta có xu hướng chỉ nhớ dự báo đúng mà ít lưu tâm tới các dự báo sai. Và chúng ta say sưa kể về các dự báo đúng đó cả đời mà không lưu tâm tới câu hỏi quyết định, vậy chiêm tinh dự báo đúng bao nhiêu phần trăm? Trên thực tế có thể đạt được các kết quả cao hoàn toàn chỉ nhờ đoán mò, chẳng hạn sinh trai hay gái (tỷ lệ đúng 50%), đúng hay sai (tỷ lệ cũng là 50%); thậm chí có thể đạt kết quả ấn tượng tới tỷ lệ thành công 70% khi dự báo “thời tiết ngày mai giống hôm nay”, một kết quả dựa trên thống kê học.

    Năm 1982, GS tâm lý Lester đưa ra nhận xét, chiêm tinh học có ích lợi như chuyến thăm một nhà trị liệu. Nói cách khác, nó giống như sự trợ giúp tinh thần mà dường như nhiều người cần đến ít nhất một lần trong đời. Đó chính là nguyên nhân thành công chủ yếu của một chiêm tinh gia nhiều kiến thức về tâm lý học và một số môn khoa học xã hội đi kèm.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  11. #9
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Kỳ 7: Khả năng dự báo của kinh dịch

    Dịch hay Chu Dịch gồm hai phần, Dịch kinh và Dịch truyện. Dịch Kinh là một cuốn sách, thường được xem là sách bói, gồm 64 quẻ, xuất phát từ 8 quẻ (Bát quái), mỗi quẻ có 6 vạch. Dưới mỗi vạch có lời đoán theo các mục như hôn nhân, xuất hành... Lời đoán có thể tốt hay xấu, kèm lời khuyên đạo đức. Người đoán quẻ lập luận theo nguyên tắc âm dương giao cảm.

    Theo cố học giả Cao Xuân Huy trong tác phẩm đoạt giải Hồ Chí Minh Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu: Dịch kinh là sách bói, ra đời sau Khổng Tử, còn Dịch truyện gồm nhiều tư tưởng hỗn hợp, trong đó nổi bật tư tưởng Lão Trang, với bản thể luận và biện chứng pháp Đạo gia. Như vậy Dịch chỉ có thể hình thành cuối đời Chu, thời Xuân Thu - Chiến quốc.

    Nhiều người ca ngợi khả năng dự báo của Dịch, mà điển hình là Thiệu Vĩ Hoa, “ngôi sao Dịch học”, người viết cuốn Chu Dịch với dự báo học với số lượng phát hành kỷ lục tại Trung Quốc. Bản dịch cũng gây nhiều dư luận tại Việt Nam. Trong sách, Chu Dịch được ca ngợi là “đại số học vũ trụ” hay “hòn ngọc trên vương miện khoa học”.

    Vậy trên thực tế Chu Dịch có khả năng dự báo như thế nào?

    Logic 64 quẻ Dịch

    Trong Hệ từ viết: “Dịch có Thái cực, sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, Tứ tượng sinh Bát quái”. Đó chính là luận lý căn bản của Dịch.

    Thái cực là chữ Đạo của Lão tử, là bản thể vũ trụ, cơ sở tồn tại của vạn vật, nên “vô thủy vô chung” (không có khởi đầu và kết cục), “bất sinh bất diệt” (tồn tại vĩnh hằng, không đổi không dời), bao trùm mọi vật, đồng thời có trong từng vật riêng biệt. Lưỡng nghi là “âm dương”, hai phương thức của Thái cực, đối lập, mâu thuẫn và thống nhất với nhau. Do sự đấu tranh của âm dương mà hình thành sự đa hóa, phân hóa, phát triển. Lưỡng nghi cũng là trời và đất, lấy dương thay cho trời, lấy âm thay cho đất. Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, tức âm dương kết hợp tạo nên bốn tượng: thuần dương là Thái dương, thuần âm là Thái âm, hào âm trên hào dương là Thiếu âm. Tứ tượng tượng trưng cho bốn phương, cũng cho bốn mùa, tức tứ thời.


    Cờ Hàn Quốc với Thái Cực ở trung tâm,
    Xung quanh là 4 quẻ.

    Tứ tượng sinh Bát quái, vẫn do âm dương tương giao mà thành. Hào dương kết hợp với Thái dương, Thiếu âm, Thiếu dương, Thái âm tạo thành bốn quẻ Càn, Đoài, Ly, Chấn. Hào âm kết hợp với Tứ tượng thành bốn quẻ Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Tổng cộng có 8 quẻ, tức Bát quái. Đó cũng là tám phương, bát tiết.

    Tám “tiểu thành quái” trên kết hợp nhau, tạo 8 x 8 = 64 “đại thành quái”, mỗi quẻ có 6 hào hay 3 tượng. Người xưa xem mọi biến dịch trong vũ trụ không ngoài 64 quẻ Kinh Dịch đó. Vì thế bậc trí giả, với các học thuyết thánh hiền, tự xem mình ngồi trong nhà mà như đứng giữa ngã ba đường, không gì là không biết!

    Dịch theo khoa học hiện đại

    Theo người viết, Thái cực chính là Big Bang, vụ nổ lớn khai sinh vũ trụ; Lưỡng nghi là đối ngẫu sóng - hạt của thế giới vi mô; Tứ tượng là bốn tương tác chi phối vũ trụ (hấp dẫn, điện từ, tương tác yếu và tương tác mạnh); một số quẻ Dịch là những phạm trù triết học. Khi đó sẽ giải thích được logic nội tại và khả năng dự báo của Dịch.

    Theo vật lý học, vũ trụ của chúng ta xuất phát từ Vụ nổ lớn xảy ra 13,7 tỷ năm trước. Đó chính là tương tác siêu thống nhất, là cái một, cái chí nhất khởi thủy cho vạn vật. Sau đó do quá trình lạm phát, vũ trụ giãn nở và nguội dần, tương tác siêu thống nhất tách thành tương tác đại thống nhất và hấp dẫn (lúc này vũ trụ có 2 tương tác). Tiếp theo đại thống nhất tách thành tương tác mạnh và điện yếu (vũ trụ bây giờ có ba tương tác). Cuối cùng điện yếu tách thành điện từ và tương tác yếu, hoàn tất sự xuất hiện của 4 tương tác điều khiển toàn vũ trụ. Toàn bộ quá trình đó xảy ra chỉ trong một phần triệu giây sau Vụ nổ lớn.

    Về hình thức, logic “Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng” khá phù hợp với vũ trụ luận nói trên. Trong đó Thái cực là Big bang, nơi vũ trụ là cái một, cái duy nhất. Lưỡng nghi là lưỡng tính sóng - hạt của thế giới vi mô: vật chất vừa có tính sóng vừa có tính hạt, chúng mâu thuẫn và thống nhất với nhau. Tứ tượng là bốn tương tác cơ bản. Tứ tượng không sinh đồng thời, mà “một sinh hai, hai sinh ba”, “ba” sinh bốn, bốn “sinh vô cùng”, có vẻ đúng như lời Lão Tử.

    Theo Cao Xuân Huy ở sách đã dẫn, trong 64 quẻ, ba quẻ Thái, Bĩ và Đồng nhân tiêu biểu cho quá trình biện chứng của Dịch. Cụ thể hơn, Thái là chính đề, Bĩ là phản đề, phủ định, còn Đồng nhân là hợp đề của chính đề, tức phủ định của phủ định. Như vậy một số quẻ Dịch có thể là một số phạm trù hay quy luật của triết học biện chứng.

