Một vài bức ảnh về Hệ Mặt Trời của chúng ta :clap: :clap: :clap:
(Tiếc là dung lượng ko cho được file ảnh lớn nên xem hơi bé 1 chút :d )
frostyheart: Dung lượng post ảnh to tùy ý, các bạn bấm vào ảnh để xem ảnh to theo đúng kích thước.
Printable View
Một vài bức ảnh về Hệ Mặt Trời của chúng ta :clap: :clap: :clap:
(Tiếc là dung lượng ko cho được file ảnh lớn nên xem hơi bé 1 chút :d )
frostyheart: Dung lượng post ảnh to tùy ý, các bạn bấm vào ảnh để xem ảnh to theo đúng kích thước.
Từ Mặt Trời ra ngoài : Sun, Mercury, Venus, Earth, Mars, Jupiter, Saturn, Uranus, Neptune, Pluto
Tiếng Việt: Mặt Trời, Thủy Tinh, Kim Tinh, Trái Đất, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh, Thiên Vương Tinh, Hải Vương Tinh, Diêm Vương Tinh
Còn một hành tinh thứ 10 mới được khám phá ra nhưng chưa được công nhận rộng rãi, tên của nó là Xena
hay lắm
bác hell kể ra cũng có trình đấy
nếu muốn em có thể post vài cái cho mọi người thưởng ngoạn
chúc vui
http://www.wodaski.com/wodaski/image...ltraviolet.jpg
Hình MT của chúng ta chính hiệu đấy ! Nhìn hay nhỉ ?
Nhưng mờ hum nay em ko mang sách ra đây , thui để khi nào nhớ mang nó ra wan' net theo thì sẽ đưa thêm thông tin về nó vậy !!
http://www.vt-2004.org/mt-2003/mt-20...omo-normal.jpg
Nhật thực toàn phần : theo ghi chép thì chỉ xảy ra 2 lần / năm , khi Mặt trời , Mặt trăng và Trái đất thẳng hàng nhau , và Mặt trăng ở giữa Mặt trời và trái đất !!
Nguyệt thực toàn phần: cũng như nhật thực toàn phần , xảy ra theo ghi chép là 2 lần / năm , sau nhật thực toàn phần 2 tuần , khi này , TD lại ở giữa MT & Mt !
Chú thik : đây là toàn phần chứ ko phải 1 phần !
1-Thuỷ tinh:
Cách mặt trời 58 triệu km, có khối lượng bằng 0,05 khối lượng trái đất nhưng là hành tinh có khối lượng riêng lớn nhất trong hệ mặt trời. Thuỷ tinh quay quanh mặt trờihết 88 ngày và quay quanh trục hết 58 ngày đêm trái đất.
2-Kim tinh:
Cách mặt trời 108 triệu km, có khối lượng bằng 0,82 khối lượng trái đất và bán kính xích đạo bằng 0,95 bán kính xích đạo trái đất. Một năm sao Kim dài bằng 225 ngày đêm trái đất và một ngày của nó dài từ 20-24 ngày đêm trái đất.
3-Hoả tinh:
Cách mặt trời 228 triệu km. Sao Hoả có hai vệ tinh đều nhỏ hơn mặt trăng của trái đất. Khối lượng của nó bằng 0,12 khối lượng trái đất, nó tự quay quanh trục theo chu kì 24h37mn và quay quanh mặt trời hết 687 ngày đêm trái đất.
4-Mộc tinh:
Là hành tinh lớn nhất trong hệ mặt trời với bán kính xích đạo =11,3 lần của trái đất. Mộc tinh cách xa MT hơn TĐ 5,2 lần. Nó quay quanh MT 1 vòng hết 12 năm nhưng 1 ngày chỉ có 9h50mn.Sao Mộc có khối lượng = 2.5 lần tổng khối lượng các hành tinh khác trong hệ MT cộng lại !
5-Thổ tinh:
Cách MT 9,5 lần khoảng cách TĐ-MT, sao thổ là hành tinh lớn thứ 2 trong hệvớib bán kính xích bđạo lớn hơn trái đất 9,5 lầnvà khối lượng bằng 95 lần khối lượng trái đất.
Thổ tinh quay quanh MT hết 30 năm TĐ và 1 ngày đêm sao Thổ dài 10h
6-Thiên vương tinh:
Cách MT hơn TĐ 19,2 lần, có bán kính lớn gấp 4 lần bán kính TĐ , được phát hiện năm 1781 .Một nămsao Thiên vương tinh bằng 84 năm TĐ và một ngày dài 10h49mn. Một năm có 72 ngàn ngày đêm , là hành tinh duy nhất trong hệ MT có trục nằm ngang với mặt phẳng quỹ đạo các hành tinh.
7- Hải vương tinh:
được phát hiện vào năm 1846, cách xa MT hơn TĐ 30 lần, có kích thước tương đương sao thiên vương và khối lượng bằng 17,2 lần khối lượng TĐ. Một năm sao hải vương dài băng 165 năm TĐ và một ngày đêm ở đây dài 15h
8- Sao Diêm vương:
Cách MT ~ 6 tỉ km, được phát hiện vào năm 1930. Là hành tinh có quỹ đạo kì lạ nhất hệ MT , hình bầu dục dẹt .Sao DV tự quay quanh trục hết 6 ngày đêm TĐ và một năm dài bằng 247 năm TĐ. Bán kính hành tinh này là 1140 km, có tỷ trong bằng 2. Diêm vương tinh được bao phủ bởi một lớp vật chất nănmg hơn nước đá, chủ yếu là methane trắng, ngoài ra còn có N2 và CO dưới dạng băng hà, trọng lực ở đây chỉ bằng 1/380 của TĐ.
Sao diêm vương có một vệ tinh duy nhất là Charon phát hiện năm 1978 , cách nó khoảng 19640km và có bán kính 590km.
Trong 1 năm có thể xảy ra 7 lần Nhật và Nguyệt thực nhưng nhật thực tòan phần thì rất hiếm, thường chỉ là nhật thực 1 phần thui và cũng ít người được quan sát. Tháng 10 năm vừa rồi có xảy ra hiện tượng nguyệt thực tòan phần nhưng đáng tiếc là chúng ta ko quan sát được.
Nhật thực chia làm 2 lọai: Nhật thực tòan phần, nhật thực 1 phần (hay còn gọi là nhật thực vành khuyên)
Nhật thực toàn phần xảy ra khi Mặt Trăng che kín tòan bộ Mặt Trời (đương nhiên là cả 3 thiên thể này đều thẳng hàng ), nhật thực 1 phần khi Mtrang chỉ che được 1 phần của Mặt Trời. Hiện tượng nhật thực xảy ra vào thời kỳ ko trăng hay con gọi la thời kỳ ngày huyền
Nguyệt thực thì ko đúng như Iloveducly nói đâu: hiện tượng này xảy ra khi Mat Trang đi vào bóng của Trai Dat va bị bóng của Trai đất che khúat, bản chất khác hẳn nhật thực. Và hơn nữa, nguyệt thực xảy ra vào những ngày trăng tròn. Hòan tòan trái ngược nhau đấy.
Nhung cung nhu Nhat thuc, nguyet thuc cung co 2 loai: nguyet thuc toan phan va nguyet thuc 1 phan.
(My computer was be an error, so I can't type by Vietnamesse )
These pics about The solar Eclipse (Nhat thuc)
here is the Lunar Eclipse (Nguyet thuc)
Phiền anh ( hay chị ) Quác thêm dấu vào bài viết hộ em và mọi người chút , khó đọc wa'!
Uhm ! Quác nhầm rồi ạ , ý IloveDucLyI là Nguyệt thực tpcũng như Nhật thực tp ở chỗ là mỗi năm xảy ra 2 lần , còn bên cành bài có chú thik là lúc đó TD ở giữa Mt và Mt mà !
Đây là hình ảnh Nhật thực và Nguyệt thực mô tả bằng hình vẽ ^^
http://www.acmecompany.com/stock_thu..._varieties.jpg
Hệ Mặt trời ( HMT ) là một tập hợp các thiên thể trong vũ trụ , bao gồm MT , các hành tinh cũng các vệ tinh của chúng , ngoài ra còn có các thiên thể trong vũ trụ như thiên thạch , sao chổi ...
Hiện tại , HMT có 9 hành tinh được chia thành 2 nhóm :
1, Nhóm hành tinh bên trong
Bao gồm Thủy tinh , Kim tinh , Trái đất , Hỏa tinh . CHúng là những hành tinh có khối lượng vừa phải , cấu tạo bởi các loại đá có thành phần chủ yếu là silicat , sắt , có tỉ trọng khá lớn , bề mặt rắn chắc , bầu khí quyển đặc hoặc rất loãng , có hành tinh có vệ tinh hoặc ko có .
Khi nghiên cứu về các hành tinh bên trong cho thấy
- Trên Thủy tinh và Mặt trăng có rất nhiều hố thiên thạch lưu giữ cách đây 4 tỉ năm.
- Trên Hỏa tinh , đặc biệt trên Trái Đất và Kim tinh lại có ít hố thiên thạch và phần lớn là những thiên thạch mới va chạm gần đây .
- Các hoạt động nội lực ko còn diễn ra trên Hỏa tinh và Mặt trăng cách đậy 3 tỉ năm, chỉ còn lại trên Trái Đất, Kim tinh và Hỏa tinh.
- Khí quyển ko có trên Thủy tinh , Mặt trăng , nhưng lại có trên Trái đất , Kim tinh và Hỏa tinh với thành phần hóa học , độ đậm đặc khác nhau...
2, Nhóm hành tinh bên ngoài
Bao gồm các hành tinh khổng lồ Mộc tinh , Thổ tinh , Thiên vương tinh , Hải vương tinh , Diêm vương tinh ( trừ DVT nhỏ hơn cả Mặt trăng ). Các hành tinh khổng lồ được cấu tạo bởi các chất khí hóa lỏng , có độ đậm đặc khác nhau xen lẫn nước , có tỉ trọng thấp , có nhiều vệ tinh xung quanh. Ngoại trừ DVT có đặc điểm khác , có 1 vệ tinh và tự quay khá nhanh.
HMT được hình thành từ 1 trong vô số đám mây bụi khí ( tinh vân ) tồn tại trong vũ trụ. Phải mất hàng tỉ năm chúng mới lắng tụ dần hình thành nên MT các hành tinh và vệ tinh...Từ đó đến nay đã là 4.6-5 tỉ năm.
Mặt trời
- Chu kì quay quanh trục :25 - 30 ngày
- Đường kính ở xích đạo ( km ) :1.400.000
- Khối lượng so với Trái đất ( 5.974 x 10^24 ) :335.000
- Khối lượng riêng (g/cm^3): 1,4
- Vận tốc trên quỹ đạo ( km/s): 617,7
- Gia tốc trọng trường ( m/s^2 ) :273,8
- Nhiệt độ bề mặt :
+ Trung bình :6.000
- Thành phần cấu tạo chủ yếu : He , H
- Số vệ tinh :61
- Khí quyển :có
- Thành phần khí quyển :Fe , Ni , Ca , Ar .. bị ion hóa rất cao.