    Khả năng dự báo của Dịch

    Người viết thấy logic của Dịch đúng khoảng 60 - 70% so với kiến thức hiện đại, một tỷ lệ rất cao với một lý thuyết từ hàng ngàn năm trước. Vì thế nếu Thiệu Vĩ Hoa ca ngợi Chu Dịch hơi quá lời thì cũng dễ hiểu.

    Tuy nhiên đó là do chúng ta chỉ mới xét tính tất yếu khách quan của các quy luật biến dịch mà chưa xét tới vai trò của ngẫu nhiên, yếu tố quyết định 50% số phận vũ trụ. Theo lời nhà vật lý lý thuyết Gell-Mann, bộ óc vật lý siêu việt nhất nửa cuối thế kỷ 20, giải Nobel về mô hình quark của các hạt cơ bản, “các ngẫu nhiên và các quark giải thích được vũ trụ, sự sống và mọi thứ khác”.

    Nói cách khác, nếu tính cả ngẫu nhiên, yếu tố quyết định một nửa hành trạng của tự nhiên, khả năng dự báo của Dịch sẽ giảm đi một nửa, còn khoảng 30-35%. Viết đến đây, người viết lại nhớ tới quan điểm của cố giáo sư, nhà tình báo, thiếu tướng công an Nguyễn Đình Ngọc, một nhà khoa học đã lập mô hình toán học cho tử vi, đại ý, nếu đúng thì (dự báo dựa trên Dịch) cũng không quá 70%, nếu sai cũng không dưới 30%.

    Tóm lại, dự báo Chu Dịch có tỷ lệ thành công khoảng 30-35%. Đây là một tỷ lệ khiêm tốn, chỉ ngang với dự báo ngẫu nhiên hay đoán mò. Trên thực tế, trong nhiều trường hợp, đoán mò còn cho kết quả cao hơn, chẳng hạn sinh trai hay gái, thắng hay thua (đều có tỷ lệ thành công 50%).

    Kết luận

    Về mặt nhận thức, hiểu biết của con người đi từ thấp tới cao, từ đơn giản tới phức tạp, trên cơ sở trình độ khoa học - công nghệ của xã hội đương thời. Quá trình nhận thức càng ngày càng tiếp cận, nhưng không bao giờ đạt tới hiểu biết cuối cùng (khoa học TK 20 phát hiện ra rằng, có những giới hạn nhận thức mà khoa học không thể vượt qua). Vì thế, một lý thuyết có từ hàng ngàn năm trước như Chu Dịch không thể phản ánh tốt hiện thực khách quan. Người viết cho rằng, Dịch dự báo được khoảng một phần ba các biến cố, một tỷ lệ tương đương với đoán mò (các loại hình tiên tri khác như chiêm tinh học cũng có tỷ lệ thành công như vậy, cho thấy có lẽ chúng chỉ là sự đoán mò). Và có lẽ đó là lý do mà các nhà Dịch học chỉ kể về các trường hợp thành công, chứ không bao giờ đưa ra các con số thống kê về tỷ lệ giữa các dự báo đúng và sai. Thiếu những thống kê như vậy, khả năng dự báo của Dịch còn thiếu sức thuyết phục.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  12. #10
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Kỳ 8: Thần giao cách cảm có thật hay không?

    Thần giao cách cảm (telepathy) là khả năng đọc ý nghĩ người khác hay trao đổi thông tin trực tiếp giữa các bộ não. Nó là một trong bốn hiện tượng ngoại cảm, bao gồm thần giao cách cảm, thấu thị (hay thấu thính), tiên tri và hậu tri. Vấn đề đặt ra là nó có thật hay chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng?

    Những trường hợp điển hình

    Trong một thí nghiệm kinh điển, Morley của Viện Victoria, Mỹ, cho kiến vào các bình chứa khác nhau, sao cho chúng không thể liên lạc bằng âm thanh, thị giác, mùi hay rung động (kiểu liên lạc thường gặp ở kiến). Tuy nhiên dường như chúng vẫn có thể truyền tin cho nhau, qua “giác quan thứ chín”, theo lời nhà nghiên cứu.
    Chú khỉ thứ 100 là câu chuyện thú vị về khả năng truyền ý nghĩ của khỉ. Theo giới ngoại cảm học thì một chú khỉ trên đảo Koshima, Nhật Bản, học được cách rửa khoai tây bằng nước biển trước khi ăn và dạy cho khỉ trong đàn cách giữ vệ sinh đó. Ngay lập tức kiến thức lan truyền tức thời qua ‘thần giao cách cảm” và nhiều khỉ trên quần đảo Nhật Bản biết rửa khoai tây!

    Ấn tượng nhất là thí nghiệm về “cảm xúc” thực vật. Trong đó, một người được bố trí đập phá cây trước một cái cây khác. Đo đạc cho thấy, trước cảnh tàn sát, hoạt tính điện của “cây nhân chứng” gia tăng dữ dội. Sau đó rất nhiều người được bố trí đi ngang qua cây “nhân chứng”. Đúng như mong đợi, khi người tàn sát cây xuất hiện, hoạt tính điện của cây nhân chứng lại thay đổi ghê gớm: dường như cây đã nhận dạng được kẻ sát nhân! Căn cứ vào đó mà một số người kết luận thực vật cũng có thể có cảm xúc và tình cảm, một quan niệm thực ra là sai lầm.

    Các lý giải thường gặp

    Một số lý thuyết đã được đề xuất để giải thích thần giao cách cảm, như trường sinh học, năng lượng hay thông tin sinh học - một trường vật chất mới hoàn toàn khác các trường vật lý đã biết. Nhược điểm lớn nhất của chúng là thiếu cơ sở khoa học và bằng chứng thực nghiệm. Bản chất của trường đó là gì, cường độ mạnh yếu thế nào, cơ chế tương tác với các sinh thể ra sao, chúng từ đâu xuất hiện và khi sinh thể chết thì chúng mất đi đâu là những câu hỏi chưa bao giờ được giải đáp.

    Quan niệm của nhà vật lý Bohm về thực tại không định xứ của cơ học lượng tử cũng thường được viện dẫn. Theo đó thì một thực tại có thể đồng thời ở nhiều vị trí không thời gian khác nhau, nên hai bộ não có thể cùng chia sẻ một ý nghĩ. Tuy nhiên đó là thực tại của thế giới lượng tử, tức thế giới vi mô, chứ không phải của thế giới sinh thể mà ta vẫn thấy hàng ngày.

    Lý thuyết ý thức tập thể của nhà phân tâm học Jung cũng thường được diễn giải sai lầm như một cơ chế truyền ý nghĩ giữa các bộ não. Theo đó thì mọi bộ não đều kết nối với nhau qua “ý thức tập thể”. Nếu không thì tại sao ngay từ bé, chúng ta đều sợ rắn? Không lạ khi Jung là người ủng hộ các hiện tượng dị thường rất nhiệt thành.

    Cách lý giải mới


    Nhà sinh học Rupert Shaldrake, chuyên gia về thần giao cách cảm.

    Vật lý sự sống đưa ra một cách lý giải mới cho thần giao cách cảm. Đó là quan niệm điện từ sinh học. Theo đó thì mọi ý nghĩ đều có cơ sở vật chất là các hoạt động điện hóa tại các tế bào thần kinh trong não. Theo định luật cảm ứng điện từ, các xung điện hóa đó sẽ tạo ra sóng điện từ trong và xung quanh não. Phép đo từ não đồ để nghiên cứu não và chẩn đoán bệnh dựa trên thực tế đó. Đồng thời, qua một số hiện tượng cộng hưởng, như cộng hưởng Schumann, các tín hiệu điện từ sinh học đó có thể tách khỏi nhiễu và lan truyền vòng quanh trái đất qua ống dẫn sóng giữa tầng điện ly và mặt đất, tương tự sóng phát thanh. Thực nghiệm đã đo được các sóng 10m và 37,5m, gần dải sóng đài phát thanh hay dùng. Về nguyên tắc, một nhà ngoại cảm có thể thu và giải mã các sóng này, dẫn tới khả năng “đọc ý nghĩ”. Hiện tượng ngưng tụ Bose-Einstein trong các hệ sinh học, mà khoa học đang tìm được những bằng chứng xác thực, cho phép cơ thể đo được các tín hiệu rất nhỏ yếu đó.

    Tuy những suy luận trên không phải không có hạt nhân hợp lý, nhưng yếu tố quyết định phải là bằng chứng thực nghiệm. Không được thực nghiệm khẳng định thì đó chỉ là một trong nhiều giả thuyết về thần giao cách cảm mà thôi. Đáng tiếc là cho đến nay, hầu như khoa học chưa thu được một bằng chứng đủ tin cậy nào để khẳng định thần giao cách cảm có thật.

    Giải mã các hiện tượng đã nêu

    Trong thí nghiệm Morley, nếu quả thật kiến vẫn liên lạc được với nhau, nhiều khả năng là nhờ các kênh điện từ. Chú khỉ thứ 100 đơn giản chỉ là huyền thoại, tức chỉ là sản phẩm bịa tạc. Trong thí nghiệm phá cây, cần lưu ý rằng khoa học đã thấy rằng trước khi chết, khả năng sinh thể phát tín hiệu điện từ tăng gấp hàng ngàn lần so với bình thường. Đó là thời khắc lóe sáng cuối cùng trước khi vụt tắt. Do sự cộng hưởng mà hoạt tính điện của cây nhân chứng cũng gia tăng mạnh mẽ. Việc nhận dạng người phá cây cũng được giải thích như vậy. Đó chỉ là những hoạt động vật lý thuần túy, chứ thực vật thì không thể có tình cảm hay cảm xúc, như có người lầm tưởng khi thuật lại thí nghiệm này.

    Thần giao cách cảm có thật hay không?

    Câu trả lời của khoa học là chúng ta chưa biết. Khả năng động thực vật có thể liên lạc qua nhiều kênh thông tin thì đã rõ, với nhiều bằng chứng ủng hộ. Ngoài ra một số động vật cũng có khả năng cảm nhận được động đất, nhà sập hay một số tai biến khác trước khi chúng xẩy ra. Nhiều khả năng động vật bậc thấp đo được biến động địa từ hay sóng hạ âm thường xuất hiện trước các tai biến. Vấn đề chưa rõ là con người có khả năng đọc ý nghĩ người khác hay không. Cho đến rất gần đây, qua thí nghiệm Ganzfield, được thiết kế để thực hiện thần giao cách cảm có kiểm soát (ngăn chặn can nhiễu và sự rò rỉ thông tin qua các kênh cảm giác), vẫn chưa đủ bằng chứng để kết luận về tính xác thực của nó. Nhiều nhà khoa học cho rằng, cần tiếp tục cải tiến qui trình Ganzfield và thử nghiệm nhiều hơn nữa, may ra chúng ta mới có cơ hội tìm ra lời giải.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  13. #11
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Kỳ 9: Truyền thuyết Tam giác quỷ Bermuda



    Bản đồ vùng Tam giác quỷ Bermuda

    Tam giác Bermuda, hay tam giác quỷ nằm ở vùng Tây Bắc Đại Tây Dương, trên một vùng rộng lớn gồm vịnh Florida, Mỹ, quần đảo Bahama và quần đảo Carribe, nơi nhiều máy bay và tàu thuyền bị mất tích. Tam giác Bermuda là một trong những tuyến hàng hải nhộn nhịp nhất thế giới. Các chuyến bay thương mại hay tư nhân cũng dày đặc trên bầu trời.

    Đây là vùng biển thường xuất hiện các cơn bão bất ngờ. Từ Hè tới cuối Thu cũng thường có cuồng phong. Kết hợp với sự nhộn nhịp cả trên bầu trời và dưới mặt nước, nên không lạ khi người ta ghi nhận được nhiều vụ máy bay hay tàu thuyền mất tích không để lại dấu vết, nhất là khi các phương tiện truyền thông hiện đại chỉ xuất hiện trong nửa cuối thế kỷ 20.

    Văn hóa dân gian thường gắn các vụ mất tích với các hiện tượng dị thường, sự mất hiệu lực của các qui luật vật lý hay người ngoài hành tinh. Điều đó góp phần tạo nên truyền thuyết tam giác quỷ.

    Lịch sử truyền thuyết

    Theo các tác giả truyền thuyết, chính Christopher Columbus (người phát hiện châu Mỹ) là người đầu tiên viết về sự kiện lạ tại khu tam giác, khi ông và thủy thủ đoàn nhìn thấy “những đốm sáng nhảy nhót lạ lùng nơi chân trời”. Nay giới nghiên cứu cho rằng, đó có thể chỉ đơn giản là lửa nấu ăn trên xuồng hay trên bãi biển của thổ dân người Taino.


    Tam giác quỷ Bermuda là khắc tinh của tàu thuyền

    Truyền thuyết thời hiện đại bắt đầu từ bài viết ngày 16/9/1950 của nhà báo Jones. Hai năm sau tạp chí Fate đăng bài Bí mật biển cả ngay cửa sau nhà ta của George Sand về các vụ mất tích, trong đó có chuyến bay 19 của phi đội 5 chiếc cường kích TBM Avenger thuộc hải quân Mỹ.

    Nghiên cứu của Kusche

    Lawrence David Kusche, thủ thư nghiên cứu tại ĐH bang Arizona, Mỹ, đã phản bác xu hướng trên trong tác phẩm Giải mã bí ẩn tam giác Bermuda, năm 1975, khi kiên trì lần theo các vụ mất tích. Cách nghiên cứu của ông nhiều khi đơn giản đến bất ngờ: ông xem mục thời tiết trên báo tại các thời điểm mất tích và nhận thấy, sự thật không giống như lời kể trong truyền thuyết. Ông đi tới các kết luận quan trọng:

    1) Tỷ lệ mất tích tại tam giác Bermuda không hề lớn hơn tỷ lệ tại bất cứ vùng biển nào trên thế giới.

    2) Trong một khu vực nhiều bão nhiệt đới, sự mất tích không có gì là bí ẩn; đồng thời các tác giả truyền thuyết thường không tính tới các cơn bão đó.

    3) Con số mất tích được phóng đại vì các nghiên cứu lỏng lẻo; chẳng hạn một con tàu được tính là mất tích, nhưng khi nó trở về bình yên sau đó thì không được đưa ra khỏi danh sách.

    4) Một số vụ được xem là mất tích không hề xảy ra, như một máy bay được cho là rơi trước hàng trăm nhân chứng tại vịnh Daytona, Florida, năm 1937; kiểm tra báo chí thời điểm đó thì không tìm thấy thông tin như vậy.