http://gw.marketingden.com/planets/i...ize/thesun.jpg
Thủy tinh
- Khoảng cách đến Mặt trời ( km và đơn vị thiên văn - ĐVTV ) :58 và 0,387
- Chu kì quay quanh Mặt trời :87,9 ngày
- Chu kì quay quanh trục : 176 ngày
- Độ nghiêng của trục trên quỹ đạo ( tính bằng độ ) : 2
- Độ nghiêng của quỹ đạo so với mặt phẳng Hoàng đạo ( tính bằng độ ) :7
- Đường kính ở xích đạo ( km ) :4.878
- Khối lượng so với Trái đất ( 5.974 x 10^24 ) :0,06
- Khối lượng riêng ( g/cm^3):5,45
- Vận tốc trên quỹ đạo ( km/s): 47,9
- Gia tốc trọng trường ( m/s^2 ) :3,78
- Nhiệt độ bề mặt :
+ Cao nhất :475
+ Trung bình :300
+ Thấp nhất :-183
- Thành phần cấu tạo chủ yếu :Fe , silicat
- Số vệ tinh :0
- Khí quyển :Không có
http://epod.usra.edu/archive/images/mercury.jpg
Kim tinh
- Khoảng cách đến Mặt trời ( km và đơn vị thiên văn - ĐVTV ) :108,2 và 0,723
- Chu kì quay quanh Mặt trời :224,7 ngày
- Chu kì quay quanh trục : 243 ngày
- Độ nghiêng của trục trên quỹ đạo ( tính bằng độ ) : 2
- Độ nghiêng của quỹ đạo so với mặt phẳng Hoàng đạo ( tính bằng độ ) :3,39
- Đường kính ở xích đạo ( km ) :12.104
- Khối lượng so với Trái đất ( 5.974 x 10^24 ) :0,82
- Khối lượng riêng ( g/cm^3):5,25
- Vận tốc trên quỹ đạo ( km/s): 35
- Gia tốc trọng trường ( m/s^2 ) :8,60
- Nhiệt độ bề mặt :
+ Trung bình :480
- Thành phần cấu tạo chủ yếu :Fe , silicat
- Số vệ tinh :0
- Khí quyển :có
- Thành phần khí quyển :CO2,N2, H2O, Ar
http://seds.lpl.arizona.edu/nineplan.../gif/Venus.jpg
Trái đất
- Khoảng cách đến Mặt trời ( km và đơn vị thiên văn - ĐVTV ) :152,1 và 1
- Chu kì quay quanh Mặt trời :3365,225 ngày
- Chu kì quay quanh trục : 24 giờ - 1 ngày
- Độ nghiêng của trục trên quỹ đạo ( tính bằng độ ) : 23,5
- Độ nghiêng của quỹ đạo so với mặt phẳng Hoàng đạo ( tính bằng độ ) :0
- Đường kính ở xích đạo ( km ) :12.756
- Khối lượng so với Trái đất ( 5.974 x 10^24 ) :1
- Khối lượng riêng ( g/cm^3):5,52
- Vận tốc trên quỹ đạo ( km/s): 29,8
- Gia tốc trọng trường ( m/s^2 ) :9,78
- Nhiệt độ bề mặt :
+ Cao nhất :55
+ Trung bình :22
+ Thấp nhất :-70
- Thành phần cấu tạo chủ yếu :Fe , silicat
- Số vệ tinh :1
- Khí quyển :có
- Thành phần khí quyển :N2, O2, Ar , H2O , CO2
http://www.jplrecclubs.caltech.edu/h...otos/Earth.jpg
Hỏa tinh
- Khoảng cách đến Mặt trời ( km và đơn vị thiên văn - ĐVTV ) :249,1 vầ 1,523
- Chu kì quay quanh Mặt trời :687 ngày
- Chu kì quay quanh trục :24,6 giờ
- Độ nghiêng của trục trên quỹ đạo ( tính bằng độ ) : 25,2
- Độ nghiêng của quỹ đạo so với mặt phẳng Hoàng đạo ( tính bằng độ ) :1,85
- Đường kính ở xích đạo ( km ) :6.787
- Khối lượng so với Trái đất ( 5.974 x 10^24 ) :0,11
- Khối lượng riêng ( g/cm^3):3,94
- Vận tốc trên quỹ đạo ( km/s): 24,1
- Gia tốc trọng trường ( m/s^2 ) :3,72
- Nhiệt độ bề mặt :
+ Cao nhất :-25
+ Trung bình :-50
+ Thấp nhất :-120
- Thành phần cấu tạo chủ yếu :Fe , siliccat
- Số vệ tinh :2
- Khí quyển :có
- Thành phần khí quyển :N2 , CO2 , H2O
http://tes.asu.edu/images/SOL_SYST/M...s_cerberus.gif
Mộc tinh
- Khoảng cách đến Mặt trời ( km và đơn vị thiên văn - ĐVTV ) :778 và 5,203
- Chu kì quay quanh Mặt trời :11 năm 10 tháng
- Chu kì quay quanh trục :9,9 giờ
- Độ nghiêng của trục trên quỹ đạo ( tính bằng độ ) : 3,1
- Độ nghiêng của quỹ đạo so với mặt phẳng Hoàng đạo ( tính bằng độ ) :1,3
- Đường kính ở xích đạo ( km ) :142.984
- Khối lượng so với Trái đất ( 5.974 x 10^24 ) :317,89
- Khối lượng riêng ( g/cm^3):1,33
- Vận tốc trên quỹ đạo ( km/s): 13,1
- Gia tốc trọng trường ( m/s^2 ) :22,88
- Nhiệt độ bề mặt :
+ Trung bình :-150
- Thành phần cấu tạo chủ yếu :He , H
- Số vệ tinh :16
- Khí quyển :có
- Thành phần khí quyển : H2 , He , nước đóng băng , khí độc
http://sci.esa.int/science-e-media/img/11/jupiter.jpg
Thổ tinh
- Khoảng cách đến Mặt trời ( km và đơn vị thiên văn - ĐVTV ) :1.427 và 9,55
- Chu kì quay quanh Mặt trời :29,5 năm
- Chu kì quay quanh trục :10,6 giờ
- Độ nghiêng của trục trên quỹ đạo ( tính bằng độ ) : 26,7
- Độ nghiêng của quỹ đạo so với mặt phẳng Hoàng đạo ( tính bằng độ ) :2,49
- Đường kính ở xích đạo ( km ) :120.536
- Khối lượng so với Trái đất ( 5.974 x 10^24 ) :95,18
- Khối lượng riêng ( g/cm^3):0,69
- Vận tốc trên quỹ đạo ( km/s): 9,6
- Gia tốc trọng trường ( m/s^2 ) :9,05
- Nhiệt độ bề mặt :
+ Trung bình :-180
- Thành phần cấu tạo chủ yếu :He , H
- Số vệ tinh :22
- Khí quyển :có
- Thành phần khí quyển :H2 , He , nước đóng băng , khí độc
http://soc.jpl.nasa.gov/images/saturn-seasons2.jpg
Thiên vương tinh
- Khoảng cách đến Mặt trời ( km và đơn vị thiên văn - ĐVTV ) :2.869 vầ 19,21
- Chu kì quay quanh Mặt trời :84 năm
- Chu kì quay quanh trục :17,2 giờ
- Độ nghiêng của trục trên quỹ đạo ( tính bằng độ ) : 98
- Độ nghiêng của quỹ đạo so với mặt phẳng Hoàng đạo ( tính bằng độ ) :0,77
- Đường kính ở xích đạo ( km ) :51.118
- Khối lượng so với Trái đất ( 5.974 x 10^24 ) :14,5
- Khối lượng riêng ( g/cm^3):1,27
- Vận tốc trên quỹ đạo ( km/s): 6,8
- Gia tốc trọng trường ( m/s^2 ) :7,77
- Nhiệt độ bề mặt :
+ Trung bình :-214
- Thành phần cấu tạo chủ yếu :He , H
- Số vệ tinh :15
- Khí quyển :có
- Thành phần khí quyển :H2 , He , CH4
http://gw.marketingden.com/planets/i...ize/uranus.jpg
Hải vương tinh
- Khoảng cách đến Mặt trời ( km và đơn vị thiên văn - ĐVTV ) :4.537 vầ 30,10
- Chu kì quay quanh Mặt trời :164,8 năm
- Chu kì quay quanh trục :16,1 giờ
- Độ nghiêng của trục trên quỹ đạo ( tính bằng độ ) : 29,6
- Độ nghiêng của quỹ đạo so với mặt phẳng Hoàng đạo ( tính bằng độ ) :1,77
- Đường kính ở xích đạo ( km ) :49.528
- Khối lượng so với Trái đất ( 5.974 x 10^24 ) :17,2
- Khối lượng riêng ( g/cm^3):1,64
- Vận tốc trên quỹ đạo ( km/s): 5,4
- Gia tốc trọng trường ( m/s^2 ) :11,00
- Nhiệt độ bề mặt :
+ Trung bình :-220
- Thành phần cấu tạo chủ yếu :băng , CH4 , NH3 , silicat
- Số vệ tinh :8
- Khí quyển :có
- Thành phần khí quyển : H2 , He , CH4
http://www.mikeoates.org/naw96/img/neptune/neptune.jpg
Diêm vương tinh
- Khoảng cách đến Mặt trời ( km và đơn vị thiên văn - ĐVTV ) :5.900 và 39,4
- Chu kì quay quanh Mặt trời :247 năm 8 tháng
- Chu kì quay quanh trục : 6,3 giờ
- Độ nghiêng của trục trên quỹ đạo ( tính bằng độ ) : 122,6
- Độ nghiêng của quỹ đạo so với mặt phẳng Hoàng đạo ( tính bằng độ ) :17,2
- Đường kính ở xích đạo ( km ) :2.284
- Khối lượng so với Trái đất ( 5.974 x 10^24 ) :0,0025
- Khối lượng riêng ( g/cm^3):2,03
- Vận tốc trên quỹ đạo ( km/s): 4,7
- Gia tốc trọng trường ( m/s^2 ) :4,37
- Nhiệt độ bề mặt :
+ Trung bình :-230
- Thành phần cấu tạo chủ yếu :
- Số vệ tinh :1
- Khí quyển :có
- Thành phần khí quyển :CH4, N2
http://zetajanus.webastro.net/page_a.../pluton-0.jpeg
ah, peace kiếm đâu ra nhiều thông tin hay dữ vậy??? Mình cũng thích tìm hiểu những vấn đề này lắm! Giỏi!
Mà B ơi, em xem chú thích lại mấy bài em vừa post đi (10 bài trên này này), em ko nói rõ là những thông tin đó là của "cái gì" (chắc là hành tinh), thì mọi người ko biết đâu? Bổ sung vào cho hoàn thiện, B nhé!
Ah , có đấy chứ ạ , chắc là chị nhìn bài viết ở giao diện mừng GS nên ko thấy đấy ạ , thui , để em sửa lại vậy !
Uh..ha.. thông cảm! Mình cũng ko để ý! Rồi, hay rồi! Cảm ơn em nha!
Với mỗi hành tinh IloveDuclyI (nick j mà dài thía :38: ) nên đưa thêm ảnh của nó vào cho mọi người dễ nhận ra chớ :clap:
(Còn cái bì Nhật nguyêt thực của tớ thì tớ đã nói rõ ràng là máy của tớ lúc đấy đơ mà, bi giờ sửa lại nhá :rolleyes: )
Okie ! Mà nè , cái nick của ngừ ta đẹp thế mà chê dài há , IloveDucLyI nhá , ko phải là IloveDuclyI đâu !
Cassini tìm thấy hai vệ tinh mới của sao Thổ
Tàu Cassini - Huygens trong hành trình bay quanh sao Thổ đã khám phá ra hai mặt trăng mới của hành tinh có vành sáng này, nâng tổng số mặt trăng tự nhiên của nó lên 33.
Hai vệ tinh - được đặt tên tạm thời là S/2004 S1 và S/2004 S2 - có đường kính lần lượt là 3 và 4 km, và nằm cách trung tâm sao Thổ khoảng 194.000 km và 211.000 km.
Các quan chức cho biết đây có thể là những vật thể nhỏ nhất được nhìn thấy trên quỹ đạo quanh hành tinh khí khổng lồ này. Trước đây, các mặt trăng nhỏ nhất của nó có đường kính khoảng 20 km.
S/2004 S1 và S/2004 S2 nằm giữa quỹ đạo của hai vệ tinh lớn hơn là Mimas và Enceladus, một điều ngạc nhiên đối với các nhà khoa học vì trước đây họ vẫn tin rằng những vệ tinh tý hon như vậy đã bị xé tan từ lâu trong các cuộc va chạm với sao chổi.
Hai vệ tinh mới lần đầu tiên được quan sát thấy bởi tiến sĩ Sebastien Charnoz, tại Đại học Paris, Pháp. "Việc phát hiện ra những vệ tinh mờ nhạt này là kinh nghiệm rất thú vị, đặc biệt là cảm giác trở thành người đầu tiên nhìn thấy một vật thể mới trong thái dương hệ của chúng ta", Charnoz nói.
Các nhà khoa học thường khó tìm ra nguồn gốc của các vệ tinh bay quanh những hành tinh khổng lồ, bởi lực hút lớn từ hành tinh mẹ có thể khiến chúng trôi giạt khỏi vị trí ban đầu. Trong quá trình này, các vệ tinh khác có thể làm phiền chúng, khiến cho quỹ đạo của chúng lệch tâm hoặc nghiêng tương đối với mặt phẳng quỹ đạo.
Cũng theo chuyên gia, S/2004 S1 có thể chính là một vật từng được ghi lại trên bức ảnh duy nhất do tàu Voyager của NASA tìm thấy 23 năm trước. Khi đó, nó được đặt tên là S/1981 S14.
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...9D58FF/tau.jpg
Theo VnEx Press
Tìm thấy vật thể tối nhất trong hệ mặt trời?
Sedna - vật thể xa nhất từng được nhìn thấy trong thái dương hệ - đang bay song hành với một vệ tinh giấu mặt đặc biệt: một thiên thể thuộc loại hoàn toàn mới và có thể là tối nhất trong hệ mặt trời.
Khi phát hiện về Sedna được công bố hồi đầu năm nay, nó là vật thể lớn nhất trong hệ mặt trời từng được tìm thấy sau sao Diêm Vương. Thiên thể này đã làm ngỡ ngàng các nhà khoa học bởi nó quay một vòng quanh mình mất đến 20 ngày (so với chỉ 1 ngày của trái đất). Tốc độ xoay chậm này thường là dấu hiệu cho thấy sự tồn tại của một vệ tinh bay quanh, và lực hút hấp dẫn của nó đã làm giảm vận tốc của thiên thể.
Tuy nhiên, thời điểm đó, giới nghiên cứu không tìm ra anh bạn đồng hành nào của Sedna. Họ phỏng đoán rằng Sedna quả thực từng có một vệ tinh (và vệ tinh này đã làm nó quay chậm lại) nhưng một vụ đụng độ với một tảng băng ở vùng liên hành tinh đã khiến nó bắn ra khỏi quỹ đạo.
Nay, một nhóm nghiên cứu Anh đã chỉ ra rằng, nếu Sedna có một vệ tinh, thì vệ tinh đó phải giống với một sao chổi khổng lồ đã tắt.
Khi thừa nhận sự tồn tại của vệ tinh này, Chandra Wickramasinghe thuộc Đại học Cardiff ở Anh, và cộng sự tính toán rằng độ phản xạ ánh sáng tối đa của nó yếu đến mức các kính thiên văn vũ trụ không thể nhận ra. "Nếu quả thực vệ tinh đó tồn tại, thì nó phải là vật thể tối nhất trong hệ mặt trời", nhà nghiên cứu nói.
Để Sedna quay chậm lại, vệ tinh sẽ phải lớn gấp hàng trăm lần bất cứ sao chổi nào từng được biết, và điều đó sẽ khiến người ta phải xếp nó vào một nhóm riêng biệt.
Tuy nhiên, người khám phá ra Sedna, Michael Brown tại Viện công nghệ California, thì hoài nghi về kết quả này. Ông cho rằng nếu những quan sát (sử dụng kính thiên văn đường kính 3 m tại Cerro Tolodo ở Chile) được thực hiện cách nhau ở những khoảng gần bằng với tốc độ tự quay thật của Sedna, thì nó có thể khiến mọi người lầm tưởng rằng Sedna đang quay chậm hơn nhiều. Điều đó giống như thể bạn nhìn vào đồng hồ sau mỗi 25 giờ, và kết luận rằng ngón tay bạn mới chỉ xê dịch giữa hai số gần kề nhau.