    Vì thế Kusche khẳng định: “Huyền thoại tam giác Bermuda là huyền thoại được tạo dựng... (và) được nuôi dưỡng nhờ nhiều tác giả vô tình hay hữu ý dùng các quan niệm sai, suy luận kém và xu hướng giật gân hóa”.

    Kết luận của Kusche có được thực tiễn ủng hộ hay không? Hãng bảo hiểm biển Lloyd’s nổi tiếng tại London xem tam giác Bermuda không nguy hiểm hơn các vùng biển khác nên không tăng phí bảo hiểm. Các đường bay và các tuyến hải trình vẫn tấp nập tàu thuyền với đầy ắp thương gia và khách du lịch trên khoang. Chẳng ai vì truyền thuyết mà bỏ qua cơ hội làm ăn hay thưởng ngoạn các khu du lịch nổi tiếng trong vùng.

    Các giải thích tự nhiên

    * Methane hydrates: Một cách giải thích tập trung vào các vùng khí methane hydrates trên đại dương. Thực nghiệm tại Australia cho thấy, các bọt khí có thể gây chìm con tàu mô hình vì làm giảm mật độ nước. Người ta giả định sự giải phóng khi hydrates theo chu kỳ từ các vụ núi lửa dưới đáy biển phun trào sẽ tạo ra các vùng nước nhiều bọt khí. Tàu thuyền lọt vào vùng này sẽ chìm rất nhanh mà không hề thấy bất cứ một tín hiệu cảnh báo nào. Sách trắng của Mỹ năm 1981 có viết về sự xuất hiện khí tại vùng biển Đông Nam. Tuy nhiên một vụ thoát khí lớn đến mức gây chìm tàu thì chưa hề xảy ra tại Tam giác Bermuda hàng ngàn năm qua.

    * Lệch hướng la bàn: Nhiều tác giả viết về thực tế này mà không chú ý rằng, kim la bàn chỉ các cực từ trái đất. Tại Mỹ, chỉ một đường thẳng từ Wisconsin tới vịnh Mexico là có hướng kim la bàn chuẩn (vì đường thẳng này trùng với đường nối hai từ cực trái đất). Giới thủy thủ biết rõ điều này.

    * Cuồng phong: Như bất cứ nơi đâu trên Trái đất, các cơn bão khủng khiếp này là nguyên nhân hàng đầu của các vụ mất tích tại vùng tam giác.

    * Dòng hải lưu vùng vịnh: Dòng hải lưu này xuất phát từ vịnh Mexico, tới vịnh Florida rồi chảy lên Bắc Đại Tây Dương. Là một con sông trong đại dương, nên nó dễ dàng cuốn trôi một thủy phi cơ hay một con thuyền nhỏ chết máy.

    * Sóng lớn bất thường: Những cơn sóng lớn bất thường có thể xuất hiện tại một vùng biển đang yên bình, như từng xảy ra tại vùng đất mới năm 1982. Tuy nhiên tam giác Bermuda không phải là địa điểm thích hợp với cách giải thích này, và nó cũng không đúng với các trường hợp máy bay mất tích.

    Tác động của con người

    * Sai sót của con người: Đây là nguyên nhân hàng đầu được giới chức quan tâm trong các vụ mất tích. Và tam giác Bermuda cũng không phải là ngoại lệ.

    * Hoạt động phá hoại: Hoạt động này gồm chiến tranh và hải tặc. Trong hai cuộc thế chiến, số vụ mất tích tại Bermuda tăng cao so với bình thường. Hải tặc có truyền thống trong vùng từ ngày phát hiện Tân thế giới và nay vẫn còn hoạt động, tuy không bằng nhiều vùng biển khác trên thế giới.

    Kết luận

    Truyền thuyết tam giác quỷ Bermuda một lần nữa nhắc nhở chúng ta rằng, con người là loài động vật thích nghe và dễ tin các hiện tượng dị thường, các hiện tượng nằm ngoài hiểu biết đương đại. Dường như đó cũng là một kiểu “phân ly” để thoát khỏi thực tại nhiều ràng buộc mà chúng ta đang sống.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  14. #12
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Kỳ 10: Về Uri Geller, nhà tâm linh “lừng danh thế giới”!

    Tại sao Uri Geller trở thành nhà tâm linh nổi danh nhất lịch sử là một vấn đề thú vị cần được giải thích rõ ràng trong lĩnh vực dị thường học. Trong 40 năm qua, đây là chủ đề thu hút sự chú ý chưa từng có của dư luận.

    Nhân thân


    Màn biểu diễn bẻ cong thìa bằng ý nghĩ của Uri Geller

    Uri Geller sinh ngày 20/12/1946 tại Tel Aviv, Israel, bố mẹ là người Do Thái gốc Áo - Hung. Ông được đặt tên theo người dì chết do tai nạn. Geller tự nhận có họ với nhà phân tâm học lừng danh Sigmund Freud về đằng mẹ, một thông tin không được xác nhận. Năm 11 tuổi, ông theo gia đình chuyển tới đảo Síp và theo học một trường trung học Cơ đốc nhưng chưa tốt nghiệp. Năm 17 tuổi Geller nhập ngũ và bị thương năm 1967. Năm 1968-1969, Geller làm người mẫu ảnh và bắt đầu trình diễn trên một sân khấu nhỏ.
    Sau khi xem ảo thuật gia người Anh David Berglas trình diễn, Geller bắt đầu “bẻ cong thìa” theo kỹ thuật học được từ Berglas. Những năm 1970, ông nổi danh tại Mỹ và châu Âu vì khả năng tâm linh và trở thành người biểu diễn toàn thời gian trên truyền hình. Ông tuyên bố có khả năng thần giao cách cảm, viễn di sinh học và cảm xạ học (bẻ cong thìa, mô tả bức tranh giấu kín, điều khiển đồng hồ ngừng chạy, chạy nhanh hay chậm hơn... bằng “sức mạnh ý chí”). Theo lời kể thì khả năng của Geller huyền diệu đến mức, ngay tại nhà khán giả xem truyền hình, thìa nĩa và vật dụng kim loại cũng cong tít!


    Uri Geller biểu diễn trước sự chứng kiến của đám đông hiếu kỳ

    Trong khi được sùng bái tại Mỹ thì tại Israel, Geller bị tố cáo trước pháp luật về việc dùng ảo thuật để “bẻ cong thìa bằng ý nghĩ”. Tòa án Israel từng phạt Geller phải trả lại tiền cho khán giả. Năm 1968, một tạp chí ảo thuật Israel đăng tải cách thức làm cong thìa hoàn toàn giống màn trình diễn của Geller.

    Khẳng định khả năng tâm linh là sự thật, từ 1974, Geller đi vòng quanh thế giới với câu chuyện, ông nhận được khả năng từ hành tinh Hoova thuộc hệ mặt trời khác và từ đĩa bay có tên Trí tuệ bầu trời. Chính câu chuyện hấp dẫn này, cùng sự cả tin của công chúng Mỹ, đã giúp Geller trở thành “nhà tâm linh nổi tiếng nhất lịch sử”.

    Hiệu ứng Geller


    Uri Geller bên cạnh người bạn thân - ngôi sao nhạc Pop Michael Jackson

    Giới ảo thuật nhanh chóng nhập cuộc. Năm 1982, James Randi, nhà ảo thuật lừng danh, đồng sáng lập Ủy ban yêu cầu nghi ngờ CSI được thành lập tại Mỹ năm 1976 nhằm ngăn chặn sự mê tín mới đã xuất bản cuốn Sự thật về Uri Geller, trong đó bóc trần mọi khả năng tâm linh của Geller. Năm 1985, ảo thuật gia Ben Harris xuất bản cuốn sách chuyên khảo về các kỹ thuật bẻ cong thìa. Các sách tương tự cũng xuất hiện tại nhiều nước châu Âu. Trong một cuốn sách về lịch sử ảo thuật, Christer Nilsson nhận xét gay gắt: “Chúng ta biết Uri Geller chỉ là người tạo ảo giác không hơn không kém”.

    Tuy nhiên điều mà Nilsson và những người như ông không thấy là khả năng dị thường của Geller trong việc thu hút dư luận. Giới khoa học phải đưa ra thuật ngữ “hiệu ứng Geller” để mô tả khả năng của một người, vốn không hơn ai về ảo thuật, trong việc tạo ra ảnh hưởng to lớn lên thế giới hiện đại và trong việc lôi cuốn công chúng đủ mọi trình độ tin vào “thiên tài” của mình. Uri Geller cũng tuyên bố kiếm được nhiều triệu đô la Mỹ từ các công ty dầu mỏ do dùng cảm xạ phát hiện vàng và dầu sâu trong lòng đất, đôi khi chỉ bằng cách vẫy tay trên bản đồ(!). Khi được yêu cầu, ông từ chối nêu tên các công ty vì “những lý do tế nhị”.

    Một số tuyên bố của Geller hay của những người si mê ông còn khó tin hơn nữa. Năm 1989, ông nói tiếp xúc với Ủy. ban Liên Xô về phát triển và sử dụng công nghệ vũ trụ trong khoa học và kinh tế và đề nghị dùng sức mạnh tâm linh sửa chữa các vệ tinh trên quỹ đạo. Lời đề nghị bị từ chối. Cũng theo lời ông, Cơ quan hàng không và vũ trụ Mỹ NASA nhờ ông thu hồi ăng ten bị mất trên Galileo, con tàu thám hiểm hệ mặt trời. NASA phủ nhận thông tin này. Geller cũng đề nghị dùng viễn di sinh học để thu hồi máy quay phim bị bỏ quên trên mặt trăng trong chiến dịch thám hiểm Apollo; đến nay nó vẫn trong tay chị Hằng vì NASA bỏ ngoài tai lời đề nghị. Geller cũng được gán cho nhiều khả năng “phi thường” như biến kim loại thành vàng, phát hiện vị trí thuyền Nô-ê mất tích sau cơn Đại hồng thủy, làm các đồ vật biến mất rồi lại hiện ra...

    Nổi tiếng tại Tòa án

    Uri Geller còn nổi tiếng vì “thành tích” tại tòa án, điển hình là cuộc chiến pháp lý dai dẳng với James Randi, kẻ thù không đội trời chung của Geller và các nhà tâm linh giả hiệu khác. Là nhà ảo thuật lừng danh, Randi thực hiện được mọi “khả năng tâm linh” của Geller chỉ đơn giản bằng sự khéo léo của bàn tay.

    Năm 1990, Geller kiện Randi ở tòa án Nhật vì những nhận xét của ông trên báo chí xứ Phù Tang. Vì Randi không tiến hành các thủ tục bảo vệ nên ông bị phạt 500 ngàn yên (4.400 USD). Randi không nộp phạt và tuyên bố, sẽ không trả một đô la, thậm chí một xu cho bất cứ ai kiện ông, do ông hành động chỉ vì chân lý khoa học.

    Năm 1991, Geller kiện Randi cùng Ủy ban yêu cầu nghi ngờ CSI và đòi bồi thường 15 triệu đô la vì những nhận xét gay gắt của Randi trong bài phỏng vấn trên tờ Diễn đàn thông tin quốc tế. Ngày 27/7/1993, tòa án Washington bác bỏ cáo buộc và phạt Geller 149.000 USD cho phí tổn của CSI trong vụ kiện. Geller kháng án và ngày 9/12/1994, tòa thượng thẩm Columbia giữ nguyên án sơ thẩm với nhận xét: “Xét lịch sử thích kiện cáo của bên nguyên, tòa không thấy sự tùy tiện nào trong án phạt”.

    Từ đó Randi luôn đối mặt với các vụ kiện của Geller, khiến một quỹ tư nhân được thành lập để quyên tiền giúp Randi hầu kiện. Đồng thời Randi cũng góp 10.000 USD lập một giải thưởng nay lên tới một triệu USD để trao cho bất cứ nhà ngoại cảm hay tâm linh nào thực hiện được một màn trình diễn với sự kiểm soát của ông. Gần 1.000 người đã tới thử sức nhưng chưa một ai nhận được tiền.

    Lịch sử kiện cáo của Geller còn kéo dài khá ly ky, với sự kiện tháng 11/2000, ông kiện công ty chuyên sản xuất trò chơi video Nitendo, vì nhân vật Pokemon “mang các đặc trưng riêng” của ông. Cụ thể là Pokemon có các khả năng tâm linh và biết bẻ cong thìa bằng ý nghĩ! Ông đòi bồi thường 60 triệu bảng Anh (100 triệu USD) nhưng không được chấp nhận.

    Đến đây chúng ta đã có thể tìm ra nguyên nhân giúp Uri Geller trở thành nhà tâm linh vĩ đại nhất trong lịch sử. Đó là sự kết hợp thú vị và khôn khéo giữa ước vọng muốn tin các hiện tượng dị thường của con người, mà theo nhà tâm lý Susan Blackmore thì nó lớn hơn mọi chứng cớ phản bác, và hiệu ứng Geller, là khả năng thu hút dư luận lạ thường của một người có khả năng ảo thuật không hề nổi trội. Nói cách khác, Geller trở nên nổi tiếng chỉ vì... chúng ta muốn như vậy!
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  15. #13
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Kỳ 11: Ngoại cảm của một trường hợp điển hình

    Năm 1998, ở độ tuổi 46, cô thanh niên xung phong năm xưa, xin được gọi tắt là Năm, quê tại Thái Thụy, Thái Bình, bất ngờ phát hiện ra khả năng tìm mộ người chết. Nghe theo tiếng gọi của đồng đội đã khuất hiện còn nằm rải rác khắp nơi, chị Năm vào Bình Dương tổ chức tìm mộ. Theo tin đồn, chị cùng bạn bè đã tìm được hàng ngàn hài cốt liệt sĩ tại các tỉnh miền Đông Nam Bộ. Tình cờ người viết được theo dõi một buổi tìm mộ của chị. Bài viết dưới đây là một cố gắng nhận chân bản chất quá trình tìm mộ của chị.


    Cô Năm đang sử dụng "ngoại cảm"

    Khoảng 8 giờ 30 ngày 10/5/2000, tôi và một nữ phóng viên báo Lao động tại TP.HCM có mặt tại căn nhà mà cô Năm thuê tại xóm Giếng máy cũ, phường Hiệp Thành, Thủ Dầu Một, Bình Dương. Khoảng 30 người quây lấy căn phòng khách nhỏ, nơi cô Năm dùng làm điện thờ. Đó là người đi tìm hài cốt đang chờ đến lượt được cô Năm giúp đỡ.