Brown hứa sẽ sớm làm sáng tỏ bí ẩn của vệ tinh này. "Chúng tôi sẽ quay lại với kính Hubble và lạc quan vào kế hoạch quan sát để tìm kiếm một vệ tinh. Nếu có, chúng tôi sẽ sớm tìm thấy nó".
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...B9D5B95/ht.jpg
Quỹ đạo của Sedna (chấm đỏ trên cùng) mở rộng rất xa ở phía ngoài hệ mặt trời. Vùng mờ sáng là vành đai thiên thể Kuiper, vòng sáng trắng lấn ra ngoài một chút là quỹ đạo của sao Diêm Vương
Thiên Vương tinh không tĩnh lặng
Các nhà khoa học từng tin rằng sao Thiên Vương là một thế giới không vận động, tẻ ngắt. Song những bức ảnh mới đây do kính thiên văn Keck II tại Hawaii cung cấp đã cho thấy họ sai lầm như thế nào.Trên thực tế, các đám mây bão đang tích tụ vào thời điểm giao mùa và những vành đai thì rực sáng quanh hành tinh thứ 7 của hệ mặt trời. Đó là chân dung rõ nét nhất của sao Thiên Vương do kính thiên văn mặt đất chụp được.
Loạt ảnh, cho thấy sự bắt đầu mùa thu trên bán cầu Nam và bắt đầu mùa xuân trên bán cầu Bắc, là cảnh tượng chưa từng thấy trên hành tinh này, bởi nó chỉ lặp lại sau mỗi 84 năm, do Thiên Vương tinh quay rất chậm quanh mặt trời. Khi tàu Voyager 2 bay qua sao Thiên Vương vào năm 1986, nó hầu như không nhận thấy có mây hoạt động trên bề mặt hành tinh.
"Hầu hết các nhà thiên văn tin chắc rằng Thiên Vương là một hành tinh buồn tẻ tĩnh lặng", Heidi B. Hammel, thành viên nhóm nghiên cứu nói. "Những gì chúng tôi đang nhìn thấy là điều trái ngược, rằng thực ra đang có những thay đổi, và chúng có thể được nhìn thấy qua kính Keck, cũng như Kính thiên văn vũ trụ Hubble".
Các nhà thiên văn cho rằng những dải sáng và các đám mây trên Thiên Vương tinh cấu tạo từ methane, đông đặc thành những tinh thể trong bầu khí quyển. Những cơn gió mạnh nhất ghi được ở đây có tốc độ lên đến 240 và 260 km/giờ.
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...D878E/tvt2.jpg
Đây là bức ảnh rõ nhất về Thiên Vương tinh chụp từ kính thiên văn mặt đất.
Mất tiêu cái phần hum trước , đành post lại vậy !
Thông tin lấy từ trang web http://tuanson.net.tc/ * cảm ơn anh Tuấn Sơn rất nhiều *
Hệ mặt trời
Chúng ta đang sống trên Trái đất, hành tinh thứ ba và là hành tinh duy nhất có sự sống trong hệ Mặt Trời. Hệ Mặt Trời của chúng ta là một hệ hành tinh gồm 9 hành tinh quay quanh một ngôi sao duy nhất là Mặt trời. Ngoài ra chúng ta còn biết đến hơn 60 vệ tinh lớn nhỏ quay quanh các hành tinh và vô số các tiểu hành tinh, các sao chổi, thiên thạch cùng quay quanh mặt trời với những chu kì khác nhau. Vậy hệ Mặt trời của chúng ta đã ra đời như thế nào? Mặt trời và các hành tinh của nó có những đặc điểm gì ?
Sự hình thành hệ mặt trời
việc hình thành Thái dương hệ được bắt đầu từ sau khi Côpecnich, Kepler khám phá ra quy luật chuyển động của các hành tinh và Newton khám phá ra hiện tượng hấp dẫn của vật chất trong vũ trụ.
Vào giữa thế kỉ mười tám, nhà triết học người Đức là Cante lần đầu tiên đã nêu lên sự tiến hoá của vũ trụ. Ông cho rằng hệ mặt trời hình thành từ một đám tinh vân khổng lồ.
Tiếp đó, Laplace cho rằng hệ mặt trời hình thành từ một đám khí bụi khổng lồ. Khối khí bụi từ từ quay quanh trục và ở trung tâm khối là một nhân cô đặc. Thể tích khối khí bụi nhỏ dần, co lại do lực hấp dẫn làm nó quay nhanh hơn. Đến một tốc đọ quay nhất định, lực ly tâm của vành vật chất ở xích đạo lớn hơn lực hấp dẫn, vành này tách khỏi trung tâm và tiếp tục quay như trước. Khối trung tâm tiếp tục quay nhanh hơn dẫn đến việc tách ra của vành vật chất thứ 2 , thứ 3 .v.v.... Do sự phân bố vật chất trong các vành không đều nên vật chất trong vành dần tích tụ thành phôi thai của hành tinh. Mỗi phôi thai đó lại quay nhanh dần làm tách ra các vành vậtchất tạo thành vệ tinh. Phần khối khí còn lại ở trung tâm tạo thành Mặt trời.
Mặt trời
Mặt trời là ngôi saoduy nhất trong hệ Mặt trời . Có khối lượng gấp 330.000 lần Trái Đất và ở cách xa chúng ta ~150 triệu Km (được gọi là một đơn vị thiên văn- 1ua) .
Nếu nhìn lên từ Trái Đất thì chúng ta chỉ nhìn thấy mặt ngoài gọi là quang cầu ( Photosphere ) có chiều dày khoảng 700 Km .
Quang cầu trông giống như hạt gạo lấm tấm chuyển động không ngừng với vận tốc 1- 2 Km / giây , như sôi sục lên , xuất hiện những chu kỳ 5- 10 phút rồi lại chìm vào trong lòng Mặt trời như những bọt khí nóng . Quang cầu có nhiệt độ khoảng 5.500 C , là vùng hoạt động nhất trên Mặt trời và là nơi bức xạ ra các tia bức xạ Mặt trời được phóng ra xung quang .
Thỉnh thoảng người ta thấy các tai lửa bắn ra từ Mặt trời những tai lửa này có nhiệt độ khoảng 7.000 C đến 10.000 C cao hơn nhiệt độ bên trong Mặt trời suy ra các tai lửa có nguồn gốc từ bên trong Mặt trời . Tai lửa cso vai trò trao đổi chất giữa sắc cầu và nhật hoa .
Các vết đen trên Mặt trời là những vùng khí xoáy có nhiệt độ thấp hơn vào khoảng 4.500 * C . nguyên nhân là do những nhiễu loạn từ trường gây ra . Số lượng các vết đen tăng giảm theo một chu kỳ 11 năm . Các vết đen thường gặp ở hai bên xichs đạo của Mặt trời từ vĩ độ 5 - vĩ độ 40 . Các vết đen thường xuất hiện theo từng cặp : một mang điện tích dương còn một mang điện tích âm thường nằm cách nhau không xa . Các vết đen đầu tiên xuất hiện là những vết nhỏ cạnh đó sẽ có một vết khác xuất hiện và chúng lớn dần lên trong vài ngày . Phần trung tâm vết đen có thể rông hơn 100.000 Km và có thể tồn tại vài tháng .
http://www.solstation.com/stars/sol1.jpg
Bên ngoài Mặt trời là nhật hoa . Nhật hoa là một đám bụi có nhiệt độ khá cao , không nhìn thấy được , bao quanh Mặt trời, gồm các hạt nhỏ và nhẹ , chủ yếu là các hạt điện tích , những điện tử do các lớp bên dưới phóng lên . Bị gia tốc bởi nhiệt độ cao của Mặt trời các hạt bụi này phóng ra với vận oóc khá lớn và mất dần năng lượng ( do bức xạ nhiệt ) kích thước nhỏ đi và biến mất dần trong khoảng không vũ trụ . Nhật hoa như một vầng sáng bạc , hình dạng luôn thay đổi . Những năm có nhiều vết đen trên Mặt trời, nhật hoa trải rộng ra khắp xung quanh , những năm có ít vết đen trên Mặt trời , nhật hoa chỉ kéo dài dọc xích đạo . Nhật hoa chỉ có thể nhìn thấy ở Trái Đất mỗi khi có nhật thực toàn phần .
Sắc cầu (Chromosphere ) nằm giữa nhật hoa và quang cầu luôn luôn chuyển động . có chiều dày không cố định . Từ quang cầu sắc cầu xuất hiện ở bên trên như một viền sáng yếu ớt với những lưỡi đỏ nhạt , cao thấp khác nhau luôn biến động nhảy múa trên nền đám mây bụi của nhật hoa . . Vì sắc cầu rất mỏng chì khoang 3.000 km nên chúng ta chỉ có thể nhìn thấy trong khoảng vài giây khi có nhật thực toàn phần . Trong kính thiên văn , sắc cầu luôn luôn chuyển động như những đám cháy trên đồng cỏ , thỉnh thoảng lại bắn vụt lên những tai lửa cao đến hơn chục Km .
Nhân Mặt trời là nơi diễn ra phản ứng nhiệt hạch , có nhiệt độ lên đến 15.000.000 K , biến Hidro thành hêli và giải phóng một nguồn năng lượng không lồ làm Mặt trời chói sáng lên . Năng lượng này được phóng ra từ nhân ra xung quanh dưới dạng các tia bức xạ gamma và các photon gamma nhưng ngay lập tức chúng bị các nguyên tử khác hấp thụ rồi phóng ra các tia sóng điện từ có bước sóng dài hơn : Đó là vùng phóng xạ . Sau đó các vùng đối lưu chuyển chuyển tiếp các nguồn năng lượng này lên trên bề mặt Mặt trời với những dòng chuyển dịch cuộn xoáy rất mạnh và càng ra xa nhân Mặt trời thi nhiệt độ càng giảm : đó là vùng đối lưu . Ở quang cầu năng lượng này lại được những luồng đối lưu từ trong lòng Mặt trời chuyển ra bên ngoài mà ta nhìn thấy dưới dạng các hạt , cá vết đen , các tai lửa , các lữa lửa , ..... và phóng ra ngoài tứ phía các tia bức xạ gamma , cực tím , các tia thấy được bằng mắt thường và hồng ngoại ,.... Năng lượng một photon được Mặt trời sinh ra từ trong lòng của Mặt trời phải đi quãng đường đến quang cầu là khoảng 2 triệu năm . Sau khi thoát ra khỏi quang cầu nó chỉ cần có 8 phút để đến Trái Đất .
Được cấu tạo từ 92 % H , 7,8 % He , và các nguyên tố nặng khác ở trạng thái plasma ( khoảng 0,2 % ) . Nguồn năng lượng do Mặt trời có được là do phản ứng nhiệt hạch tổng hợp hidro thành He .
4 H ==> He + 2 phositron + 2 nơtrinô + 2 photon gamma .
Mỗi giây có khoảng 600 - 700 triệu tấn bị hidro tiêu huỷ và khoảng 4 triệu tấn được biến thành năng lượng theo phương trình E= mC2 . Với tốc độ tiêu thụ nhiên liệu như hiện nay thì Mặt trời còn có thể sáng thêm 5 tỷ năm nũa mặc dù nó đã sáng được 4- 5 tỷ năm rồi
Sao Thủy (Mercury)
Nhìn từ kính thiên văn cực mạnh , Sao thuỷ là một hành tinh màu vàng nhạt . Có kích thước thật 4878km và cách mặt trời 58 triệu Km . Chịu ảnh hưởng bởi ánh sáng chói loà của Mặt trời nên chúng ta chỉ có thể nhìn thấy sao thuỷ trước khi Mặt trời mọc hay lặn . Do ở gần Mặt trời nên nhiệt độ bền mặt Sao Thuỷ vào " ban ngày " lên đến 450 độ C trong khi vào " ban đêm " lại xuống đến - 150 độ C . Sở dĩ có hiện tượng chênh lệch nhiệt độ lớn như vậy như vậy là do trục của Sao Thuỷ quay rất chậm một " ngày đêm "trên Sao Thuỷ dài gấp 176 lần ở Trái Đất .
Trục quay của Sao Thuỷ chỉ nghiêng có 2 độ trên mật phẳng quỹ đạo quay quanh Mặt trời . Tuy tốc độ tự quay rất chậm nhưng vì Sao thuỷ có quỹ đạo gần Mặt trời nên có có tốc độ chóng mặt : 180.000 Km/h , quay hết một vòng tương đương với 88 ngày đêm trên Trái Đất . Với tốc độ tự quay chậm nhưng quay quanh Mặt trời nhanh như vậy nếu con người sống trên sao Thuỷ thì chúng ta sẽ thấy " Tết " nhiều hơn là thấy Mặt trời mọc vào lúc sáng sớm .
Tháng 11/1973 , tàu thăm dó Mariner 10 được phóng về phía Sao Thuỷ , năm tháng sau đã tiếp cận được với sao Thuỷ . Tàu thăm dò đã ba lần tiến hành chụp ảnh Sao Thuỷ giửi về Trái Đất trong những năm 1974 và 1975 , có lần tàu chỉ cách bề mặt Sao Thuỷ có hơn 300 Km . Nhưng bức ảnh gửi về cho thấy bề mặt Sao Thuỷ rất giống Mặt Trăng với 60 % diện tích là các miệng hố thiên thạch và 40 % diện tích còn lại thì gồ ghề lồi lõm .Một số hố thiên thạch mới hình thành có bờ miêng còn rõ nét phần còn lại là miệng hố đã bị bào mòn . Một vài miệng hố có dung nham bao phủ có thể là do đây vốn là miệng núi lửa cổ cũng có thể là do dấu vết va chạm với các mảnh thiên thạch . Miệng hố lớn nhất là Caloris Planitia có đường kính 1.400 Km. Các hố thiên thạch thường được đặt tên các nhà Toán học , Vật Lý học , Hoá Học , Hoạ sỹ , Kiến trúc sư đại tài , ..v..v..
http://www.solstation.com/stars/mercury2.gif
Về mặt cấu tạo Sao Thuỷ có lớp ngoài cùng là đá và cát bụi , bên trong là một lớp bao có cấu t ạo silicat và một cái nhân rất lớn bằng sắt chiếm 80 % khối lượng của Sao Thuỷ . Các nhà khoa học đã xếp sao Thuỷ vào loại không còn hoạt động địa chất từ hơn 3 tỷ năm nay .