    Đầu tiên người nhà phải đăng ký vào sổ những thông tin sơ bộ về bản thân và liệt sĩ, như tên tuổi người đi tìm, quan hệ với liệt sĩ, tên tuổi liệt sĩ, ngày nhập ngũ, địa bàn hoạt động, ngày, địa điểm và hoàn cảnh hy sinh. Thông tin về nơi chôn cất nếu có thì càng tốt. Phân thân qua... lên đồng?

    Khi đến lượt, người đi tìm mộ được gọi vào ngồi trước mặt cô Năm sau khi đặt một chút vàng mã trên bàn thờ hay trên mặt bàn đối diện. Phải nói thật là số vàng mã này được bán rẻ (khoảng 5.000 đ) tại một quán nhỏ trước ngõ. Cô Năm chắp tay khấn vái, miệng lẩm nhẩm vài câu tụng niệm rồi giật mình, đầu hơi ngả về sau: Cô đã phân thân qua lên đồng để trở thành một “đức ông”, với giọng nói khàn khàn theo kiểu phụ nữ giả giọng đàn ông (chứ không phải giọng đàn ông như mọi người vẫn truyền tụng). Cô xưng là “ông”, gọi liệt sĩ là “chú” và đóng vai người trung gian để liệt sĩ nói chuyện với người thân. Cô ghi chép thông tin về liệt sĩ trên một tờ giấy nhỏ màu vàng bằng tiếng Việt và bằng một thứ chữ loằng ngoằng như chữ Hán. Cuối tờ giấy cô vẽ sơ đồ ngôi mộ, có chia thành các vùng đánh số kèm lời ghi chú như rừng, ruộng nước, nhà cửa... Cô tung mấy đồng xu để xác định hài cốt đang nằm ở vùng số mấy. Trước khi tung cô khấn liệt sĩ, đại loại kiểu: “Hãy chỉ cho con chú biết chú đang nằm ở đâu nhé”. Tung lần đầu chưa được thì cô tung lần 2, lần 3... cho đến khi được mới thôi.

    Tôi hỏi mấy người xem “ông” là ai, mọi người đều lắc đầu không biết. Căn cứ vào thái độ của mọi người đối với “ông”, tôi thấy hầu như không ai tin rằng, cô Năm đang “nhập hồn lãnh tụ”, theo lời cô tuyên bố.

    Những trường hợp ly kỳ

    Trường hợp 1: Một anh thanh niên ngoài 30 tìm được mộ cha khá dễ dàng khi anh biết rõ cha anh hy sinh trong một trận đánh và tất cả hài cốt trong trận đó đã được quy tập về một nghĩa trang liệt sĩ. “Ông” chỉ anh vào nghĩa trang, tới dãy bên trái rồi tìm ngôi mộ thứ ba. Đó chính là mộ cha anh, với đặc điểm bên cạnh có khóm hoa màu vàng hay đỏ gì đó (tôi không nhớ chính xác). Theo lời những người theo dõi và tổng kết thì đây là trường hợp hết sức may mắn vì ít khi quá trình tìm kiếm lại dễ dàng đến thế!

    Trường hợp 2: Một chị phụ nữ khoảng ngoài 50 tuổi đi tìm mộ cha là liệt sĩ chống Pháp. Đọc lời khai cha chị mất ở Bình Thuận, “ông” kêu ngay: “Rộng thế này thì tìm làm sao được!”. Nhưng rồi “ông” cũng cố giúp gọi hồn cha về bên chị. Vừa cắm cúi vẽ sơ đồ, “ông” vừa nói: “Ngày xưa các chú đi đánh giặc anh dũng, sao bây giờ lại mềm yếu thế. Chú cứ khóc như thế thì cha con nói chuyện với nhau thế nào được!”. Chị phụ nữ nức nở, mọi người chứng kiến đều xúc động. “Ông” cũng nói thêm, bên cạnh hài cốt cụ thể còn “mấy cái cúc áo”. Cuối cùng, “ông” cũng tìm được nơi chôn cất hài cốt. Đáng tiếc là nó lại nằm dưới chân móng hội trường tỉnh ủy Bình Thuận, nên không cách nào lấy lên được. Trước nỗi đau khổ của người con, “ông” đưa ra giải pháp lưỡng toàn: “Coi như đã biết nơi cất hài cốt, còn hồn của chú ấy thì đã ở đây. Vậy ngày rằm tới con mang bát hương tới đón về thờ cúng. Thế là vừa biết hài cốt ở đâu, vừa thờ được hồn cha”. Làm sao mà có một giải pháp tối ưu hơn thế được nữa cơ chứ?!

    Trường hợp 3: Một chị phụ nữ trung niên đi tìm mộ anh là liệt sĩ chống Mỹ. Trường hợp này không có gì đặc biệt cho lắm. Khi biết cốt còn ở trong rừng (lời khai của thân nhân), “ông” nói: “Ngày xưa đó là rừng, nhưng bây giờ thì khác nhiều rồi”. Chị phụ nữ liền nói: “Bây giờ là ruộng sắn”. “Ông” nói ngay: “Thì ông cũng bảo thế”. Mọi người ồ lên thán phục khả năng thấu thị phi thường của “ông”.

    Đây là trường hợp đã tìm mấy lần nhưng chưa thấy. Khi mấy cựu chiến binh vẫn hợp tác với cô Năm Nghĩa vào thưa với “ông” rằng, họ đã đến tận nơi chôn cất, nhưng do địa hình thay đổi nên không thể xác định được cốt nằm ở đâu. “Ông” nói ngay: “Cứ đào đi, nếu chỗ này không thấy thì đào chỗ khác. Không đào thì sao mà biết được”.

    Sau khoảng 5-6 trường hợp, “ông” phán: “Thôi cô Năm đã mệt, hãy để cô nghỉ một lát”. Thế là sự phân thân tạm dừng, cô Năm lại trở thành cô Năm với giọng Bắc quen thuộc với mọi người. Trong số báo tới, tôi sẽ phản bác các thông tin này bằng việc sử dụng tâm lý, tâm thần học, cụ thể là nhân cách phân ly và đa nhân cách, và vì sao chúng ta lại có thể dễ dàng tin như vậy.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  16. #14
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Kỳ 12: Bản chất hiện tượng phân thân qua lên đồng

    Giới đồng cốt thường tuyên bố họ lên đồng là để tiếp xúc với “người cõi âm”, nói chuyện với người chết, giúp người sống tìm gặp “vong” người thân đã mất... Và sự phân thân của cô đồng (đóng vai một người hoàn toàn khác: tên tuổi khác, giới tính khác, gia cảnh khác, phương ngữ khác...) thường được coi là dấu hiệu “ma nhập”, khi “hồn” của người chết nhập vào cô. Dưới ánh sáng khoa học, cụ thể là môn tâm lý và tâm thần học, sự phân thân qua lên đồng chỉ được giải thích đơn giản bằng các rối loạn tâm thần nhân cách phân ly hay đa nhân cách.


    Cô đồng J.Z. Knight nổi tiếng nước Mỹ những năm 1980 - 1990

    Phân ly nhân cách là hiện tượng đóng vai người khác, thường hay gặp ở người lúc nhỏ bị ngược đãi. Thực ra đó là một cơ chế bảo vệ, khi người ta tìm cách thoát ly về mặt tinh thần ra khỏi một thực trạng khó khăn. Chẳng hạn một phụ nữ Mỹ khăng khăng khẳng định mình là Đức đồng trinh, mà nguyên nhân chỉ là vì người chồng mới đi xa về nên hoạt động tính dục hơi thái quá. Còn theo GS tâm lý Robert Baker tại ĐH Kentucky, cô đồng J.Z. Knight nổi tiếng nước Mỹ những năm 1980 - 1990 từng nhập vai một người da đỏ tên là Ramtha sống từ 35 ngàn năm trước! Nói chung, đó là những trường hợp đóng vai một cách vô thức. Còn trong trường hợp cô Năm thì không hoàn toàn như vậy, vì cô luôn “hiệu chỉnh” cách phát ngôn sao cho đẹp lòng người!

    Cách ứng xử

    Muốn hiểu bản chất của quá trình tìm mộ, cần lý giải cách ứng xử của “đức ông” khi giải quyết những trường hợp cụ thể. Và với cái nhìn mang tính phê phán khoa học, có thể tìm ra sự thật ẩn giấu dưới bức màn thần bí.

    * Trường hợp 1: Anh thanh niên tìm được mộ cha khá dễ dàng vì anh khai rõ là cha anh hy sinh trong một trận đánh cụ thể. Tất cả hài cốt liệt sĩ trong trận đó đều đã được quy tập về một nghĩa trang liệt sĩ. Chắc chắn chị Năm đã biết điều đó. Và có thể chị cũng đã đến thăm nghĩa trang. Tại đó, sơ đồ và đặc điểm một số ngôi mộ đã được ghi nhớ một cách vô thức vào trí nhớ của chị. Đó là hiện tượng ký ức ẩn giấu rất quen thuộc với giới tâm lý học. Trong hiện tượng đó, ta nhìn thấy, nghe được, đọc ra, thu nhận một số thông tin mà không biết là ta đã biết chúng. Vì ta không biết nên chúng ẩn giấu trong vô thức (hoặc vì ẩn giấu nên ta không biết). Khi chúng bất chợt hiện ra ở ý thức, ta rất ngạc nhiên không hiểu từ đâu và vì sao ta lại biết chúng.


    Nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng đang tìm mộ liệt sĩ bên hồ Đắk Lốp (Ảnh: Caxahoc.vn)

    Cần nhấn mạnh thêm rằng, trong lĩnh vực dị thường, rất nhiều hiện tượng lạ có thể giải thích bằng hiện tượng này. Chẳng hạn một nhóm du khảo dừng chân nghỉ trưa tại một gốc cây to. Bỗng trong đầu người trưởng nhóm vang lên mệnh lệnh: Hãy đi chỗ khác ngay! Mệnh lệnh cứ lặp đi lặp lại mãi cho đến khi cả nhóm vội vàng rời khỏi gốc cây. Giây lát sau, một cành cây to rơi xuống. Tai họa chắc chắn xảy ra nếu nhóm trưởng không tuân theo mệnh lệnh “siêu hình”. Đó là sự tiên tri hay thần linh mách bảo? Câu trả lời là ký ức ẩn giấu. Vừa dừng chân nghỉ, nhóm trưởng vô tình nhìn thấy cành cây trên cao đang lắc lư (cảm nhận một cách vô thức). Cần lưu ý là trường nhìn của chúng ta khá rộng, nhưng về mặt ý thức, ta chỉ cảm nhận được những gì ta chăm chú nhìn thôi; phần còn lại thuộc về vô thức. Và chính vô thức người trưởng nhóm đã cứu nhóm du khảo.

    Ở đây cũng vậy, khi được yêu cầu, chị Năm qua “đức ông” vô hình, đã tùy tiện gán một ngôi mộ cho anh thanh niên, với niềm tin tưởng rằng, hành động đó sẽ được hoan nghênh từ nhiều phía. Có ai đi tìm mộ mà lại hy vọng không tìm được mộ!

    * Trường hợp 2: Đây là trường hợp khá điển hình minh họa cho thủ thuật quen thuộc của giới đồng cốt: tìm mọi cách đánh vào tình cảm con người. Khi tình cảm dâng cao thì lý trí xuống thấp; và người ta dễ dàng chấp nhận mọi phán quyết của cô đồng. Khi chị phụ nữ nức nở vì thấy “ông” bảo hồn cha chị đang khóc lóc thảm thiết, nói gì mà chị chẳng tin! Thông tin về “mấy cái cúc áo” thì là kết quả của kinh nghiệm, vì áo trấn thủ thời chống Pháp rất bền.

    Khi người viết kể với một phóng viên báo An ninh thế giới, anh liền cho biết, nói hài cốt nằm dưới chân móng hội trường tỉnh ủy Bình Thuận là không đúng vì tòa nhà này có từ thời Pháp thuộc. Còn việc mang bát hương tới đón “hồn” về thờ hoàn toàn thuộc về tín ngưỡng, nên khoa học không cần phải giải thích.

    *Trường hợp 3: Trường hợp này là minh họa rõ ràng cho một thủ thuật khác của giới lên đồng: nói dựa theo phản ứng của người cầu hồn trước những lời thăm dò nước đôi mà cô đồng khéo léo đưa ra đúng lúc. Câu nói của “ông”: “Ngày xưa đó là rừng, nhưng bây giờ thì khác nhiều rồi” là mồi câu. Người tìm mộ đã mắc câu khi mách: “Bây giờ là ruộng sắn”. Và “ông” chỉ việc phán: “Thì ông cũng bảo thế” là ung dung giật được con cá mong ước: sự thán phục và tin tưởng của mọi người. Sau đó “ông” nói gì người ta cũng tin!

    Rồi những lời phán của “ông”, rằng cứ phải đào tìm hài cốt, chỗ này không thấy thì đào chỗ khác, không đào thì thấy làm sao được (!) là những điều quá hiển nhiên, theo kiểu “mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông”, ấy vậy mà chẳng ai phản đối cả. Tôi thấy chị phụ nữ cũng thất vọng, nhưng chị tế nhị không nói ra. Trường hợp này còn thú vị ở chỗ, vừa vào là “ông” trách ngay: “Hồn anh cô trách cô sao bây giờ mới đi tìm”. Chị phụ nữ phản ứng: “Vì gặp nhiều khó khăn nên nay mới đi tìm được, sao không thông cảm mà lại trách”. Thế là “ông” vội hòa giải: “Người ta đã hy sinh vì dân vì nước, nay trách móc chút ít cũng được chứ sao”. Sao mà “ông” khéo thế!

    Thế hóa ra cô Năm không có một chút công trạng gì hay sao? Có lẽ không phải như vậy, vì theo lời đồn thì hình như cô có khả năng cảm xạ.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

  17. #15
    Thành viên gắn bó nobita85uct's Avatar
    Ngày tham gia
    17-11-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    5,380
    Cảm ơn
    1,273
    Đã được cảm ơn 1,174 lần ở 563 bài viết

    Mặc định

    Kỳ 13: Ngoại cảm của một trường hợp điển hình

    Như đã trình bày ở hai kỳ trước, việc tiếp xúc với “vong” hay nói chuyện với “linh hồn” liệt sĩ hoàn toàn chỉ là cuộc tự nói chuyện do giới đồng cốt bịa đặt, như một thủ thuật tạo niềm tin, qua đó họ có thể thu lượm được một số thông tin có ích từ thân nhân người chết. Báo chí có lần nói tới khả năng dùng cảm xạ để phát hiện hài cốt dưới lòng đất?

    Cảm xạ là gì?