Trên Sao Thuỷ hầu như không có khí quyển dù là ban ngày hay ban đêm thì bầu trời vẫn có một màu đen . Thật ra khí quyển của Sao Thuỷ rất mỏng chỉ băng 1/3 so với Trái Đất và rất loãng gồm Oxi 56 % , Natri 35 % , Heli 8 % , Kali và Hidro 1 % trong đó Natri va Kali chỉ tồn tại vào " ban ngày " còn " ban đếm " thì bị mặt đất hấp thụ nên bầu khí quyển lại càng loãng . Do không có bầu khí quyển mà lại ở gần Mặt trời nên sao Thuỷ là hành tinh có sự chênh lệch nhệt độ cao nhất trong hệ Mặt trời . Các nhà khoa học đã khăng định khó có thể có sự sống ở một hành tinh mà nhiệt độ của nó có thể làm nóng chảy cả thiếc và đồng .
Sao Kim (Venus)
Sao Kim (còn gọi là sao Hôm, sao Mai) là hành tinh thứ 2, nằm cách Mặt Trời 108,2 triệu km, có kích thước gần xấp xỉ Trái Đất chúng ta. Sao Kim là thiên thể sáng nhất trên bầu trời đêm, chỉ kém ánh sáng Mặt Trăng nên một người tinh mắt vẫn có thể đọc sách dưới ánh sáng của sao Kim. Sao Kim rất dễ nhìn thấy trên bầu trời đêm, có lúc ở phía Tây sau khi Mặt Trời lặn một lúc rồi biến mất (ta gọi là Sao Hôm), có lúc ở phía Đông trước khi Mặt Trời mọc (ta gọi là Sao Mai). Sao Kim là hành tinh ở gần Trái Đất nhất, chỉ cách ta hơn 41triệu km. Sao Kim có lớp mây trắng dày đặc bao phủ bên ngoài, với những vùng xoáy lốc ở trên cao. Lớp mây này đã phản chiếu phần lớn ánh sáng Mặt Trời làm cho sao Kim sáng hơn các hành tinh khác. Từ nhiều thế kỷ, người ta cứ nghĩ rằng với bầu trời mây dày đặc, chắc sao Kim có điều kiện thuận lợi cho sự sống phát triển. Thật ra, môi trường sống trên sao Kim rất khắc nghiệt, khác hoàn toàn với môi trường sống trên Trái Đất. Tàu thăm do Vênêra của Nga đã đo được nhiệt độ trên bề mặt sao Kim là 4750C. Tình trạng này là do hiệu ứng nhà kính của lớp mây dày giữ không cho nhiệt Mặt Trời thoát ra ngoài không gian và do sao Kim ở gần Mặt Trời. Áp lực không khí của sao Kim cũng cao gấp 90 lần áp lực không khí trên Trái Đất. Thành phần khí quyển của Sao Kim gồm 96% khí CO2, 3,5% khí nitơ và 0,5% các khí SO2, acgông, ôxyt cacbon và không tìm thấy ôxi. Không khí này chứa đầy khí độc điôxyt cacbon xen lẫn các luồng khí xoáy chứa axit sunfuric. Bầu khí quyển của sao Kim có chiều dày khoảng 200km, gồm có 3 tầng: Trên cùng là tầng sương mù dày khoảng 100 km, Kế đó là tầng mây dày đặc, dày khoảng 20 km và sát mặt đất là lớp điôxyt cacbon.
http://ffm.junetz.de/astro/planeten/pictures/venus.jpg
Do có lớp mây dày đặc bao phủ, người ta không thể nhìn thấy được bề mặt sao Kim. Năm 1982, tàu thăm dò Vênêra 13 của Nga đã đáp xuống sao Kim chụp ảnh gửi về Trái Đất cùng các số liệu đo đạc nhưng chỉ hoạt động được hơn 2 giờ trong điều kiện nóng bỏng ở đó. Từ năm 1990 đến1993, tàu thăm dò Magienlăng đã vén được tấm màn mây dày đặc của saoKim, bằng cách dùng rađa đo vẽ toàn bộ bề mặt sao Kim. Kết quả cho thấy bề mặt sao Kim gồm vài đỉnh núi cao, nhiều thung lũng rộng lớn và một ít hố thiên thạch mới có như ở trên Trái Đất. Có 2 vùng cao mà các nhà khoa học đặt tên là lục địa Aphrôđit (Arphodite Terra) lớn bằng châu Phi và lục địa Ichixta (Ishtar Terra) rộng lớn hơn nhiều.
Sự tự quay của sao Kim cũng đã gây ra nhiều tranh cãi trong giới khoa học. Thứ nhất là sao Kim quay quanh trục gần như thẳng đứng với mặt phẳng xích đạo, chỉ nghiêng có 201', và quay theo chiều từ Đông sang Tây ngược lại so với chiều tự quay của tất cả các hành tinh khác, và ngược với cả chiều quay của sao Kim quanh Mặt Trời (còn theo Hiệp hội Thiên văn Quốc tế - IAU - thì điều này là không đúng). Thứ 2 là, nếu quan sát từ bên ngoài đám mây có thể thấy rằng thời gian để sao Kim tự quay một vòng chỉ là 4 ngày, nhưng nếu dùng sóng vô tuyến quan sát mặt đất sao Kim thì thời gian đó lại là 224,7 ngày. Sự lầm lẫn ấy là do các luồng gió cực mạnh đã làm chuyển động các lớp mây trên cùng với tốc độ cực nhanh khoảng hơn 100km/giây, nên chỉ cần 4 ngày lớp mây đó đã quay được một vòng, trong khi thật ra sao Kim phải mất 224,7 ngày mới tự quay được một vòng.
Sao Kim quay trên quỹ đạo quanh Mặt Trời, với tốc độ khá nhanh 35km/giây, một vòng mất 243 ngày nên một "năm" trên sao Kim chỉ dài hơn một "ngày" không bao nhiêu. Nếu dùng ống nhòm quan sát sao Kim, chúng ta thấy bề mặt sao Kim cũng diễn ra giống như một tuần trăng, có lúc chỉ thấy sao Kim như trăng lưỡi liềm, có lúc thấy như trăng tròn, có lúc không nhìn thấy như đêm không trăng.
Về cấu tạo bên trong, sao Kim có lớp vỏ mỏng silicát, một lớp bao bằng đá và một lớp nhân đặc trong cùng gồm có sắt và niken. Sao Kim có nhiều nét gần giống với Trái Đất: đó là kích thước và khối lượng, một khoảng cách Mặt Trời, có bầu trời khí quyển dày đặc và có cấu tạo bên trong giống như nhau. Nhưng sao Kim lại có sự khác biệt với Trái Đất ở một vài điẻm : Sao Kim nhỏ hơn và ở gần Mặt Trời hơn, bầu khí quyển chứa đầy khi cacbônnic không thở được còn mây thì chứa các giọt axit sunfuric độc hại; áp lực không khí trên sao Kim tương đương với áp lực dưới dạng đại dương của Trái Đất ở độ sâu 1000 m, và cuối cùng là lớp vỏ của sao Kim dày hơn và liền một khối (trong khi lớp vỏ Trái Đất lại mỏng hơn và gồm nhiều mảnh ghép lại). Với ánh sáng rực rỡ vào ban đêm, các nhà thiên văn phương Tây đã đặt cho sao Kim cái tên "Ngôi sao thần Vệ nữ', nữ thần sắc đẹp, nhưng với bầu khí quyển độc hại và nhiệt độ nóng cháy, sao Kim như là một địa ngục của Thần Chết hơn là ngôi sao của nữ thần sắc đẹp.
Trái Đất ( Earth )
Là hành tinh thứ 3 của hệ mặt trời,với kích thước vừa phải (đường kính 12.750km),trái đất chỉ lớn hơn sao kim một chút,tỉ trọng chỉ hơn sao thuỷ một chút ,còn cấu tạo bên trong và thành phần hoá học thì trái đất không khác nhóm các hành tinh bên trong là bao nhiêu,tuy tỉ lệ từng thành phần khác với các hành tinh này.
Nhìn từ vũ trụ ,trái đất hiện ra như 1 hành tinh xanh: màu xanh biển của các đại dương,màu trắng pha lơ các mây bao bọc bên ngoài,và màu xanh lá cây chen lẫn màu nâu của các lục địa lúc ẩn lúc hiện bên dưới màn mây.
điểm thứ 1 cần nói đến là khoảng cách giữa trái đất và mat trời là 150 triệu km. Đó là khoảng cách đủ để nước có thể tồn tại được ở thể lỏng,rất cần cho sự sống. khoảng cách này cũng là khoảng cách để nhiệt đến từ mặt trờI ở mức độ thuận lợi cho các phản ứng hoá học tạo nên các hợp chất hữu cơ.
điều thứ 2 cần nói là khối lượng vừa phải của trái đất đủ để giữ lại 1 bầu khí quyển không quá đậm đặc đến mức nguy hại như ở sao kim,nhưng cũng không quá loãng đến mức không giữ được nhiệt như ở sao hoả hay mặt trăng. Trong suốt quá trìnhphát triển ,bầu khí quyển trái đất luôn biến đổi chậm chạp ,giảm dần lượng khí CO2 ,tăng dần khí oxi. đầu tiên khí cacbonic ,hơi nước và nitơ thoát ra từ các miệng núi lửa được giữ lại trong khí quyển. sau đó các đạI dương được hình thành từ sự nguội lạnh và ngưng kết của hơi nước trong khí quyển rơi xuống. Khi có đạI dương ,nước hấp thụ bớt khí CO2 trong khí quyển. đến khi các sinh vật đầu tiên xuất hiện ở biển ,trong đó có loài tảo lục ,thì sự hấp thụ CO2 và thảI khí oxi và trong không khí ngày càng tăng. Ngày nay ,khí quyển chứa 78% nitơ, 21% oxi và 1% còn loạI là CO2,acgong,metan,hơi nước và các khí khác. từ những sinh vật đầu tiên xuất hiện cho đến nay,quá trình oxi hoá bầu khí quyển trái đất đã diễn ra gần 3 ỉt năm. mặc dù có 1 ỉt lệ rất thấp ở lớp không khí đậm đặc sát mặt đất ,hơi nước (khoảng 0,5 5%), CO2 (0,03%),khí metan và ozon (vài phần triệu) lại có vai trò hết sức quan trọng đối với sự sống. Khí CO2 và hơi nước hấp thu năng lượng mặt trời ,giữ lại các tia hồng ngoại ,gây hiệu ứng nhà kính điều hoà nhiệt độ trên trái đất. còn ozon ,với nồng độ cao ở cách mặt đất 80km,có vai trò hấp thụ các tia cực tím nguy hiểm với sự sống không cho xuống đến mặt đất. khí quyển còn như 1 cỗ máy thiên nhiên sử dụng năng lượng mặt trời phân phối điều hoà nước trên khắp hành tinh dưới hình thức mây mưa, điều hoà lượng CO2 và O2 trên trái đất,..
bầu khí quyển của trái đất có chiều dày vào khoảng hơn 800 km gồm nhiều tầng. từ mặt đất lên đến độ cao 20km là tầng đối lưu có không khí đậm dặc nhất .là nơi diễn ra mọi hiện tượng khí tượng mây mưa sấm chớp ,có nhiệt độ giảm dần theo độ cao. từ độ cao 20 ?km là tầng bình lưu có nhiệt độ tăng dần từ -60o C đến 0o C,là nới các luồng không khí chuyển động theo chiều ngang với tốc độ cao và có lớp ozon ở trên cùng. tầng giữa nằm từ 50 80km là nơi các thiên thạch nhỏ va vào trái đất ,cọ sát vào không khí và bị bốc cháy tan thành sao băng. tầng nhiệt ở độ cao 80 450 km,có không khí rất loãng tồn tại dưới dạng ion điện nên còn gọi là tầng điện li,là nơi phản hồi các sóng vô tuyến trở lại mặt đất và cũng có 1 lớp ozon ngăn chặn các tia cực tím ở trên cao. Đây cũng là nơi diễn ra các hiện tượng cực quang,hiện tượng này chỉ thấy được ở vùng gần cực. trên cùng là tầng ngoài nằm từ 450km đến khoảng 800 km,không khí loãng dần và hoà vào không gian giữa các hành tinh.
http://www.nasm.si.edu/research/ceps.../EarthAS17.jpg
Các kết quả nghiên cứu gần đây cho thấy lượng ozon trong tầng thấp nhất của khí quyển ngày càng nhiều trong khi đó hàm lượng ozon trong tầng bình lưu ngày càng giảm(đã giảm tới 6%,và đã bị lủng ở nam cực) từ 20 năm trở lại đây. hậu quả của sự suy giảm này là các tia cực tím có thể xuyên qua khí quyển đến mặt đất ngày càng nhiều hơn và làm cho nhiệt độ trong tầng đối lưu và ngày càng nóng lên do hàm lượng ozon gần mặt đất ngày càng tăng.
Ngoài ra trái đất còn có đặc điểm : đây là 1 hành tinh còn đang hoạt động. từ 1 thiên thể nóng bỏng ban đầu ,mặt ngoài của trái đất nguội dần tạo thành lớp vỏ cứng của trái đất,dày khoảng 30km.lớp vỏ này gômg nhiều mảng ghép lại ,có 7 mảng lớn và hơn một chục mảng nhỏ . chúng trôi trượt ,va đập vào nhau ở bên trên lớp bao vẫn còn nóng chảy ở nhiệt độ 1.000oC ,dày khoảng 2.900km,vớI thành phần chủ yếu là sắt (90%) và các nguyên tố nhẹ silic, oxi(10%). Trong cùng là lớp nhân gồm 2 phần : nhân ngoài dày khoảng 2.200km gồm sắt,niken, oxi ở trạng thái nóng chảy đặc quánh,và nhân trong dày khoảng 1.300km,gồm sắt .niken bị nén chặc ở nhiệt độ tớI 4.000o C. nơi các mảng nền va chạm,cọ quẹt vào nhau là nơi thường xảy ra hiện tượng động đất hoặc núi lửa phun,nơi dồn ép đất đá lắng tụ dưới đáy biển lên thành núi cao.
Sự trôi trượt và chuyển dịch liên tục của các mảng nền trôi trên lớp bao làm cho bề mặt trái đất luôn biến đổi không ngừng. Cách đây 250 triệu năm ,trên trái đất chỉ có 1 lục địa duy nhất là lục địa Pangiêa và 1 đại dương khổng lồ là biển Têtít. Cách đây 120 triệu năm đã tách ra thành 2 lục địa Gôngvana và Lôraxia còn bây giừo đã thành 6 lục địa và 4 đại dưong.
Trên trái đất cũng còn không ít miệng hố thiên thạch. từ việc nghiên cứu các mẫu đất đá trên mặt trăng,sao kim,sao hoả, do các tàu thăm dò vũ trụ mang về ,cùng vớI việc nghiên cứu các miệng hố thiên thạch trên các hành tinh và các vệ tinh và vệ tinh khác trong hệ mặt trờI,các nhà khoahọc đã nhận thấy có mối tương quan giữa tuổi hành tinh với số lượng hố thiên thạch,hành tinh được hình thành càng lâu ,càng có nhiều miệng hố thiên thạch. số thiên thạch rơi vào các hành tinh ,vệ tinh nhiều nhất là trong khoảng thời gian cách đây khoảng 4 tỉ năm,giảm dần cách đây 3,5-4 tỉ năm tuổivà từ 3,5 tỉư năm trở lại đây đã ổn định ở con số không nhiều lắm( may quá các bác nhỉ). bản đồ phân bố các miệng hố thiên thạch phần lớn có tuổI dưới 200 triệu năm,còn số tuổi trên 600 triệu năm chỉ vài ba cái. Tính bình quân ra,với những thiên thạch có đường kính trên 10km thì cứ 3 triệu năm mới va chạm với trái đất 1 lần.
Trái đất tựu quay quanh trục 1 vòng hết 24 giờ và quay quanh mặt trời 1 vòng hết 365 ngày và 6 giờ vớI tốc độ 29,8km/giây. Khi quay ,trục quay của trái đất nghiêng vớI mặt phẳng hoàng đạo 23o 24 và luôn nghiêng về 1 phía, đã tạo ra các hiện tượng các mùa khí hậu. vớI hình dạng khối cầu ,khi quay trái đất đã tạo ra sự phân bố nhiệt độ không đều trên bề mặt từ xích đạo về phía 2 cực ,gây nên sự chênh lệch về khí áp ,tạo ra hệ thống các loạI gió điều hoà nhiệt độ trai đất .chuyển động quay của trái đất không quá nhanh để lực ly tâm có thể bắn chúng ta ra ngoài không gian. Lực ly tâm tác đọng lên mọi vật cùng quay theo trái đất nhưng vô cùng nhỏ.Lực ly tâm lớn nhất ở xíh đạo ,nó kéo mọi vật lên trên và làm cho chúng nhẹ hơn 1 chút ít.Vì thế mọI vật ở xích đạo cân nhẹ hơn 5o/oo so với ở 2 cực.,và cũng vì vậy mà trái đất hơi bị phình ra ở xíh đạo,bán kính xích đạo lớn hơn bán kính từ 2 cực đến tâm trái đất 21km
vớI tốc đọ quay và vớI cái nhân chứa sắt và niken,trái đất đã tạo quanh mình 1 từ trường cực mạnh mà không 1 hành tinh nào trong hệ mặt trời có được. địa từ trường bao phủ không gian quanh trái đất ,ngăn chặn mọi tia vũ trụ có hại cho sự sống ,không cho lọt xuống bề mặt trái đất.
Cấu tạo bên trong trái đất
Trong thời kì mới hình thành trái đất , đã xảy ra quá trình phân bố lại vật chất rộng lớn dưới ảnh hưởng của trường trọng lực. Những kim loại ở thể lỏng nặng hơn cả, đi vào trung tâm trái đất. Phần trên là các lớp nóng chảy gồm sunphit, oxit và các kim loại có tính tương tự lưu huỳnh.Các lớp trên cùng gồm xilicat nóng chảyvà các lớp khí, hơi của các nguyên tố nhẹ.Khi nguội lạnh, các lớp trên kết tinh và rắn lại tạo thành vỏ trái đất. Phần dưới vỏ trái đất ở thể lỏng do chịu ảnh hưởng của áp suất lớn nên độ nhớt tăng lên, do đó vận tốc truyền sóng địa chấn bên trong trái đất tăng lên liên tục theo độ sâu. Ở độ sâu 2900km là mặt ranh giới giữa các lớp bao và nhân trái đất, ở đó sóng địa chấn bị phản xạ mạnh Phần trung tâm trái gồm chủ yếu Fe và Ni. Trong hệ mặt trời, hành tinh càng lớn thì mật độ vật chất nặng càng cao.
Các thiên thạch trong vũ trụ bao gồm 91% sắt, 8% niken và 1% còn lại gồm phốtpho và coban.
Sự dịch chuyển lục địa trên Trái Đất
Ngay từ khi mới ra đời cho đến nay, dưới ảnh hưởng của trường trọng lực, lực tổng hợp vũ trụ cùng với quán tính quay của Trái Đất, các mảng lục địa trên Trái Đất luôn di chuyển về các hướng. Sự di chuyển các mảng lụcđịa trên thế giới không phải là sựdi chuyển các phần vỏ Trái Đất (vỏ Trái Đất quá mỏng và giòn nên không thể tránh khỏi gãy, vỡ khi trượt trên phần cứng của manti). Sự chuyển động diễn ra ở các mảng thạch quyển gồm vỏ Trái Đất và lớp trên của manti dày hàng trăm km (quyển mềm).
Các mảng quyển mềm không chuyển động hỗn loạn mà tương ứng với dạng cầu của Trái Đất. Các lục địa khi di chuyển vẫn có mút nằm gần các cực Trái Đất. Phần đại dương giữa hailục địa được mở rộng nhanh ở vùng gần xích đạo và chậm hơn ở hai cực (điển hình nhất là Đại Tây Dương). Bất kì cặp lục địa nào thì trục nối chgúng luôn đi qua tâm hành tinh.
Cùng với sự di chuyển, các mảng lục địa thường xuyên va chạm với nhau. Những mảng mỏng và rắn chắc hơn chũiuống dưới những mảng lớn và có tốc đọ chậm hơn. Việc này để lại những lớp trầm tích đùn lên thành từng dải hẹp ven đất liền. Một phần trầm tích tiếp tục theo hệ thống băng chuyền lục địa chìm sâu xuống và nóng chảy.
Trong trường hợp của Ấn Độ: giữa kỉ đệ tam, Ấn Độ trôi về phía lục địa Á- Âu và va chạm vơíu lục địa này.Do có sự trùng khít dường như hoàn toàn về độ rắn của các mảng thạch quyển mà một khối lượng khổng lồ phần rìa các mảng thạch quyển bị vò nhàu tạo thành các nếp uốn và kết quả là Himalaia ra đời.
Quá trình chuyển dời các lục địa diễn ra như sau
_ Thời kì Permi-Triat (225 triệu năm trước) : Đai Tây Dương và Ấn Độ Dương chưa có mặt, dạidương duy nhất của Trái Đất lúc này là đại dương teti. Các mảng thạchquyển còn nối liền với nhau trên một lục địa duy nhất là Pangeia.
_ Cuối kỉ Triat (180 triệu năm trước) : Pangeia tách thành Lavraxia (gồm Bắc Mĩ và Á-Âu) và Gônvana (gồm Nam Mĩ, Châu Phi, Châu Úc, Nam Cực và Ấn Độ).
Tiếp đó Gônvana tách làm ba phần:
+Nam Mĩ và Châu Phi
+Ấn Độ
+Nam Cực và Châu Úc
_ Cuối kỉ Jura (135 triệunăm trước) : Ấn Độ trượt dần về phía Lavraxia, Nam Mĩ có xu hướng tách khỏi Châu Phi
_ Cuối kỉ Crêta, đầu đại tân sinh (65 triệu năm trước): Ấn Độ tiếp tục trôi, Grenlan tách khỏi châu Âu. Nam MĨ tạm thời nối với Nam Cực và Châu Úc và mọi việc cứ tiếp diễn như vậy và dần dần trở thành như ngày nay.
* Dự đoán trong tương lai, giống như Ấn Độ , Châu Úc sẽ va chạm với Đông Nam Á và sẽ có sự xuất hiện những dãy núi lớn. Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương được mở rộng trong khi Thái Bình Dương bị thu hẹp. Nam Mĩ sẽ tách khỏi châu Mĩ trước khi vỡ làm đôi. Phần tây Nam Mĩ chìm xuống lòng Thái Bình Dương còn Phần Đông ra Đại Tây Dương trôi về hướng châu Phi và rất có thẩ sẽ lại nối liền với châu Phi như thời kì Gônvana.
Sao Hỏa (Mars)
Trên bầu trời đêm, ta có thể nhìn thấy sao Hoả có màu đỏ hoặc màu cam, vì thế mới có tên là "sao lửa". Có người còn gọi là "hành tinh đỏ". Các vệ tinh và các tàu thăm dò cho thấy đất đá trên sao Hoả có màu đỏ do có chứa nhiều ôxýt sắt.
Sao Hoả tuy nhỏ nhưng có nhiều điểm giống với Trái Đất: sao Hoả tự quay quanh trục mất 24giờ 37 phút, trục quay của sao Hoả có độ nghiêng là 23,20 gần bằng độ nghiêng của Trái Đất. Vì thế ngày trên sao Hoả dài hơn ngày trên Trái Đất 37 phút và trên sao Hoả quay chung quanh Mặt Trời một vòng 678 ngày nên một "năm" trên sao Hoả gần gấp đôi năm trên Trái Đất, các mùa trên sao Hoả cũng dài hơn mùa trên Trái Đất. Nhiệt độ bề mặt sao Hoả lạnh hơn Trái Đất nhiều. Ngay cả giữa trưa hè nắng chang chang, trên sao Hoả nhiệt độ đo được cũng là -300C, còn ban đêm xuống đến -860C, nhưng không bao giờ lên đến 00C. Vào mùa đông, các chỏm băng ở 2 cực mở rộng dần ra về phía xích đạo, còn mùa hè chúng thu hẹp lại. Điều đáng lưu ý là chỏm băng ở cực Nam lớn hơn ở cực Bắc cho thấy mùa động ở bán cầu Nam trên sao Hoả lạnh hơn ở bán cầu Bắc. Điều này đã làm cho nhiều nhà khoa học cuối thế kỷ thứ XIX cho rằng trên sao Hoả có nước. Nhất là năm 1877 khi nhà thiên văn học người Ý tên Chiaparenli (Giovanni Schiaparelli, 1835 - 1910) quan sát thấy những vệt dài đan chéo nhau mà ông ta gọi là "các kênh đào" (canali) cùng những vùng rộng lớn thay đổi màu từ màu đỏ sang màu xanh đậm theo mùa, đã làm dấy lên cơn sốt về các "kênh đào trên sao Hoả". Lôoen (Percival lowell) nhà thiên văn học người Mỹ cũng xây dựng một đài thiên văn Flatxtap (Flagstaff) ở bang Arizôna để chuyên quan sát sao Hoả. Người ta tưởng tượng ra giống người thấp bé màu xanh lá cây thông minh đã ở đó, xây dựng các kênh đào để dẫn nước từ các chỏm băng ở cực về tưới cho ruộng vườn ở vùng xích đạo sao Hoả. Nhưng nhiều nhà khoa học hoài nghi về sự sống trên sao Hoả, họ cho rằng, không thể chỉ dựa vào kết quả quan sát từ xa bằng những dụng cụ chưa đủ độ tin cậy đó được.
Từ năm 1969, nhiều tàu thăm dò chụp ảnh và thám sát bề mặt sao Hoả cho thấy ở đây không có dấu vết nào của sự sống. Những ảnh chụp của tàu thăm dò Vikinh (Viking 1 và 2) đổ bộ lên sao Hoả vào ngày 2007/1976 và 03/09/1976 cho thấy bề mặt sao Hoả có nhiều nét giống bề mặt sao Thuỷ hoặc Mặt Trăng, tương đối bằng phẳng với các miệng hố thiên thạch. Ở bán cầu Bắc của sao Hoả có một số hố thiên thạch, một vài ngọn núi lửa khổng lồ cao đến 29 km, chân núi rộng đến 400 km và nhiều thung lũng sông cổ trong đó có thung lũng Valet Marinêrit ( Valles Marieris) dài 5.000 km, rộng 600 km và ở một vài nơi sâu tới 6 km. Đất đá ở đây tuổi vào khoảng 1 đến 3 tỉ năm. Ở bán cầu Nam, có nhiều miệng hố hơn và có tuổi đất đá cổ hơn, trên 4 tỷ năm. Những sa mạc đá rộng lớn b?ng phẳng, rải rác những hòn đá đủ kích cỡ và cát bụi, đều có màu đỏ chiếm 40% diện tích sao Hoả và mỗi khi có gió nổi lên là bụi bay mù mịt thành những trận bão bụi mà từ Trái Đất nhìn lên ta thấy hình như sao Hoả đang đổi màu. Các thiên thạch đã để lại trên bề mặt sao Hoả nhiều dấu vết: những hố thiên thạch, những vùng trũng rộng lớn như các bồn địa và những hẻm vực dài khổng lồ rất sâu. Bầu không khí của sao Hoả hết sức loãng đến mức dù cho bão có thổi mạnh đến mấy cũng chỉ đủ sức làm bốc lên những hạt bụi mịn mà thôi. Không khí ở đây chứa tới 95% khí cácbônic, 2,7% nitơ, 1,6% acgông và 0,76% ôxi, ôxyt cacbon, hơi nước. Bầu khí quyển sao Hoả gồm 3 tầng: trên cùng là các đám mây mỏng và tuyết cacbônic đông đặc, tầng giữa là hơi nước đóng băng và sát mặt đất là tầng bụi mịn chứa nhiều chất sắt. Hơi nước chỉ tìm thấy ở các lớp mây, hoặc sương mù trong các thung lũng hoặc ở sát mặt đất.
Về cấu tạo, bên trong cùng là một cái nhân nhỏ bằng đá, bao bọc bên ngoài bởi lớp bao dày gồm các loại đs silicat và một lớp vỏ mỏng ở ngoài cùng toàn đá xen lẫn đất đóng băng. Chính sự có mặt của nước đóng băng ở dưới đất sao Hoả mà một vài nhà khoa học cho rằng trước đây trên sao Hoả đã từng có nước chảy trên mặt, nên bây giờ mới còn dấu vết của lòng sông chết. Chỉ khác với Trái Đất là nước trên sao Hoả không rơi từ trong không khí xuống mà từ sự tan chảy của nước đóng băng trong đất khi bề mặt bị Mặt Trời đốt nóng lên.
Sao Hoả có 2 vệ tinh là Phôbôt (tiếng Hi Lạp Phobos là Sợ hãi) và Đâymôt (Deimos là Kinh hoàng) đều có đường kính không quá 30 km. Cả 2 đều quá nhẹ nên trọng lượng không đủ để tạo cho chúng có hình khối cầu.
Chúng có hình dạng củ khoai tây như phần lớn các thiên thạch trong hệ Mặt Trời. Cũng có ý kiến cho rằng đây là 2 thiên thạch đã bị sức hút của sao Hoả giữ lại trên quỹ đạo quanh sao Hoả khi chúng rơi vào cách đây khoảng 40 triệu năm. Vệ tinh Phôbôt lớn hơn, nằm chỉ cách sao Hoả 9.380 km, quay quanh sao Hoả một vòng mất 7 giờ 40 phút. Trên bề mặt vệ tinh Phôbôt hiện rõ miệng hố thiên thạch lớn nhất là hố thiên thạch Xtichnây (Stickney) rộng 10 km. Vệ tinh Đâymôt nhỏ hơn nằm cách sao Hoả 23.462 km và quay một vòng quanh sao Hoả mất 30 giờ. Các ảnh chụp từ tàu thăm dò cho thấy trên bề mặt của 2 vệ tinh này lỗ chỗ những hố thiên thạch to nhỏ khác nhau.
http://www.solstation.com/stars/mars0b.jpg
Liệu có sự sống trên Hỏa tinh hiện nay hay không?
Bức xạ tử ngoại của Mặt trời giết chết mọi vi khuẩn trên bề mặt sao Hoả nhưng chúng ta có thể tưởng tượng những vi khuẩn sống trong lòng đất. Các hoá chất do 2 tàu Viking đem về năm 1976 có chứa cacbon phóng xạ. Nếu cacbon phóng xạ xuất hiện trong các khí bao quanh đất thì sẽ là bằng chứng về sự trao đổi chất và sự sống nguyên thuỷ. Thực nghiệm không tìm thấy một bằng chứng nào về sự trao đổi chất cũng như các vi khuẩn chết trên Hoả tinh.
Kết luận của Viking là tại các nơi Viking đã đo đạc trên sao hoả, đất chưa có bát cứ bằng chứng nào về sự tồn tại của sự sống. Vì mọi phép đo đều có sai số nên chúng ta không thể khẳng định rằng không có sự tồn tại của những vi khuẩn đã chết trên sao Hoả, nhưng chúng ta có thể khẳng định rằng nếu có thì chúng cũng ít hơn cả ở Nam cực , nơi khó có khả năng tồn tại sự sống nhất trên bề mặt Trái Đất chúng ta. Nói cách khác, kết luận này chỉ đúng cho hai vị trí hẹp trên Hoả tinh nhưng cũng có thể coi là một điển hình cho toàn bộ hành tinh này.
Năm 1996, một bài báo nói rằng có một thiên thạch có nguồn gốc từ sao Hoả rơi xuống Nam Cực có chưa những dấu hiệu của sự sống nguyên thuỷ trên sao Hoả từ thời xa xưa. Nhờ những nghiên cứu tiếp theo, ý kiến trên bị bác bỏ nhưng khả năng tồn tại sự sống trên Hoả tinh vẫn còn. Nó dẫn tới kế hoạch phong tiếp nhiều thiết bị lên sao Hoả trong thời gian tiếp sau.
Sao Mộc (Jupiter)
Với khối lượng và kích thước lớn nhất hệ Mặt Trời cùng dáng vẻ đầy oai nghiêm, Mộc tinh hoàn toàn xưng đáng với cái tên Jupiter_ chúa tể của các vị thần.
Sao Mộc là hành tinh thứ năm trong Thái Dương hệ. Nó cách Mặt Trời 5,2 ua, bán kính xích đạo là 71435 km và có khối lượng bằng 318 lần khối lượng Trái Đất. Sao Mộc quay quanh Mặt Trời theo chu kì 12 năm nhưng một ngày tính theo giờ Trái Đất thì chỉ dài có 9h50'. Trên bầu trời đêm, sao Mộc là thiên thể rất dễ nhận ra vì nó chỉ thua có sao Kim về độ sáng.
Sao Mộc có tất cả 15 vệ tinh trong đó có 4 vệ tinh sáng nhất có thể dễ dàng nhận ra qua kính thiên văn. Đó là 4 vệ tinh được Galilei phát hiện và được đặt tên là 4 vệ tinh Galilei trong đó vệ tinh lớn nhất có bán kính tới trên 5000km (còn lớn hơn sao Thuỷ).
Ngoài ra sao Mộc còn có một vệ tinh dưới dạng một vành sáng. Vành này gồm nhiều mảnh đất đá đường kính từ mấy chục đến mấy trăm met. Độ dầy của vành sáng này chưa đến 30 km và rộng khoảng 9000km, khoảng cách từ mép ngoài vành sáng đến bề mặt sao Mộc là 57000km. Vành này quay quanh sao Mộc với chu kì 7h. Nghiên cứu còn cho thấy ngoài Trái Đất ra thì trong hệ Mặt Trời sao Mộc là hành tinh duy nhất có cực quang. Phần nửa bán cầu không hướng về phía Mặt Trời của sao Mộc có một dải cực quang dài tới 30 000 km.
Nguyên tố phổ biến nhất trên sao Mộc là hydro. Sao Mộc có lớp khí quyển dày trên 1000 km gồm 82% hydro, 17% heli và 1% còn lại gồm các chất khí khác.
Từ trường sao Mộc lớn hơn 10 lần so với từ trường Trái Đất, trục từ trường lệch với trục tự quay 10,8 độ và có cấu tạo cực từ gần giống như của Trái Đất. Do đó nếu mang một la bàn từ Trái Đất lên sao Mộc thì vẫn có thể xác định chính xác hướng Bắc-Nam.
Trọng lực trên sao Mộc lớn hơn trọng lực Trái Đất 2,6 lần nhưng nhiệt độ bề mặt chỉ có -140 độ C . Chính điều này đã giúp sao Mộc giữ được hydro và heli trong khí quyển của mình.
Qua kính thiên văn có thể thấy bề mặt có nhiều dải mây tối và sáng chạy đan xen nhau. Sao Mộc bức xạ nhiệt hết sức mạnh mẽ, mặt khác do hoạt động tự quay của sao Mộc diễn ra rất nhanh (9h 50' một vòng) nên tạo ra trên bề mặt của nó những dòng khí chuyển động tạo ra những dòng màu sắc khác nhau. Ngoài ra, qua quan sát từ kính thiên văn có thể thấy trên sao Mộc có một vết đỏ rất lớn nằm ở phía Nam đường xích đạo của sao Mộc. Vết đỏ này có hình elip , rộng khoảng 11000 km và có chiều dài khoảng 26000 km. Qua ảnh chụp từ các tàu thăm dò được phóng lên nghiên cứu sao Mộc, phát hiện vết đỏ này là một luồng khí bốc lên mạnh mẽ và xoáy tròn ngược chiều kim đồng hồ. Nhờ bị kẹp giữa hai luồng khí chuyển động mạnh ngược chiều nhau mà vết đỏ có thể tồn tại trong thời gian rất dài.
Núi lửa trên vệ tinh Io của Mộc tinh
Chúng ta hi vọng rằng các vệ tinh của sao Mộc sẽ lạnh, là hỗn hợp đá băng và có khả năng bề mặt bị lõm. nhưng 2 vệ tinh là Io và Europa hoàn toàn khác với những điều dự đoán.
Vệ tinh Io có kích thước cỡ Mặt Trăng nhưng nó hoạt động rất mạnh, các núi lửa liên tục phun trên vệ tinh này. Vật chất nóng dâng đến độ cao 250km trên bề mặt của Io. Điều đó chứng tỏ trong lòng của Io rất nóng. Tại sao? Lực hấp dẫn do sao Mộc và các vệ tinh khác tác động lên làm Io liên tục bị biến dạng. Điều đó có nghĩa là một sô sphần đá rắn phải chuyển động qua nhau. Ma sát sinh ra làm nóng đá. Sự nung nóng bằng ma sát này đã được tiên đoán từ trước khi Voyager đến Mộc tinh. Nhưng việc xuất hiện các núi lửa thì chưa từng được dự đoán. Núi lửa phun ra các hợp chất nham thạch chứa sunfua làm cho bề mặt của Io rất khủng khiếp.
http://www.solstation.com/stars/jupiter.jpg
Đại dương đóng băng và sự sống nguyên thuỷ (có thể) trên vệ tinh Europa
Vệ tinh Europa hơi nhỏ hơn Mặt Trăng và nằm cách sao Mộc xa hơn Io. Điều ngạc nhiên là trên Europa không có miệng núi lửa nào, bề mặt nó trơn tru rõ rệt. Điều giải thích tốt nhất là bề mặt nó được bao bọc bởi một lớp nước dày tới hàng km , lớp trên cũng đã bị đóng băng. Tàu Galileo đã tới cách bề mặt của Europa 200km và chụp ảnh được những chi tiết có kích cỡ 6m. Các bức ảnh cho thấy trên bề mặt của vệ tinh này có những vết nứt rất giống những vết nứt dài trên băng ở Nam cực (Trái Đất). Ngoài ra, các bức ảnh còn đưa ra những bằng chứng về việc còn tòn tại ở thể lỏng dưới lớp băng bao bọc Europa. Đó là những nơicó vết nứt, nước trào ra rồi đóng băng lại. Một miệng núi lửa dường như đã được nước lấp đầy và đóng băng lại. Các đường nhỏ coa thể làm liên tưởng đến việc nước trong các vết nứt trào ra và đóng băng lại: các đường tối hơn có thể do nước mang theo bụi bẩn phun ra theo các vết nứt dài và đóng băng lại, các đường sáng hơn có thể do nước sạch hơn phun ra sau và đóng băng. Loại trừ trường hợp các núi lửa mới hình thành, các miệng núi lửa cũ đều đã ngập trong nước và đóng băng lại.
Nhiệt độ bề mặt của Europa tương đương với nhiệt độ của hành tinh mẹ (tức sao Mộc), rất thấp. Vậy tại sao vẫn có nước ở thể lỏng? Có lẽ do phần bên trong của Europa bị nung nóng bởi ma sát thuỷ triều giống như Io. Bằng chứng về việc một đại dương bị đóng băng ở bề mặt là gián tiếp và có thể sai. Nhưng chúng ta hãy xét đến những hệ quả đầy ấn tượng sau nếu lời giải thích trên là đúng.
Nếu có nước ở thể lỏng thì liệu có sự sống nguyên thuỷ ở Europa hay không? Hầu hết mọi người trả lời : không, ở đó quá lạnh. Nhưng rất có thể ở đó không quá lạnh. Trên Trái Đất, một phần nhiệt dâng lên từ đáy đại dương được quy tụ trong những vùng nhất định của đáy đại dương. Ở những vùng như thế, nước nóng chảy ra mang theo khá nhiều các hoá chất để duy trì sự sống. Thực vậy, suốt hàng chục năm gần đây, thật đáng ngạc nhiên là trên Trái Đất ngày càng nhiều hình thức sóng kì quặc được phát hiện tại những vùng nước nóng phun trào từ đáy đại dương. Nếu nhiệt phát ra từ đay vệ tinh Europa thì có lẽ nhiệt đó cũng được quy tụ tại những vùng nhất định nào đó trong lòng các đại dương của Europa. Có thể những dòng nước đó chứa đựng một vài dạng sống nguyên thuỷ chăng? Tất nhiên cho đến giờ thì những điều đó vãn chỉ là một giả thiết chưa được chứng minh.
Sao thổ (Saturn)
Sao thổ là hành tinh khổng lồ,có nhiều nét rất giống sao mộc, ở cách mặt trời 1427 triệu km,gấp 2 lần khoảng cách sao mộc-mặt trời. Chính Galile đã là người phát hiện sao thổ vào năm 1610 khi phát minh ra kính thiên văn,nhờ ánh sáng rực rỡ và cái vành khuyên đặc biệt mà lúc đó Galile tưởng là 2 cái tai của sao thổ. Đến năm 1655,nhà vật lí Hà Lan tên là Huygens mới xác định và mô tả lần đầu tiên khá tỉ mỉ vành khuyên này. Đây là hành tinh xa nhất của hệ mặt trời có thể nhìn thấy bằng kính thiên văn bình thường.
Chiếc vành khuyên nằm dọc theo đường xích đạo sao thổ và có đường kính khoảng 270.000km,rộng khoảng 65.000 km nhưng rất mỏng,có chỗ chỉ 1km.nhìn từ xa tới thì vành khuyên này gồm 3 vòng đai,ngăn cách bởi 2 đường ranh cassini và Enke.các ảnh chụp từ tàu thăm dò Voyager2 cho thấy ,vành khuyên này được tạo thành từ nhiều vòng đai nhỏ hợp lại.mỗI vành đai là tập hợp của vô số thiên thạch lớn nhỏ có lớp băng bao bọc ở ngoài ,xen lẫn những hạt nước đá,quay quanh chung quanh sao thổ như các vệ tinh.chúng phản chiếu rất mạnh ánh sáng mặt trờI ,giúp ta có thể nhìn thấy vành khuyên này từ trái đất . ở 1 vài vồng đai,có các vệ tinh quay ở 2 bên mép rìa như canh giữ vòng đai đó,nên các nhà thiên văn đặt tên cho chúng là vệ tinh thiên khuyển.có khoảng 12 vệ tinh loại này nhìn thấy rõ trong các ảnh chụp từ tàu thăm dò Voyager 1 và 2,nâng tổng số vệ tinh của sao thổ lên 22 vệ tinh.trong số này lớn nhất là vệ tinh Titan có đường kính 5.150km và là vệ tinh duy nhất trong hệ mặt trời có bầu khí quyển dày đặc bao quanh ,chứa chủ yếu là khí nitơ và 1 phần khí metan.nhiệt độ trung bình của titan là -180 độ C.còn có 6 vệ tinh lớn nữa ,có đường kính từ 390 - 1500km.số còn lại ,vừa có kích thước nhỏ ,có hình dáng không phải hình cầu như các vệ tinh khác.càng đi vào gần sát sao thổ,các vật chất cấu tạo nên vành sao thổ càng có kích thước lớn dần và càng có nhiều vệ tinh.vòng ngoài cùng có màu hơi tối ,chỉ có 1 vệ tinh,vòng thứ 2 màu sáng nhất có 4 vệ tinh còn vòng trong cùng có màu tốI hơn ở bên trong ,vừa có nhiều vệ tinh ,lại vừa có đặc điểm : có một số vệ tinh quay trên cùng 1 quỹ đạo. đó là 2 vệ tinh đione và helen cùng quay cách sao thổ 377.400km,3 vệ tinh Tethys,Telesto,Calypso cùng quay cách sao thổ 294.660km,còn 2 vệ tinh Epimethee ,Janus thì có quỹ đạo quay rất xít nhau,151.422 và 151.472km.trong vòng đai này có vệ tinh Mimas còn thấy rõ miệng hố Herschel, dấu vết của sự va chạm với vệ tinh khác do chúng quay vớI quỹ đạo quá gần nhau.Những vệ tinh thiên khuyển do quay trong vành khuyên cảu sao thổ đã để lại những khoảng trống ở phía sau ,khi chúng đi xuyên qua các thiên thạch và hạt băng của vành khuyên.
http://astrogeology.usgs.gov/assets/...per/saturn.jpg
Phần lớn các vệ tinh này đều có quỹ đạo quay rất gần,cách sao thổ không quá 0,5 triệu km.chỉ có 3 vệ tinh Hyperion,Lapetus, phoebe quay hình bầu dục rất dẹp ,lạI vừa có chiều quay ngược vớI chiều quay của tất cả các vệ tinh khác của sao thổ.vệ tinh Lapetus cũng đáng lưu ý vì nó không chỉ có màu vàng ánh mà còn vì phần vàng ánh nhìn thấy này chỉ chiếm 1 phần,còn lại phần kia lại tối đen.giải thích hiện tượng sao thổ có nhiều vệ tinh quay trên cùng 1 quỹ đạo hoặc có quỹ đạo rất sít nhau ,các nhà khoa học cho rằng trước đây chúng chỉ là 1 vệ tinh ,sau đó bị tách ra làm 2 hoặc 3.
Sao thổ có cấu tạo gần giống như sao mộc,gồm các chất khí heli và hidro cùng với các tinh thể amoniac nhưng loãng hơn ,trong cùng là 1 cái nhân bằng đá cứng lẫn băng.vì thế ,sao thổ có tỉ trọng nhẹ hơn cả nước. sao thổ là 1 trong những hành tinh lạnh lẽo,nhiệt độ trên lớp mây ngoài cùng là -180 độ C.cũng như sao mộc ,sao thổ có tốc độ quay rất nhanh,tạo nên nhiều dải mây trắng song song,với những trận bão khủng khiếp có sức gió lên đến 1.800km/giờ nên ta chỉ thấy các dảI mây lờ mờ không được rõ như ở sao mộc. sao thổ tự quay 1 vòng chỉ mất có 10 giờ 40 phút,và quay quanh mặt trời với tốc độ 9,6km/giây,1 vòng mất 29,5 năm.do tốc độ tự quay quá nhanh,sao thổ có hình dáng hơi dẹt ở 2 cực,phình to ở vùng xích đạo .trong quá trình sao thổ quay quanh mặt trờI ,từ trái đất ta nhìn thấy vành khuyên sao thổ từ các góc cạnh khác nhau,nên có lúc nhìn thấy to,lúc nhỏ,có lúc gần như không nhìn thấy vì quá mỏng.
bầu khí quyển sao thổ tương tự như ở sao mộc nhưng có nhiệt độ thấp hơn,gồm chủ yếu là hidro(94%) ,heli(6%) và hơi nước ,khí metan và amoniac.
Sao thiên vương (Uranus)
Sao thiên vương được nhà thiên văn học nghiệp dư nổI tiếng người Anh gốc Đức William Herschel (1738 - 1822 ) tìm thấy . ngày 13/3/1781,ông thấy 1 điểm sáng lung linh ở gần sao Zeta,lúc đầu ông nghĩ đấy là sao chổi.ngày 17 tháng 3 ông tìm lại vật thể này và thấy nó di chuyển 1 đoạn so với các vì sao cố định . ông tiếp tục theo dõi vật thể lạ này thêm 2 tháng nữa và thấy nó dịch chuyển dần đến chòm sao song tử.ong cho đấy là 1 sao chổi và gửi đến các nhà thiên văn ở đài quan sát Greenwich và Oxford với 1 thông báo vớI tựa đề : "bài tính về 1 sao chổI" và sau đấy không quan tâm đến nó nữa nhưng các nhà thiên văn khác vẫn tiếp tục theo dõi vật thể này .chỉ sau 1 thời gian ngắn sau,các nhà thiên văn nhất trí xác định đó là 1 hành tinh di chuyển xung quanh mặt trờI trên 1 quỹ đạo bên ngoài sao thổ. sao thiên vương nằm ở khoảng cách gấp đôi khoảng cách giữa sao thổ vớI mặt trời. Lúc đầu ông tưởng đó là 1 đám tinh vân hay sao chổI ,nhưng sau nhiều ngày quan sát , ông mới phát hiện ra đó là 1 hành tinh mới ,có kích thước to gấp 4 lần trái đất. vớI khoảng cách này , ánh sáng mặt trời phải mất đến 2 giờ 30 phút mớI đến được sao thiên vương ,trong khi đó chỉ cần 8 phút là đến được trái đất ,sao thiên vương quay 1 vòng quanh mặt trời mất 84 năm,với trục quay nằm ngang gần trùng với mặt phẳng quỹ đạo và với tốc độ quay quanh mình với tốc độ rất nhanh,1 vòng chỉ mất 16 giờ.
http://planetpixelemporium.com/image...ize/uranus.jpg
Vì trục nằm ngang với mặt phẳng quỹ đạo nên trong quá trình quay quanh mặt trời,mỗi cực của sao thiên vương hướng về phía mặt trời trong suốt 42 năm liền và 42 năm tiếp theo lại nằm trong bóng tối. Vì thế mùa ở đây rất dài ,nhưng nhiệt độ ở sao thiên vương quanh năm vẫn không đổi ,luôn lạnh lẽo vì ở quá xa mặt trời.chính vì vậy mà khi phát hiện ra hành tinh này người ta gọi nó là hành tinh địa ngục
Sao thiên vương còn có 1 từ trường độc đáo . trục của từ trường không nằm ngang như trục của sao thiên vương mà thẳng đứng như các hành tinh khác và nghiêng 600 so với mặt phẳng quỹ đạo. điều này đã làm cho từ trường của sao thiên vương không khác mấy với từ trường của các hnàh tinh khác nhưng mà lại làm cho tâm từ trường lệch xa tâm của sao thiên vương.
Nhìn từ vũ trụ ,sao thiên vương có màu lá biếc do phản chiếu bầu khí quyển có chứa khí metan vì khí metan hấp thụ hết các tia hồng ngoại của ánh sáng mặt trời. Hidro chiếm phần quan trọng trong thành phần khí quyển sao diêm vương (tớI 85%) ,còn lạI là khí heli(12%) và metan chiếm 3% .nhiệt độ ở đây xuống đến -2500C.những thông tin từ tàu thăm dò voyager 2 cho phép dự đoán sao thiên vương có 1 nhân rất nhỏ bằng đá cứng ,bao bọc bên ngoài là lớp các khí amoniac,metan hoá lỏng hoà tan với nước. sao thiên vưng cũng có 1 vành khuyên như sao thổ,sao mộc gồm 11 vành đai tạo thành. Những vòng đai nằm gần sao thiên vương được cấu tạo bởi các thiên thạch có kích thước tới 1m và có màu tối .còn những vòng đai ở ngoài cùng đựoc cấu tạo bởi các thiên thạch nhỏ dưới 20cm cùng với bụi vũ trụ và có màu sáng hơn.
trước đây người ta chỉ biết có 5 vệ tinh lớn của sao thiên vương nhưng qua ảnh chụp từ tàu voyager 2 ,người ta phát hiện có tới 15 vệ tinh chia làm 2 nhóm .Nhóm trong có 10 vệ tinh nhỏ có đường kính dưới 150 km,trong đó có vệ tinh Coocđêlia quay bên trong vành khuyên ,nằm cách sao thiên vương từ 50.000 - 85.000 km. Các vệ tinh của sao thiên vương đều được đặt tên các nhân vật trong các tác phẩm của đại văn hào William shakespeare.
Trong các vệ tinh đó,Miranda và Ariel được các nhà thiên văn quan tâm nhất . Miranda hiện ra trên ảnh chụp từ tàu voyager như 1 vệ tinh không còn nguyên vẹn,như được ghép lạI từ nhiều mảnh vỡ sau khi va chạm vớI 1 tiểu hành tinh khá lớn. trên bề mặt Miranda ,chúng ta có thể thấy những sống núi và những bờ vách dốc đứng lỗ chỗ các dấu vết va chạm với các thiên thạch. vệ tinh Ariel có đường kính tới 1.150km,in đậm nét nhiều vệt thung lũng rất sâu,cùng với vài hố thiên thạch rải rác đó đây.
Sao Hải Vương (Neptune)
Hải Vương Tinh là hành tinh thứ 8 của Hệ Mặt Trời và cũng là hành tinh đầu tiên được tìm ra bằng phương pháp tính toán . Phát minh này cũng là một luận cứ tuyệt vời chứng minh sự đúng đắn của định luật vạn vật hấp dẫn . Sau khi tìm ra Thiên Vương Tinh người ta nhận thấy hành tinh này không chuyển động đúng theo quỹ đạo mà người ta tính toán cho nó , tức là nó không chỉ chịu tác động của các lực hút của Mặt Trời và các hành tinh đã biết mà còn chịu tác động của hành tinh nào đó mà người ta chưa biết . Bằng cách giải quyết dần dần các bài toán người ta đã xác định được vị trí tương đối của hành tinh này . Ngay lập tức sau đó ngày 23 tháng 9 năm 1846 , nhà thiên văn Gaile đã tìm ra hành tinh này trên bầu trời bằng kính thiên văn tại nơi mà ông được thông báo theo kết quả tính toán .
http://planetpixelemporium.com/image...ze/neptune.jpg
Khoảng cách trung bình từ Hải Vương Tinh đến Mặt Trời là 4500 triệu km . Chu kỳ chuyển động quanh Mặt Trời là 164 năm 288 ngày . Như vậy kể từ ngày tìm ra Hải Vương Tinh , hành tinh này còn chưa đi hết một vòng quanh Mặt Trời . Đường kính xích đạo của Hải Vương Tinh bằng 50400 km . Tỉ trọng trung bình của nó thì bằng 2,30g/cm3 tức là lớn hơn tỉ trọng của các hành tinh khác . Điều nàu chứng tỏ ngoài Hydro và Heli , hành tinh này còn chứa hợp chất của các nguyên tố hoá học khác (hình như là kim cương , keke ...) . Theo kết quả tính toán của các nhà bác học , nhân của Hải Vương Tinh được cấu tạo từ các nguyên tố kim loại giống như nhân của các hành tinh thuộc nhóm I (nhóm Trái Đất) .
Tháng 8 năm 1986 , tàu du hành vũ trụ Voyager2 đã tiến hành quan sát hành tinh này . Khác với Thiên Vương tinh , bề mặt của Hải Vương Tinh đôi chỗ bị các đám mấy che phủ . Cũng giống như Mộc Tinh , trên bề mặt Hải Vương Tinh người ta nhìn thấy 1 vệt đỏ lớn .
Có lẽ điều lý thú nhất khi quan sát Hải Vương Tinh là người ta phái hiện ra 3 vành sáng của nó .
Sao Diêm Vương (Pluto)
Diêm Vương Tinh được nhà thiên văn người Mỹ Clyde Tombaugh phát hiện vào tháng 2 năm 1930 . Đây là hành tinh nằm xa Mặt Trời hơn cả . Khoảng cách trung bình từ hành tinh này đến Mặt Trời là 5900 triệu km . Bằng mắt thường chúng ta khó có thể quan sát được Diêm Vương Tinh , vì nó chỉ như một điểm có độ sáng yếu hơn nhũng ngôi sao mờ nhạt nhất trên bầu trời tới 4000 lần .
Diêm Vương Tinh chuyển động rất chậm , nó mất tới 247 năm 255 ngày 12h mới đi hết một vòng quỹ đạo . Vì ở quá xa nên người ta mất rất nhiều thời gian mới đo được đường kính của Diêm Vương Tinh . Mãi đến những năm 80 mới đo được đường kính Diêm Vương Tinh khoảng 3000 km . Diêm Vương Tinh không những là hành tinh tối tăm nhất mà còn lạnh lẽo nhất . Nhiệt độ trên bề mặt của nó là -2200C . Ngay cả những vùng ấm nhất của Diêm Vương Tinh cũng được bao phủ bởi những lớp tuyết dày của khí Metan . Khí quyển Diêm Vương Tinh nói chung rất loãng , cấu tạo chủ yếu từ khí Metan và có thêm một ít hỗn hợp khí trơ .
http://www.universetoday.com/am/uploads/pluto.jpg
Năm 1978 , người ta phát hiện ra Diêm Vương Tinh có một vệ tinh là Charon ở khá gần Diêm Vương Tinh . Charon bằng 1/10 khối lượng của Diêm Vương Tinh . Chu kỳ chuyển động của nó quanh Diêm Vương Tinh đúng bằng chu kỳ tự quay của Diêm Vương Tinh . Kỳ lạ hơn nữa mặt phẳng quỹ đạo của Charon lại trùng với mặt phẳng xích đạo của Diêm Vương Tinh . Điều đó có nghĩa Charon luôn ở một điểm cố định trên mặt phẳng xích đạo của Diêm Vương Tinh . Chẳng những thế , chu kỳ chuyển động của Charon quanh Diêm Vương Tinh còn đúng bằng chu kỳ tự quay quanh nó . Vì vậy nên lúc nào Charon cũng hướng một mặt về phía Diêm Vương Tinh
Mặt Trăng ( Moon )
Mặt trăng là một vệ tinh quay quanh Trái Đất, có đường kính chỉ bằng 1/4 đường kính của Trái Đất và chỉ cách Trái Đất có 284.000 km. Đây là một thiên thể gần gũi với loài người, thường có mặt vào ban đêm, thay thế Mặt Trời soi sáng mặt đất. Tuy có lúc trăng tròn, trăng khuyết, hay trăng lưỡi liềm, sớm hay muộn, bao giờ Mặt Trăng cũng có mặt trên bầu trời đêm. Mặt Trăng có thể quan sát bằng mắt thường với những vùng sáng và vùng tối mà theo trí tưởng tượng của tổ tiên ta, đó là: thằng Cuội ngồi cạnh gốc cây đa chăn trâu, còn theo người Trung Hoa thì đó là chị Hằng Nga và cung Quảng (cung Trăng).
Năm 1610, khi Galilê phát hiện ra kính thiên văn, người ta phân biệt được những vùng sáng là các "lục địa" và các vùng tối là "đại dương". Kể từ ngày 20/07/1969 khi 2 nhà du hành vũ trụ Mỹ đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng, cho đến ngày 14/12/1972 đã có thêm mười người lên đó tiến hành chụp ảnh, khảo sát và đem về nhiều mẫu đất đá, giúp cho loài người sáng tỏ thêm thành phần cấu tạo và những giả thuyết về nguồn gốc Mặt Trăng.Hiện nay có 3 giả thuyết :
- Một giả thuyết cho rằng Mặt Trăng là một hành tinh song sinh với Trái Đất được hình thành cùng một lúc, cùng một thành phần cấu tạo. Thực tế các mẫu thu thập được t ừ Mặt Trăng cho thấy thành phần chúng rất khác với Trái Đất.
- Một giả thuyết khác cho rằng Mặt Trăng là một thiên thể trong vành đai các tiểu hành tinh thoát ra ngoài, bị sức hút của Trái ĐẤt giữ lại. Giả thuyết này kém phần thuyết phục nhất.
- Một giả thuyết ngày nay được nhiều người tán đồng hơn cả là: cách đây khoảng 4,5 tỷ năm Mặt Trăng được tách ra từ Trái Đất khi va chạm với một thiên thể có kích thước cỡ như sao Hoả và cũng đang trong quá trình hình thành như Trái Đất. Sau đó những vật chất nặng lắng đọng vào bên trong lòng Mặt Trăng, vật chất nhẹ nổi lên trên bề mặt. Vào khoảng 3,8 tỷ năm, Mặt Trăng bị nhiều thiên thạch bay hỗn loạn trong không gian va chạm liên tục. Sau đó 1 tỷ năm, các vụ va chạm giảm hẳn, các hố thiên thạch lớn bị dung nham từ bên trong lòng Mặt Trăng trào ra lấp đầy dần, tạo lên những vùng tương đối bằng phẳng trên bề mặt, ngày nay các nhà thiên văn gọi là "biển Mặt Trăng". Từ đó đến nay, bề mặt Mặt Trăng hầu như ít biến đổi trừ trường hợp có vài va chạm với các thiên thạch gần đây. Điều đó rất dễ phân biệt bởi đất đá bắn tung ra chung quanh, tạo thành những vệt dài hình phóng xa quanh miệng hố. Mọi hoạt động của núi lửa, động đất đã không còn xảy ra trên Mặt Trăng cách đây hàng tỷ năm.
Với khoảng 380 kg mẫu đá mang về từ Mặt Trăng nhờ các tàu thăm dò của Nga và Mỹ, đã được đem phân tích các nhà khoa học nhận thấy, đó là loại đá phún xuất (phần lớn như đá badan) và nhiều mảnh vụn khi va chạm với các thiên thạch. Hầu như toàn bộ bề mặt Mặt Trăng bị bao phủ bởi một lớp đá vụn dày khoảng 20 m. Các phương pháp định tuổi những mẫu đá Mặt Trăng cho thấy đất đá ở các "lục địa Mặt Trăng" có tuổi từ 3,8 tỷ năm trở lên, còn tuổi của các "biển Mặt Trăng" từ 3,2 - 3,8 tỷ năm.
Trên bề mặt Mặt Trăng không có nước cũng không có gió, vì không có lớp không khí bao bọc chung quanh. Vì thế, mọi dấu chân, dấu vết do các nhà du hành vũ trụ để lại sẽ tồn tại ở đó hàng ngàn năm sau. Các dấu vết này chỉ có thể bị đất đá, cát bụi của một thiên thạch và chạm vào Mặt Trăng làm bắn tung ra, lấp đi mà thôi. Cũng vì không có không khí, nên dù giữa ban ngày bầu trợi lúc nào cũng một màu đen và nhiệt độ có thể lên tới 1250C còn ban đêm có thể xuống đến - 1600C.
http://www.netaxs.com/~mhmyers/cdjpgs/fullplus5h.jpg
Ngày 05/03/1998, cơ quan Không gian và Vũ trụ Mỹ (NASA) thông báo đã phát hành hiện dấu hiệu về một lượng nước khá lớn trên Mặt Trăng. Các thiết bị đo quang phổ nơtron trên tàu thám hiểm tự hành "Người thăm do Mặt trăng" (Lunar Prospector) đang bay theo quỹ đạo qua 2 cực để dò tìm, đo vẽ bề mặt Mặt Trăng, đã phát hiện nước dưới dạng nước đóng băng ở nhiệt độ - 1500C trong lòng đất (đất đóng băng) và dưới đáy các vết nứt ở 2 cực. Lượng nước này ước tính khoảng từ 100 - 330 triệu tấn, có thể có nguồn gốc từ sự và chạm với một sao chổi cách đây 3,6 tỷ năm. Số nước này tương đương với một hồ nước có diện tích 7km2, sâu 10,5 m. Sự có mặt của nước dưới dạng đất đóng băng đã được biết đến từ lâu nhưng lượng nước đóng băng ở 2 cực được phát hiện lần này mở khả năng lập trạm nghiên cứu trên Mặt Trăng, giảm nhẹ việc tiếp tế cho phi hành đoàn và có điều kiện chế ôxi để thở, chế tạo nhiên liệu cho các chuyến bay liên hành tinh trong thế ký XXI.
Do kích thước nhỏ hơn, trọng lượng trên Mặt Trăng chỉ bằng1/6 trọng lực của Trái Đất. Một nhà du hành lên Mặt Trăng sẽ có trọng lượng chỉ còn bằng 1/6 trên Trái Đất và có thể nhảy xa, nhảy cao gấp 6 lần ở Trái Đất.
Sức hút của Trái Đất có ảnh hưởng rất lớn đến Mặt Trăng, làm chậm tốc độ tự quay và tốc độ quay của Mặt Trăng quanh Trái Đất (chỉ còn 1km/giây). Mặt Trăng quay quanh trục một vòng mất 27 ngày 8 giờ, bằng với thời gian nó quay quanh Trái Đất. Người ta gọi thời gian này là một tháng vũ trụ. Vì đặc điểm quay như vậy nên từ Trái Đất nhìn lên, bao giờ chúng ta cũng chỉ nhìn thấy một mặt của Mặt Trăng mà thôi. Mãi đến khi tàu thăm dò Lunar 3 bay quanh Mặt Trăng ngày 10/10/1959, con người mới biết được hình dáng mặt sau của Mặt Trăng. Phía nhìn thấy từ Trái Đất có nhiều "biển", còn phía này có rất ít "biển" và nhiều "lục địa" hơn.
Nhìn từ Trái Đất chúng ta chỉ thấy phần Mặt Trăng được Mặt Trời chiếu sáng, vì vậy, trong một chu kỳ quay quanh Trái Đất, ta thấy hình như hình dạng Mặt Trăng thay đổi: lúc là trăng lưỡi liềm, lúc là trăng thượng huyền, lúc trăng tròn và lúc không thấy trăng. Từ đêm không trăng lần này đến đêm không trăng lần sau: gọi là 1 tuần trăng. Một tuần trăng có 29,5 ngày và ta còn gọi là tháng âm lịch.
Vì thế, tháng âm lịch có tháng thiếu (29 ngày) và tháng đủ (30 ngày). Tại sao, Mặt Trăng quay quanh Trái Đất một vòng chỉ mất có 27 ngày 8 giờ mà một tuần trăng lại tới 29,5 ngày ? Đó là do trong khi Mặt Trăng quay quanh Trái Đất thì Trái Đất lại quay quanh Mặt Trời, nên khi Mặt Trăng quay được đúng một vòng, Mặt Trăng không còn nằm ở vị trí giữa Trái Đất và Mặt Trời (vị trí ngày không có Trăng) nữa do Trái Đất đã dịch chuyển sang vị trí khác. Muốn ở đúng vị trí đó, Mặt Trăng phải quay hơn một vòng, tức là phải quay thêm hơn 2 ngày nữa, tất cả mất 29,5 ngày. Các nhà thiên văn gọi đó là tháng giao hội, còn tháng vũ trụ là thời gian quay đúng 1 vòng của Mặt Trăng.
Trong vị trí của ngày không trăng, Mặt Trăng nằm giữa Trái Đất và Mặt Trời, nó có thể che khuất làm Mặt Trời không chiếu được đến Trái Đất: ta có nhật thực. Ngược lại ở vị trí trăng tròn, Mặt Trăng nằm sau Mặt Trời và Trái Đất, đến lượt Trái Đất có thể che khuất Mặt Trời và in bóng của mình lên Mặt Trăng: ta có nguyệt thực. Nhưng vì quỹ đạo quay của Mặt Trăng không nằm trên cùng mọt mặt phẳng của quỹ đạo quay Trái Đất nên không phải tháng nào cũng có nhật thực, nguyệt thực. Nếu ta nhìn thấy Mặt Trời hay Mặt Trăng bị che lấp hoàn toàn, lúc đó bầu trời sẽ tối sầm lại: ta gọi đó là nhật thực toàn phần hay nguyệt thực toàn phần. Nếu thấy Mặt Trời hay Mặt Trăng chỉ bị che khuất một phần, nhiều hay ít: ta gọi đó là nhật thực bán phần hay nguyệt thực bán phần.
Không chỉ có Mặt Trăng chịu sức hút của Trái Đất, ngược lại Trái Đất cũng chịu tác động của sức hút Mặt Trăng lên lớp nướcđại dương bao quanh Trái Đất, làm lớp nước này phồng lên về phía Mặt Trăng, gây ra hiện tượng thuỷ triều, nước nước lớn, nước ròng ở các vùng ven biển. Thủy triều còn chịu tác động của sức hút Mặt Trời, tuy yếu hơn của Mặt Trăng vì ở xa, nên ở vị trí giao hội (lúc Mặt Trời, Mặt Trăng ở cùng một phía) thì lúc đó trên Trái Đất xảy ra triều cường, còn nếu nằm ở vị trí vuông góc với Trái Đất thì xảy ra triều kiệt.
Về cấu tạo bên trong, Mặt Trăng là một vệ tinh chết gồm 3 lớp đều là đá: ngoài cùng là lớp vỏ đá (dày hơn ở mặt sau không nhìn thấy, vì ở đó hầu hết là đất liền), một lớp cũng bằng đá có chứa sắt, ở trong cùng.