    Thuật ngữ cảm xạ (dowsing) được dùng lần đầu tiên vào năm 1540 trong tác phẩm về khai mỏ mang tên De re Metallica của Georgius Agricola, được ấn hành tại Basel, Thụy Sĩ, như một kỹ thuật tìm khoáng sản hay đồ vật bị chôn giấu.

    Trong khi đó cuốn Phục hồi Pluton của Nam tước phu nhân Beausoleil năm 1640 khuyến khích cách dùng gậy để “cảm xạ” các nguồn nước ngầm; kỹ thuật này phổ biến khắp châu Âu. Ngược với cái tên nghe lạ tai, kỹ thuật cảm xạ thực ra rất đơn giản. Muốn tìm nguồn nước, đồ vật chôn giấu... nhà cảm xạ cầm một đoạn cây nhỏ hình chữ Y hay một con lắc trên hai tay và đi lại trên vùng đất nghi ngờ. Bình thường cây gậy nằm ngang ở vị trí cân bằng, còn con lắc dao động bình thường theo chiều ngang. Khi cây gậy mất thăng bằng hay con lắc dao động bất thường, nhà cảm xạ dừng lại và đánh dấu trên mặt đất. Theo họ, dưới vị trí đánh dấu có nguồn nước ngầm hay hài cốt người chết, và chúng tác dụng lên cây gậy hay con lắc qua một tương tác bí ẩn nào đó.

    Cần nói thêm là giới khoa học chính thống nghi ngờ khả năng thực tế của cảm xạ, vì họ chưa tìm được lời giải thích hợp lý. Một trong nhiều giả thuyết được nêu ra là, đồ vật chôn dưới đất làm biến động từ trường trái đất, và một số người có khả năng đo được sự thay đổi đó.

    Cảm xạ trong tìm mộ?

    Như đã trình bày, khi lên đồng, cô Năm nhập vai một “đức ông” có khả năng vẽ sơ đồ nơi chôn cất mộ. Bằng cách tung đồng xu, “ông” sẽ xác định hài cốt đang nằm tại khu vực được đánh số nào đó, chẳng hạn khu vực số 2. Nhưng khu vực số 2 là khu vực nào? Khi người đi tìm mộ hỏi như vậy, “ông” trả lời ngay: “Phải đi hỏi chứ. Đi hỏi đồng đội, hỏi chính quyền, hỏi huyện đội, tỉnh đội xem hài cốt nằm ở đâu. Và khi đã hỏi được thì về báo ngay để cô Năm đến tìm”.

    Tóm lại, ở trường hợp cô Năm, quá trình tìm mộ chỉ thực sự bắt đầu khi người nhà đến báo cho cô vị trí nơi chôn cất, chẳng hạn tại một ruộng ngô hay nương sắn nào đó. Toàn bộ chuỗi lên đồng, vẽ sơ đồ, nói chuyện với người chết, xác định vị trí hài cốt trên sơ đồ... chỉ là động tác giả. Quá trình tìm mộ thật chỉ bắt đầu khi cô Năm theo chân người nhà đến tận nơi từng chôn cất người đã khuất. Vì khu vực có thể rộng, địa hình biến đổi theo tháng năm, nên người nhà và đồng đội có thể đã đào nhiều nơi nhưng chưa thấy hài cốt. Cô Năm nói có thể giúp họ tìm lời giải, bằng cách đi lại nhiều lần trên khu đất đó.

    Một câu hỏi mang tính quyết định cần trả lời là, khả năng cảm xạ của cô Năm có đáng tin cậy hay không? Người viết cho rằng thật khó trả lời khi chưa được tận mắt theo dõi quá trình cảm xạ trên thực địa. Liệu lời kể khi nào thấy bỏng rát bàn chân thì dừng lại của cô có đáng tin hay không, khi trước đó cô đã dùng hàng loạt thủ thuật “lừa gạt vô thức” (thuật ngữ chuyên môn chỉ hành động lừa gạt không chủ ý ở trạng thái vô thức) để gặt hái niềm tin của mọi người? Hay lúc đó cô không thấy bàn chân bỏng rát, mà chỉ thấy một số dấu hiệu gợi ý rằng ở dưới mặt đất có thể có hài cốt?

    Chỉ cô Năm mới trả lời được câu hỏi này, mà cô thì nhất định không chịu tiết lộ. Đây chính là khó khăn cơ bản của việc nghiên cứu khả năng tìm mộ nói riêng, các khả năng dị thường khác nói chung.

    Kinh nghiệm khảo sát khả năng cảm xạ tìm nước ngầm trên thế giới cho thấy, khi được thử nghiệm tại hiện trường (như trường hợp cô Năm tìm mộ), các nhà cảm xạ đạt tỷ lệ thành công rất cao, nhưng khi các ám hiệu địa chất được loại trừ, tỷ lệ đó giảm xuống đáng kể. Cần nói thêm là tỷ lệ thành công của cảm xạ tuy cao nhưng không hơn khả năng của một nhà địa chất có kinh nghiệm. Điều đó cho thấy dường như giới cảm xạ chỉ dùng các dấu hiệu địa chất để tìm nước ngầm (như vị trí các mô đất, khe lạch; cây cối xanh tốt hơn...).

    Ở trường hợp cô Năm, không loại trừ các dấu hiệu mang tính chỉ dẫn như vậy. Chẳng hạn trên vùng đất khô cằn mà lại thấy bụi cây tươi tốt hơn thì nhiều khả năng bên dưới có điều khác thường, chẳng hạn một hài cốt. Đào lên thấy hài cốt thì tốt, nếu không thì một chút đất đen mủn cũng được xem là dấu hiệu của hài cốt! Vai trò quyết định ở đây thuộc về gia đình, bạn bè và chính quyền. Vì thế lúc tỉnh lại sau khi lên đồng, cô Năm nói với nữ phóng viên đi cùng tôi (đại ý): Công của cô Năm chỉ 1% thôi, còn 99% thuộc về gia đình, đồng đội và chính quyền. Về điểm này thì tôi hoàn toàn đồng ý với cô: 1% đó thuộc về công khuyến khích mọi người cố gắng; càng cố gắng thì khả năng tìm thấy hài cốt càng cao.

    Và như thế con số hàng ngàn bộ hài cốt đã được cô Năm tìm thấy chỉ là một con số chưa được kiểm chứng và không đáng tin cậy mà thôi. Đó cũng là tình trạng chung bất cứ một nhà ngoại cảm tìm mộ nào khác.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net
    2 tuổi cai sữa, 25 tuổi tái nghiện.

Trang 1 của 2 12 CuốiCuối

Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Các Chủ đề tương tự

  1. Giờ này dịch tả, ngươi sẽ mắc bệnh >:)
    Bởi Sagi trong diễn đàn Nhạc Quảng cáo - Game Show - Ring Tune....
    Trả lời: 0
    Bài viết cuối: 15-05-2009, 02:42 AM
  2. Trả lời: 1
    Bài viết cuối: 10-05-2009, 04:14 PM
  3. Trả lời: 5
    Bài viết cuối: 02-10-2008, 11:56 PM
  4. HappyNewYearLờiViệtRemix Thể hiện Thiên Trường Địa Hải
    Bởi djnhatnam trong diễn đàn Nhạc Việt Nam
    Trả lời: 0
    Bài viết cuối: 05-02-2008, 08:59 AM
  5. Trả lời: 3
    Bài viết cuối: 12-01-2008, 12:25 AM

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •