-
Tác giả bãi đá cổ ở Anh là người ngoại quốc?
Công trình kiến trúc cổ đại nổi tiếng ở phía nam nước Anh, bãi đá cổ Stonehenge đầy bí ẩn, có thể do một người Thụy Sĩ hoặc Đức xây dựng nên. Các nhà khảo cổ tuyên bố như vậy hôm qua.
Họ đã nghiên cứu những di vật còn lại của một cung thủ giàu có, trong một ngôi mộ 4.000 tuổi nằm cách Stonehenge 3 dặm và nhận thấy, người này có nguồn gốc từ dãy núi Alps, có thể thuộc địa phận Thụy Sĩ, Áo hoặc Đức ngày nay.
"Ông ta có thể là một nhân vật rất quan trọng tại khu vực Stonehenge. Thật thú vị khi biết rằng một người ngoại quốc đã đóng một vai trò quan trọng trong việc xây dựng công trình vĩ đại đó", nhà khảo cổ học Andrew Fitzpatrick nói.
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...tonehenge1.jpg
Bãi đá cổ Stonehenge.
Vị cung thủ vùng Amesbury này được chôn cùng 100 đồ vật khác, trong đó có nhiều hoa tai bằng vàng, dao bằng đồng và đồ gốm. Do sở hữu những đồ vật xa hoa này, bao gồm cả những đồ bằng vàng được tìm thấy lâu đời nhất ở Anh, ông được gọi là "Vua của bãi đá cổ".
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...ECA/muiten.jpg
Những đầu mũi tên được khai quật từ ngôi mộ cổ.
Các cuộc kiểm tra về xương cho thấy người đàn ông này khi chết khoảng 35-45 tuổi và có cơ thể vạm vỡ. Những cuộc xét nghiệm men răng cũng cho thấy người đàn ông này sinh ra và lớn lên ở dãy núi Alps. Ông được xác nhận là một cung thủ bởi có rất nhiều đầu mũi tên bằng đá được tìm thấy bên cạnh cơ thể.
"Đây là một bằng chứng quan trọng cho thấy nền văn hóa du nhập từ lục địa đã giúp đưa nước Anh vượt ra khỏi thời kỳ đồ đá", nhà khảo cổ Tony Trueman nói.
Bãi đá cổ Stonehenge được xây dựng trong khoảng từ năm 3.000 đến 1.600 trước công nguyên, là một vòng tròn gồm 20 hòn đá nặng hàng tấn được sắp đặt một cách bí ẩn trên đồng bằng Salisbury. Công trình này thu hút gần 1 triệu du khách mỗi năm.
-
Giải được bí ẩn về sự chuyển động của doi cát cửa sông
Thời tiết lặng gió cũng có vai trò to lớn không kém bão tố trong việc làm dịch chuyển các bãi cát ở cửa sông. Nếu như sóng lớn kéo cát ra xa bờ thì các con sóng lặng lại đẩy nó vào đất liền.
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...C6182/bien.jpg
Một doi cát tại Mexico.
Các nhà nghiên cứu bờ biển từ lâu đã biết rằng những con sóng dữ dội trong các trận bão đã đổ nước vào bờ, sau đó cuốn cát ra biển, khiến các doi cát cửa sông dịch chuyển dần ra khơi với tốc độ hàng chục mét mỗi ngày. Tuy nhiên, họ chưa rõ bằng cách nào mà những doi cát này lại xoay xở “bò” được trở về phía bờ khi biển đã lặng.
Mô hình mới đây của Steve Elgar và cộng sự, tại Viện hải dương học Woods Hole ở Massachusetts (Mỹ), đã giải thích được điều đó. Mô hình này phác họa lại chính xác quá trình tiến, lùi của những doi cát cửa sông tại bờ biển bang Bắc Carolina.
Mô hình cho thấy trong thời kỳ biển lặng, những con sóng yếu ớt đã xé nhỏ doi cát ra và từ từ đẩy chúng vào đất liền. Loại sóng này không mang theo lượng nước lớn như trong các cơn bão, do đó, chúng không tạo thành những dòng chảy mạnh cuốn mọi thứ ra biển giống như ở những con sóng lớn. Sử dụng những số liệu thực tế để kiểm chứng mô hình, Elgar tính ra rằng các con sóng nhỏ có thể đẩy doi cát vào đất liền với tốc độ khoảng 7 mét mỗi ngày.
Các nhà nghiên cứu cho biết, công trình này sẽ rất hữu ích trong việc dự báo biến động của bờ biển, vị trí của các doi cát và lập kế hoạch bảo vệ chúng. Hiện nay, nhiều bờ biển được làm nhân tạo bằng cách lấy cát từ ngoài khơi đổ vào đất liền, do đó không bền vững.
-
Con người mất khả năng đánh hơi như thế nào?
Con người mất dần khả năng khứu giác để thị giác phát triển hơn?
Chó có thể được huấn luyện để tìm ra thuốc phiện và chất nổ, hoặc lần theo dấu vết của kẻ tình nghi là tội phạm chỉ nhờ ngửi mùi. Vậy tại sao chúng ta không làm được điều đó? Các nhà khoa học của Viện Weizmann và Viện nhân chủng học tiến hoá Max Planck (Đức) đã có lời giải thích cho hiện tượng này.
Tất cả các loài thú, trong đó có con người, đều có khoảng 1.000 gene chi phối những protein phát hiện mùi, hay còn gọi là các thụ quan khứu giác. Những thụ quan này khu trú trong lớp màng nhầy của mũi, và nhận ra một mùi hương nào đó bằng việc dính bám với các phân tử chất mùi ấy. Tuy nhiên, các gene khứu giác không phát huy hiệu quả trên tất cả các loài, mà chỉ một số thôi. Phần trăm số gene này hoạt động sẽ quyết định độ nhạy bén với mùi của động vật hoặc người đó.
Trong các nghiên cứu trước kia, giáo sư Doron Lancet của Viện Weizmann đã khám phá ra rằng hơn một nửa số gene khứu giác ở người chứa đột biến, khiến chúng không thể hoạt động bình thường.
Trong một nghiên cứu mới đây đăng trên tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences, các nhà nghiên cứu đã giải đáp được câu hỏi thứ hai: liệu hiện tượng mất chức năng gene khứu giác có ảnh hưởng tới tất cả các loài linh trưởng, hay chỉ trên người mà thôi?
Nhóm nghiên cứu đã so sánh ADN của 50 gene khứu giác chung cho cả người, khỉ hình người và khỉ. Họ phát hiện thấy ở người, 54% số gene đó bị suy yếu, so với 28-36% trên các loài còn lại. Các nhà khoa học cho rằng, quá trình suy giảm này kéo dài từ 3 đến 5 triệu năm, và diễn ra trên người với tốc độ nhanh gấp 4 lần trên các nhánh linh trưởng khác, khiến con người trở nên thiếu nhạy cảm với mùi vị.
Tuy nhiên, cũng theo các nhà nghiên cứu, sự suy giảm chức năng khứu giác là một đặc điểm tiến hoá của homo sapiens. Nó có thể đã nảy sinh do sự phát triển khả năng thị giác của não người - khả năng cho phép chúng ta phân biệt màu sắc và các thành viên khác cùng loài qua những đặc điểm ngoại hình, chứ không chỉ bằng mùi vị.
-
Giải được bí ẩn của những bóng sáng kỳ lạ
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...B9C6541/h1.jpg
Giáo sư Jack Pettigrew và một bóng sáng.
Hãy tưởng tượng bạn đang ngồi trong phòng khách, đột nhiên một bóng sáng xuất hiện lơ lửng giữa nhà. Khi bạn nghiêng đầu để xem điều gì đã tạo nên thứ ánh sáng kỳ dị đó, nó cũng nghiêng theo... Đó chính là những bóng sáng (còn gọi là Min Min light), thường thấy ở Australia.
Kỳ thực, những bóng sáng này chỉ là ảo ảnh của các nguồn sáng đôi khi ở cách đó hàng trăm km, giáo sư Jack Pettigrew, Đại học Queensland ở Brisbane, Australia, vừa khẳng định như vậy trên tạp chí Clinical and Experimental Optometry.
Pettigrew đã nghiên cứu hiện tượng này ở hạt Channel, miền tây Queensland, nơi nó đã ám ảnh người dân địa phương trong nhiều năm qua. “Ngay cả những người đàn ông dạn dày nhất cũng phải chảy nước mắt vì sợ hãi”, ông nói.
Lần đầu tiên chạm chán với Min Min light, Pettigrew tưởng rằng đó là sao Kim. Nhưng không phải thế, "nó đi xuống đường chân trời và nằm yên ở đó một lúc”. Lần sau đó, khi đang lái xe với hai cộng sự, Pettigrew trông thấy một đốm sáng mà thoạt đầu họ tự nhủ đó là mắt của một con mèo ở cách đó khoảng 50 mét. Tuy nhiên, khi họ dừng xe và tắt đèn pha, đốm sáng kia vẫn còn ở nguyên đó, nhảy nhót xung quanh như thể nó là một sinh thể sống. “Chúng tôi đã tranh cãi kịch liệt, không thể đồng ý với nhau được đó là cái gì và ở cách bao xa”.
Bộ ba đã lái xe xuyên qua vùng đồng bằng và sử dụng một chiếc la bàn trên ôtô để tính ra khoảng cách tới đốm sáng. Nhưng sau 5 km, la bàn trên xe vẫn không hề đổi hướng. “Chúng tôi phỏng đoán nó phải nằm cách đó khoảng 300 km trên đường chân trời”. Về sau, ba người mới biết có một chiếc xe đã đi ngược chiều ở đúng thời điểm họ nhìn thấy đốm sáng.
Pettigrew, người từng biết đến hiện tượng ảo ảnh - trong đó các cảnh vật ở rất xa dường như đang treo ngược trên bầu trời - cho rằng điều này có thể giúp giải thích các Min Min light.
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...B9C6541/h2.jpg
Ánh sáng bị khúc xạ, đi theo đường cong của mặt cầu.
Ảo ảnh xuất hiện khi có hiện tượng nghịch nhiệt, tức là không khí lạnh đậm đặc nằm bên dưới sát với mặt đất, còn lớp khí ấm ở bên trên. Trong điều kiện như vậy, ánh sáng từ mặt đất chiếu lên sẽ bị khúc xạ, và đi theo đường cong ôm lấy trái đất, thay vì chiếu thẳng ra ngoài (ảnh). Luẩn quẩn trong lớp khí lạnh này, ánh sáng có thể xuất hiện ở cách xa nguồn của nó hàng trăm km, tạo nên ảo ảnh ở đó.
Để thử nghiệm giả thuyết rằng Min Min light thực sự là môt hiện tượng ảo ảnh trong đêm, Pettigrew đã thực hiện thí nghiệm cho thấy ông có thể tạo ra một thứ tương tự như vậy.
Trước hết, Pettigrew chọn một đêm có thời tiết thuận lợi: đêm lạnh sau một ngày trời nóng, ít gió. Sau đó, ông lái xe 10 km vòng qua một khu đồi tới điểm nằm dưới đường đi chuẩn của ánh sáng (đường thẳng). Điều kỳ lạ đã xuất hiện, 6 người quan sát vẫn nhìn thấy ánh sáng của chiếc xe hơi lơ lửng trên đường chân trời.
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...B9C6541/h3.jpg
Ảo ảnh của một rặng núi ở xa. Nó tan đi khi mặt trời sưởi ấm lớp khí sát mặt đất.
Buổi sáng sau đêm trình diễn, Pettigrew cho biết đã nhìn thấy ảo ảnh của một rặng núi ở xa tại khu vực này. Điều đó ủng hộ giả thuyết cho rằng Min Min light được tạo ra trong một điều kiện đặc biệt của khí quyển. "Thông thường ta không thể nhìn thấy rặng núi đó, vì nó nằm dưới đường chân trời. Nhưng trong điều kiện nghịch nhiệt, nó xuất hiện lơ lửng trên cao, và dần dần tan đi, cuối cùng thì biến mất khi mặt trời sưởi ấm lớp không khí sát mặt đất.
Cơ hội nhìn thấy Min Min light và ảo ảnh ban ngày ở hạt Channel là rất cao, vì vùng này bằng phẳng với các chỗ trũng nhẹ, nơi không khí lạnh rất dễ bị giữ lại. Thêm nữa ở đây, người ta thường nhìn thấy rõ chân trời.
-
Sự lựa chọn bí ẩn của tự nhiên
Nếu tự nhiên là một cô gái thì người ấy sẽ có 2 tay trái và 2 chân phải - một cơ thể không cân đối. Thật vậy, các phân tử không thể thiếu cho sự sống, các axit amin của protein hoặc đường của ADN, chỉ tồn tại trong một hình dạng không gian duy nhất, chỉ bên phải hoặc chỉ bên trái của hai hình đối nhau qua gương.
Nếu đã tồn tại dạng này, thì dạng kia sẽ không có trong tự nhiên nữa. Tại sao vậy? Có lẽ lời giải ẩn chứa trong từ trường của các ngôi sao.
Từ lâu, vấn đề “cùng tay” của tự nhiên đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà sinh vật học và hóa học, bởi hình dáng của các phân tử sẽ quyết định đến hiệu quả sử dụng của nó. Chẳng hạn, một số loại dược phẩm chỉ có thể sử dụng các phân tử trái, hay phải mà thôi. Louis Pasteur cũng từng cố gắng tạo ra hình dạng của axit tatric có trong nước nho, nhưng vô ích.
Giải thích cho vấn đề cùng phía này, một số nhà sinh học cho rằng, trước kia, số các phân tử phải và trái bằng nhau, rồi tự nhiên đã lựa chọn để chỉ giữ lại một dạng duy nhất, Tuy nhiên họ không có bằng chứng thực nghiệm về điều này. Nhiều nhà hóa học khác lại tin là sự sống chỉ xuất hiện trong một môi trường đã bất đối xứng lớn. Chẳng hạn, sự trùng đôi của ADN là không thể có trong một môi trường mà các phân tử phải và trái bằng nhau.
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...B9C75AF/h1.jpg
Ánh sáng và từ trường tác động cùng lúc vào các phân tử trái và phải với số lượng như nhau (A). Những liên kết bị phá vỡ (B) để tạo nên một dạng phân tử trái hoặc phải (C).
Như vậy sự thật cần được tìm ra theo cách khác, đó là các lực bên ngoài tác động vào phân tử. Mới đây, hai nhà nghiên cứu thuộc phòng thí nghiệm từ trường ở Grenoble (Pháp) Geert Rikken và Ernst Raupach, đã lựa chọn ánh sáng và từ trường để làm việc này.
Từ lâu người ta đã biết rằng để nhận biết các phân tử trái và phải, cách tốt nhất là dùng máy chiếu. Bởi sự hút ánh sáng phụ thuộc vào những đặc tính điện của phân tử, hay hình dạng không gian của chúng. Bằng việc phối hợp rất hợp lý giữa ánh sáng và từ trường, Rikken và Raupach đã thành công khi làm mất cân bằng một nhóm các phân tử hóa học ban đầu, gồm các phân tử phải và trái với số lượng như nhau. Các phân tử này hút ánh sáng khác nhau trong điều kiện có từ trường song song với tia sáng. Kết quả là cân bằng bị phá vỡ, các phân tử được tạo ra hoặc chỉ cùng phải, hoặc cùng trái. Từ trường càng mạnh thì sự mất cân bằng càng lớn.
Từ phát hiện này, các nhà nghiên cứu cho rằng rất có thể dạng “tay một phía” - phân tử cùng phải hoặc cùng trái - đã xuất hiện trong các ngôi sao (nơi có từ trường mạnh hơn hàng triệu lần so với trong thí nghiệm và hàng nghìn tỷ lần so với trên trái đất).
Nghiên cứu còn dẫn tới một khám phá thú vị khác. Đó là chỉ cần tạo sự vượt trội rất nhỏ về số lượng của một loại so với loại kia (một phân tử trái được thêm trên 1.000 phân tử phải có trước), thế cũng đủ để làm đảo lộn trật tự các phân tử. Kết quả là chúng đều ở một phía của gương.
Tuy nhiên, để chứng minh được tầm quan trọng của hiện tượng này, hai nhà nghiên cứu còn phải làm được việc tương tự với những phân tử chuyển hóa, như các axit amin. Vấn đề đặt ra ở đây là thiếu phương tiện và một số người phản đối, bởi theo họ, thí nghiệm này đụng chạm đến “nguồn gốc của sự sống”.
-
Thiên tài và những căn bệnh bí ẩn
Thiên tài được sinh ra một cách ngẫu nhiên hay theo một quy luật nhất định nào đó? Đây là câu hỏi lớn đối với các nhà khoa học. Theo một thuyết được nhiều người quan tâm thì thiên tài thường mắc một căn bệnh đặc biệt nào đó và chính căn bệnh này đã tác động khiến họ có những khả năng phi thường.
Thuyết này lần đầu tiên được nhà di truyền học người Nga Vladimir Froismon đưa ra hồi đầu thế kỷ 20.
Vladimir Froismon đã dành nhiều thời gian để thống kê thành một danh sách những thiên tài bị ảnh hưởng của bệnh viêm khớp, trong đó có những tên tuổi lớn như Isaac Newton, Charles Darwin, Christophe Colombo, Galileo, Francis Bacon, Desiderius, Voltaire... Theo nghiên cứu của Froismon thì bệnh viêm khớp thường gây ra một lượng axit uric cao trong máu. Loại axit này là tác nhân kích thích bộ óc làm việc mạnh mẽ. Thành phần của axit uric cũng tương tự như thành phần của chất caffein và theobromin, những chất kích thích có trong cà phê và chè. Hiện tượng nhiều axit uric trong máu không chỉ giúp làm tăng khả năng nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên như toán học, vật lý học, hoá học, thiên văn học mà còn thúc đẩy các nhà hoạt động xã hội và tài năng nghệ thuật, văn chương phát triển. Danh sách những người chịu ảnh hưởng của bệnh viêm khớp còn có các danh họa như Michel Angelo, Rembrandt, thiên tài âm nhạc Beethoven và nhà chính trị nổi tiếng người Đức Otto Bismarck.
Một căn bệnh khác cũng được coi là có liên quan đến sự ra đời của các thiên tài là hội chứng Marfan. Những người mắc hội chứng này thường có tầm vóc cao lớn quá khổ với những ngón tay, ngón chân, cẳng tay, cẳng chân dài một cách khác thường. Một đặc điểm nữa là hầu hết những người mắc hội chứng Marfan đều có khuôn mặt dài và hẹp.
Đặc trưng lạ lùng trên là do những biến thể đặc biệt của cơ thể con người dưới tác động của hội chứng Marfan gây ra. Nhiều nhà khoa học cho rằng chính sự biến đổi như vậy đã mang lại cho thế giới nhiều nhân vật xuất chúng. Có thể liệt kê nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới mắc hội chứng Marfan có những đặc điểm như vậy, trong đó tiêu biểu nhất là 3 người sau đây.
Thứ nhất là tổng thống Mỹ Abraham Lincoln (1809-1865), người có công xoá bỏ chế độ nô lệ ở nước này. Abraham Lincoln xuất thân từ một thợ khắc gỗ, sau đó nhờ nghị lực trở thành luật sư, rồi tổng thống Mỹ. Ông có năng lực làm việc phi thường, khả năng phán đoán và lòng dũng cảm. Tổng thống Lincoln có khuôn mặt dài và hẹp đặc trưng.
Người thứ 2 là nhà văn nổi tiếng người Đan Mạch, Hans Christian Andersen (1805-1875). Ông vốn là con trai của một người thợ đóng giày nghèo khổ, mồ côi từ nhỏ, Andersen bắt đầu đi học rất muộn và mãi đến năm 23 tuổi mới vào đại học. Ông nổi tiếng qua những câu chuyện cổ tích ngụ ngôn làm say mê cả trẻ em lẫn người lớn trên thế giới suốt hơn thế kỷ qua. Khuôn mặt của Andersen cũng có nét nhỏ hẹp của những người mắc hội chứng Marfan.
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...10/abraham.jpg
Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln là nhân vật nổi tiếng mắc hội chứng Marfan.
Người thứ 3 là tổng thống Pháp Charles de Gaulle (1890-1970). Ông là một vị tướng nổi tiếng của Pháp trong Chiến tranh thế giới lần thứ 2 và về sau trở thành vị tổng thống ghi đậm dấu ấn trong lịch sử chính trị Pháp giai đoạn sau chiến tranh. Ngay từ khi còn nhỏ, de Gaulle đã biểu hiện lòng dũng cảm và thông minh. Ông có tầm vóc cao lớn hơn tất cả bạn bè và bờ vai hẹp hình góc nhọn rất đặc biệt.
Cả 3 nhân vật nổi tiếng nêu trên đều mang những triệu chứng của hội chứng Marfan. Ngoài năng khiếu đặc biệt về chính trị, văn học và quân sự, họ còn có sức khoẻ rất đáng chú ý.
Các nhà khoa học cho rằng hội chứng Marfan là nguyên nhân sản sinh ra nhiều chất catecholamin trong máu. Đây là tố chất góp phần kích thích sự hoạt động cao của trí óc và sinh lý cơ thể, khiến cho hầu hết những người mắc hội chứng Marfan đều có năng lực làm việc phi thường. Ngoài ra, một trong những điểm chung của người mắc hội chứng Marfan là đa số họ đều có những khả năng hài hước đặc biệt. Tổng thống Lincoln và nhà văn Andersen là minh chứng cho nhận định này.
-
Mọi bóng ma 'đều ở tâm tưởng mà ra'
Bóng ma là cách diễn giải của trí óc về quá trình tương tác của cơ thể với những vật xung quanh, các nhà tâm lý học Anh nhận định. Cảm giác ớn lạnh khi trời chạng vạng tối hoặc ở trong một từ trường nào đó có thể gợi nên nỗi ám ảnh “có ai đó” trong phòng, nhưng tất cả chỉ dừng lại ở mức độ cảm giác mà thôi.
Lời giải thích này là kết quả của một nghiên cứu lớn, trong đó, các nhà nghiên cứu đã dẫn hàng trăm người tình nguyện đi vòng quanh hai địa danh hãi hùng nhất ở nước Anh - cung điện Hampton Court và các hầm mộ South Bridge ở Edinburgh, Scotland.
Tiến sĩ Richard Wiseman, thuộc Đại học Hertfordshire, và cộng sự cho biết nghiên cứu của họ đã đưa ra nhiều số liệu thú vị, giúp lý giải vì sao nhiều người có thể cảm thấy kinh hãi trong một toà nhà, nhưng không tìm thấy bằng chứng về sự tồn tại của bóng ma ở đó
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...071/bongma.jpg
Nghiên cứu của Wiseman sử dụng hàng trăm người tình nguyện
Tại Hampton Court - nơi được cho là đang ẩn náu oan hồn Catherine Howard, vợ thứ 5 của vua Henry VIII, người đã bị xử tử - các tình nguyện viên được yêu cầu đối mặt với nỗi sợ của họ. Họ phải ghi lại bất cứ trải nghiệm bất thường nào, chẳng hạn nghe thấy tiếng bước chân, cảm giác ớn lạnh hoặc nhìn thấy một bóng người xuất hiện trong phòng, cũng như đánh dấu mức độ cảm nhận ở mỗi vị trí lên một sơ đồ. Tất nhiên trước khi làm điều này, các tình nguyện viên đã phải kê khai tất cả những gì họ biết hoặc từng nghe nói về những nỗi ám ảnh ở đây.
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...71/bongma2.jpg
Ảnh trên chụp tại hầm mộ số 9 của South Bridge. Ảnh dưới được chụp chỉ 5 phút sau đó.
Tiếp đó, các nhà nghiên cứu kiểm tra lại sự phân bố của những trải nghiệm bất thường. Theo cách sắp đặt thông thường, tần suất gặp ma sẽ phân bố đều trong khắp toà nhà. Nhưng trong một mô típ ám ảnh cổ điển, các cuộc chạm trán sẽ tập trung xung quanh những vị trí đặc biệt nào đó.
Kết quả thật bất ngờ: những người tham gia ghi nhận số lượng trải nghiệm bất thường cao hơn hẳn tại các điểm vốn nổi tiếng là ma quái của Hampton Court, như các phòng của Georgian và Phòng trưng bày Ma ám. Trong các hầm mộ ở Edinburgh, kết quả cũng tương tự: những hầm mộ bị coi là kỳ bí hơn cả cũng là những địa điểm diễn ra hầu hết các trải nghiệm bất thường của những người tình nguyện.
Các nhà nghiên cứu cắt nghĩa đây chính là bằng chứng cho thấy nỗi ám ảnh là hiện tượng có thật, bởi chúng chỉ tập trung ở một vài địa điểm đặc biệt nào đó. Và một thực tế là những người thuộc các nền văn hoá khác nhau đều trải qua những cảm giác tương tự qua hàng trăm năm.
“Ám ảnh tồn tại, với ý nghĩa là tồn tại những khu vực mà ở đó người ta trải qua những cảm giác bất thường”, tiến sĩ Richard Wiseman lập luận.
Nhưng sự thực thì ma là gì? Wiseman và cộng sự không chắc chắn về điều đó. Họ nhận định, dù có vẻ như hơi ngược đời, rằng ám ảnh tồn tại nhưng ma thì không. “Người ta trải qua những cảm giác như nhau ở những địa điểm không đổi, nhưng tôi cho rằng nó chủ yếu xuất phát từ những nhân tố thị giác, và có lẽ một vài yếu tố môi trường khác”, ông nói.
Khi kiểm tra chi tiết tại mỗi địa điểm, như nhiệt độ, cường độ sáng và diện tích phòng, tiến sĩ Wiseman cho rằng những người "bị ám ảnh" đã đáp ứng một cách vô thức với những yếu tố của môi trường, và “trạng thái gợi nên sự hoảng sợ” của cảnh vật xung quanh. Ông cho biết có rất nhiều trường hợp cảnh vật đã trở nên ma quái trong mắt người tình nguyện, ở những nơi mà trước đó chưa ai trải nghiệm cảm giác ấy.
Những người theo chủ nghĩa hoài nghi từ lâu vẫn tin rằng những lần gặp gỡ với ma một phần bị chi phối bởi những hiểu biết trước đó của một người về địa điểm này và lịch sử của nó. Nhưng nghiên cứu mới đã bác bỏ giải thích đó. “Chúng tôi tìm thấy rất ít nếu không muốn nói là không có bằng chứng nào về việc hình dung trước đó của một người về các khu vực bị ma ám lại có thể ảnh hưởng đến những trải nghiệm thực tế của họ”, Wiseman nói.
-
Bí mật 'Thành phố mất tích' được phơi bày
Các nhà khoa học tuyên bố Thành phố mất tích (Lost City), quần thể các ngọn tháp đá vôi kỳ lạ mọc lên từ đỉnh của một ngọn núi nằm dưới đáy Đại Tây Dương, đã tồn tại cách đây ít nhất 30.000 năm.
"Thành phố" nằm trên đỉnh một ngọn núi cao khoảng 5.000 m, được phát hiện vào năm 2000 trong một cuộc thám hiểm đáy biển. Nó bao gồm khoảng 30 ngọn tháp, trong đó có cái cao bằng toà nhà 18 tầng, nằm sâu 1 km tại vĩ độ 30 ở giữa Đại Tây Dương.
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho.../lost-city.jpg
Những ngọn tháp mọc lên trên đỉnh núi ở dưới đáy Đại Tây Dương.
"Thành phố mất tích" là một bí ẩn lạ thường - những ngọn tháp được hình thành khi nước biển nóng tràn qua một loại đá rỗ tổ ong gọi là peridotite, Kristin Ludwig tại Đại học Washington cho biết.
Khi đó, sức nóng được tạo ra từ phản ứng hoá học giữa nước biển có độ kiềm pH 10 và đá peridotite. Các phần tử canxi carbonat kết tủa từ hơi nước bồi đắp nên các ngọn tháp. Kết quả là đá peridotite được biến thành đá serpentine. Hydro được hình thành trong quá trình biến đổi đó kết hợp với CO2 hình thành nên khí methane.
"Thành phố mất tích" cùng ngọn núi bên dưới Atlantic Massif đã tạo nên một hệ thống thông hơi thuỷ nhiệt chưa từng được biết đến, bởi nó được tạo ra từ phản ứng hoá học chứ không phải từ hoạt động của núi lửa như những hệ thống đã được phát hiện trước đó.
Các lỗ thông thuỷ nhiệt là những khu vực ở đáy biển nơi xảy ra phản ứng hoá học giữa đá, khoáng chất và nước biển bị nung nóng (thường có tính axit cực cao). Một hệ thống thông hơi black-smoker nổi tiếng được phát hiện trước đó là kết quả của hoạt động núi lửa có nhiệt độ cao lên tới 370 độ C. Ở quần thể này, nhỏ hơn rất nhiều các ngọn tháp ở "Thành phố mất tích", người ta đã tìm thấy sự sống nguyên thuỷ nhất trên trái đất, gọi là archaea. Chúng tương tự vi khuẩn nhưng không cần ánh sáng và oxy để sống sót.
Hệ thống thông hơi ở "Thành phố mất tích" hoạt động ở nhiệt độ thấp hơn rất nhiều (65-75 độ C) do vậy mà dự đoán cũng có chứa nhiều sinh vật sống. Các nhà nghiên cứu hy vọng "Thành phố mất tích" sẽ trở thành một phòng thí nghiệm tự nhiên, giúp tìm ra đầu mối về bản chất sinh học thời kỳ đầu của trái đất, về nguồn gốc của sự sống và về những điều kiện tạo nên cuộc sống ở các hành tinh khác.
-
Giải mã những bí mật của thiền định
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...A7FA/thien.jpg
Thiền định đã trở thành môn học chính khóa ở nhiều trường của Mỹ.
Không cứ phải vào rừng kiếm một guru râu dài mới học được thiền. Tại Mỹ, giờ đây, nhiều khi muốn tránh ngồi thiền cũng khó. Nó là môn được yêu cầu tại nhiều trường học, bệnh viện, công ty luật, các tổ chức chính phủ và cả trong nhà tù...
Trong các trường bao gồm cả đại học, trung học và tiểu học ở Fairfield, Iowa, học sinh ngồi thiền tập thể 2 lần mỗi ngày. Ngay các khách sạn khu Catskills ở New York đã trở thành các trung tâm thiền nhanh đến nỗi được gọi là Buddhist Belt (Vành đai Phật giáo).
Trào lưu thiền định khởi phát có nguyên do từ cả văn hóa lẫn y học. Ngày càng có nhiều thầy thuốc ở Mỹ đề nghị bệnh nhân ngồi thiền như một biện pháp phòng và điều trị các bệnh mạn tính như tim, AIDS, ung thư, vô sinh và đặc biệt là các bệnh rối loạn thần kinh, trầm cảm. "30 năm nghiên cứu đã cho chúng tôi thấy thiền định có tác dụng tuyệt vời trong việc giảm stress", Daniel Goleman cho biết. Ông là tác giả của Destructive Emotions - cuốn sách miêu tả một cuộc đối thoại giữa Đạt Lai Lạt Ma và một nhóm các nhà thần kinh học. "Nó rèn luyện đầu óc và khiến bộ não linh động". Các kỹ thuật quét ảnh não tân tiến cho thấy thiền có thể "rửa" lại não, giải tỏa các khu vực căng thẳng vì máu ở trong tình trạng ách tắc...
Bộ não, như cơ thể, có thể trải qua những thay đổi cực nhỏ trong thiền định sâu. Năm 1967, giáo sư Herbert Benson ở đại học Y Harvard đã tiến hành nghiên cứu trên 36 người thiền định và thấy rằng khi ngồi thiền họ dùng lượng oxy ít hơn bình thường 17%, giảm 3 nhịp tim/phút và tăng sóng theta ở não - hệt như trạng thái trước ngủ - trong khi toàn não vẫn tỉnh táo. Những năm 70, Benson còn chứng minh rằng người ngồi thiền có thể đạt được trạng thái tỉnh táo hơn và hạnh phúc hơn. "Tất cả những gì tôi làm là dùng logic sinh vật học để giải thích thứ kỹ thuật được con người đã dùng hàng nghìn năm nay", Benson nói.
7 năm sau, tiến sĩ tâm thần học Gregg Jacobs, Đại học Harvard, qua ghi sóng não đã phát hiện ra rằng những người thiền có thể sản ra rất nhiều sóng theta và có thể phong tỏa phần não trước vốn nhận và xử lý cảm giác, ngoài ra họ cũng giảm thiểu hoạt động ở phần thùy đỉnh não, nơi phụ trách các cảm giác về không gian - thời gian. Bằng cách "tắt" thùy đỉnh não, người ta có thể mất cảm giác về giới hạn và thấy vũ trụ "trở thành một".
Công nghệ dựng ảnh não ra đời càng thúc đẩy thêm các nghiên cứu. Năm 1997, nhà thần kinh học Andrew Newberg, thuộc Đại học tổng hợp Pennsylvania, đã dùng tia phóng xạ để xem áp lực máu trong não của một nhóm các thiền sư và phát hiện rằng khi họ nhập định, não của họ không "tắt" mà chỉ phong tỏa các thông tin lên thùy đỉnh não. Nghiên cứu thiền định đã có bước đột khởi vào tháng 3/2000 khi Đạt Lai Lạt Ma gặp gỡ các nhà thần kinh học ở Ấn Độ và yêu cầu sử dụng các kỹ thuật dựng ảnh não hiện đại nhất để quan sát các đại sư thiền định (gắn đầy các điện cực). Các kết quả thu được sẽ được thảo luận vào tháng 9 tới.
Người Mỹ đang say mê thử các kỹ thuật thiền như Vipassana (tập thở), thiền hành (đi bộ chậm trong tỉnh giác), TM (thần thiền, bằng cách nhắc đi nhắc lại những thần chú tiếng Phạn), Dzogchen (tỉnh giác) và thậm chí cả thiền vũ (nhảy theo nhạc). Roger Walsh, giáo sư triết học, tâm thần học, Đại học tổng hợp California, nói: "Chỉ những năm gần đây tâm thần học phương Tây mới nhận ra hội chứng nhiễu loạn chú ý (không tập trung được). Nhưng các thiền giả phương Đông đã biết từ hàng nghìn năm trước rằng con người luôn bị nhiễu loạn chú ý mà không ý thức được".
Hơn 10 năm trước, tiến sĩ Dean Ornish đã khẳng định thiền cùng với yoga và ăn kiêng có tác dụng giảm thiểu sự tích tụ các mảng bám ở động mạch vành. Tháng 4/2003, tại đại hội của Hội Tiết niệu Mỹ, ông đã công bố nghiên cứu rằng thiền định có thể làm chậm lại sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt. Tại Đại học Cambridge, John Teasdale chứng minh rằng thiền giúp bệnh nhân trầm cảm rất hiệu quả và giảm tới 1/2 khả năng tái phát bệnh. Ngoài ra, Jon Kabat-Zin, người thành lập Trung tâm trị liệu Stress năm 1979, đã giúp đỡ hơn 14.000 người vượt qua các bệnh đau đớn không cần dùng thuốc bằng cách tập trung thiền định. "Thiền cực kỳ hữu dụng với những bệnh nhân ung thư, AIDS hay các bệnh đau mạn tính", Jon nói. Cũng theo Jon, kỹ thuật thiền định càng hoàn hảo, người ta càng có nhiều kháng thể và hệ thống miễn dịch của cơ thể càng lớn mạnh.
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu mới cũng cho thấy thiền đôi khi có thể thay thế được Viagra vì nó mang lại rất nhiều sinh lực. Nữ nghệ sĩ Heather Graham bắt đầu ngồi thiền từ 12 năm trước dưới sự hướng dẫn của David Lynch, đệ tử của Maharishi nổi tiếng. "Thiền định đã khiến đời tôi đổi khác", chị nói. "Vào cuối ngày, những chuyện eo xèo trên phim trường chẳng còn ý nghĩa gì với tôi nữa". Rất nhiều người Mỹ nổi tiếng đã ngồi thiền. Như Goldie Hawn, với thiền phòng đầy ảnh Đạt Lai Lạt Ma và Mẹ Teresa; hay Bill Ford, ông chủ hãng Ford Motors; cả Hillary Clinton cũng nói đến ngồi thiền; rồi vợ chồng nhà Al Gore. "Cả hai chúng tôi đều tin tưởng vào cầu nguyện và đặc biệt là thiền định", Al Gore, cựu phó tổng thống Mỹ, nói.
-
Trực giác đến từ đâu?
Tại một bệnh viện ở Zimbabwe, một phụ nữ 30 tuổi đang nằm trên băng ca chờ được đưa vào phòng mổ, tình cờ nữ bác sĩ Rebecca Bingham đi ngang qua. Mặc dù chưa từng gặp cũng như đọc bệnh án của bệnh nhân này, Bingham bỗng có một cảm giác bất an, một sự thôi thúc bí ẩn buộc chị phải kiểm tra tim người bệnh.
Áp ống nghe vào ngực bệnh nhân, chị nhận thấy dấu hiệu của chứng hẹp van hai lá, một tình trạng có thể gây ra biến chứng trong quá trình gây mê để phẫu thuật. Chị lập tức báo động với các bác sĩ đang chuẩn bị ca phẫu thuật và họ quyết định hoãn lại. Các cuộc xét nghiệm kỹ lưỡng sau đó xác định những điều Bingham nói là đúng. Tuy nhiên khi được hỏi do đâu mà chị nhận định được điều đó, Bingham trả lời đơn giản đó là một linh cảm.
Bên dưới vùng ý thức
Trong cuộc sống của chúng ta, những linh cảm như của bác sĩ Bingham xuất hiện khá nhiều, đôi khi vượt ngoài tầm chú ý của mọi người. Nhiều nhà tâm lý học, trong đó có tiến sĩ Timothy D. Wilson, giáo sư Đại học Virginia và là tác giả cuốn Strangers to Ourselves (Những kẻ xa lạ với chính mình), tin rằng linh cảm là sự gợi nhớ từ một miền vô thức. Đây không phải là lĩnh vực của những ký ức bị dồn nén hay những cảm xúc nguyên thuỷ như trong lý thuyết của Freud, mà là một cơ chế trong não có tác dụng điều hành các thông tin về cảm giác, phân loại chúng, tìm ra các nguyên cớ, phán đoán về con người và tác động lên cảm xúc cùng những cách ứng xử vượt ra ngoài tầm ý thức của chúng ta.
Theo tiến sĩ Gary Klein, tác giả cuốn Intuition at work (Trực giác hoạt động), chính những năng lực tiềm tàng của tri giác là điều mà người ta thường gọi là khả năng “nhìn thấy cái vô hình”. Trong trường hợp của Bingham, sự bí ẩn nằm bên dưới bề mặt ý thức. Kinh nghiệm công tác tại châu Phi mách bảo cho chị biết rằng chứng hẹp van hai lá ở châu lục này có tính phổ biến hơn ở Mỹ. Cũng như Bingham, hầu hết trong chúng ta đều có một trực giác chính xác xuất phát từ một nơi nào đó. Chúng thường được gọi là “những loé sáng đầy bí ẩn của linh cảm”, “tri giác ngoại cảm”, “bản năng loài vật” hay “giác quan thứ sáu”…
Tiến sĩ Klein luôn chú tâm đến năng lực tiềm tàng của trực giác. Ông dành thời gian nghiên cứu hành vi của những người mà nghề nghiệp buộc họ phải đưa ra quyết định tức thì và có tính sinh tử như lính cứu hoả, y tá cấp cứu hay lính trận. Trong một cuộc phỏng vấn, một trung uý cứu hoả miêu tả chính giác quan thứ sáu đã cứu sống anh cùng đồng đội. Khi vào một ngôi nhà để dập tắt lửa phát ra từ một căn bếp, họ luôn bị ngọn lửa đẩy ngược trở lại. Đây chỉ là một vụ cháy nhỏ nhưng căn bếp lại nóng khủng khiếp. Viên trung uý có cảm giác mối nguy hiểm nghiêm trọng đang gần kề, vội ra lệnh cho thuộc cấp rời khỏi ngôi nhà. Khi họ vừa ra đến đường thì nền căn nhà sụp xuống; nếu còn ở lại, họ sẽ rơi vào chính tâm điểm của ngọn lửa đang sôi sục bên dưới.
Phân tích trường hợp trên, Klein cho rằng linh cảm của viên trung uý cứu hoả thực ra chỉ là một sự hồi ức của tiềm thức. Ngọn lửa không bị dập tắt, căn phòng quá nóng chính là những hồi chuông báo động trong tiềm thức của viên sĩ quan. Chính tiềm thức này gợi nhắc đến một trường hợp có những điều kiện tương tự cũng gây ra sự sụp đổ của khối kiến trúc mà anh từng trải qua (nhưng không nhớ) và lệnh rút khỏi ngôi nhà của anh xuất phát từ một mệnh lệnh của tiềm thức. Trong quá trình nghiên cứu, Klein đã nghe nói đến nhiều trường hợp tương tự. Các phi công, y tá cấp cứu và nhiều thành phần nghề nghiệp khác kể rằng trong tình huống khẩn cấp, họ không có điều kiện chọn lựa hay đưa ra một quyết định có ý thức. Họ buộc phải hành động theo một tri giác ngoại cảm nào đó. Trong một tiến trình như vậy, dù là khẩn cấp để đối phó với tình thế, trực giác con người thường có hai bước hoạt động: Trước tiên, nó nhanh chóng phân biệt các ký ức, tìm một mẫu ký ức quen thuộc để dẫn dắt chúng ta và sau đó, khi chúng ta đi theo một phương án đã xảy ra trong một tình huống tương tự trước đây, tiềm thức sẽ chú trọng đến những điều kỳ quặc và bất ngờ nhất.
Những tín hiệu của cơ thể
Ngay cả khi không ở vào tình thế khẩn cấp, hệ thống “radar” trong cơ thể của chúng ta cũng luôn phát tín hiệu báo động khi có những dấu hiệu đe dọa sự an toàn cho bản thân hay người thân. Chẳng hạn trường hợp cô bé Annie, con của chị Leah Ingram. Tuy mới 5 tuổi nhưng Annie rất hiếu động. Vì vậy, chuyện cô bé trở về nhà sau một buổi học với những vết trầy xước trên người do chơi đùa cùng chúng bạn là chuyện thường tình. Một buổi sáng nọ, Annie báo cho mẹ biết là đang bị đau bụng nên không thể đi học được, trực giác báo cho Igram biết là có điều gì bất thường đã xảy ra với cô bé. Chị dỗ dành Annie và phát hiện cô đã bị một bạn học đấm mạnh vào bụng trong buổi học trước.
Một cuộc nghiên cứu do các nhà khoa học thuộc trường Y của Đại học Iowa (Mỹ) cho thấy cơ thể chúng ta thông minh hơn chúng ta tưởng. Trường hợp của George Soros, nhà tỷ phú được tạp chí Forbes xếp hạng 38 trong số những người giàu nhất thế giới năm 2003, là một. Theo tiết lộ của chính Soros, ông dựa phần nhiều vào bản năng để quyết định đầu tư bạc tỷ. Mỗi khi lưng của Soros bắt đầu nhói đau là tín hiệu cho biết có một điều gì đó không thuận lợi trong quyết định đầu tư chuẩn bị được đưa ra, nhờ vậy mà nhiều lúc ông tránh được nhiều trường hợp thua lỗ.
Đọc tín hiệu trên gương mặt người khác
Nhiều lúc chính trực giác hay linh tính giúp chúng ta nhận định một tình thế không nguy hiểm như ta tưởng. Một bữa nọ, anh John Yarbough thuộc sở cảnh sát Los Angeles đi tuần tra và dừng một chiếc xe lại để kiểm soát như thường lệ. Khi anh đến gần, tài xế là một thiếu niên vụt bước ra với một khẩu súng lăm lăm trong tay. Họ đang ở cách nhau không đầy 2 mét và Yarbough chỉ có một nháy mắt để phán đoán ý đồ của gã tài xế. Trên nguyên tắc, trong tình huống này, anh có quyền bắn hạ y, nhưng vì một lý do nào đó, anh đã không làm thế. Kết cục cho thấy trực giác của anh là đúng. Chỉ sau một thoáng chạm mặt, gã tài xế đã buông súng đầu hàng.
Nhiều năm sau, khi tham gia truy lùng tội phạm, Yarbough mới có điều kiện tìm hiểu tại sao anh đã không nổ súng trước, trong khi bản năng sinh tồn thôi thúc anh làm điều đó. Qua kết quả nghiên cứu của tiến sĩ Paul Ekman, tác giả cuốn Emotions revealed (Những cảm xúc được phát hiện), Yarbough mới biết rằng trong cuộc đối đầu chớp nhoáng kể trên, anh đã vận dụng kỹ thuật “đọc gương mặt” đối thủ mà không biết. Chính trực giác căn cứ vào nét mặt của gã tài xế đã bảo với anh rằng gã sẽ không bắn anh trước. Khả năng này, mỗi chúng ta đều có với những mức độ khác nhau. Chúng giúp ta đánh giá chính xác những biểu hiện nhỏ nhất trên gương mặt người đối diện. Đó có thể là những cảm xúc mạnh mẽ có khi chỉ xuất hiện trong 1/4 giây, nhưng cũng đủ thể hiện cảm nghĩ thực của chủ nhân ngay cả trong trường hợp đương sự cố tình che giấu chúng.
Trở lại trường hợp của bác sĩ Bingham, chị cho rằng linh cảm của chị thường xuất hiện trong một số lần chẩn đoán kỳ lạ. Có lần chị phát hiện bệnh ung thư phổi ở một bệnh nhân đến khám bệnh thông thường. Ở bệnh nhân này không có triệu chứng nào rõ rệt, nhưng linh tính mách bảo Bingham rằng cần chụp X quang lồng ngực của bệnh nhân. Nhờ vậy mà chị phát hiện ra khối u mới khởi phát của người bệnh, giúp cho việc điều trị trở nên dễ dàng hơn.
-
Sóng hạ âm tạo nên sự huyền bí trong các ngôi nhà ma
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...B9CB4A3/ma.jpg
Những ngọn nến phụt tắt, cảm giác ma quái và ớn lạnh sống lưng có thể không phải bởi sự hiện hiện của những bóng ma, mà được gợi nên bởi một loại âm thanh có tần số cực thấp mà con người không nghe thấy, các nhà khoa học Anh vừa tuyên bố.
“Thường thì bạn không thể nghe thấy loại âm thanh này”, tiến sĩ Richard Lord, một chuyên gia về âm học tại Phòng thí nghiệm Vật lý Quốc gia Anh, cho biết.
Trong một thí nghiệm, Lord và cộng sự đã tạo nên sóng hạ âm bằng một chiếc ống dài 7 mét và thử nghiệm phản ứng của nó lên 750 người ngồi trong một phòng hòa nhạc ở London. Các thính giả được nghe 4 bản nhạc (một số trong đó có lồng thêm sóng hạ âm) và được yêu cầu mô tả lại cảm giác của họ. Những người này không biết bản nhạc nào có cộng hưởng thêm sóng hạ âm, nhưng 22% cho biết họ đã trải qua những cảm giác khác lạ như lo lắng bứt rứt, buồn bã, ớn lạnh xương sống, hồi hộp, khiếp sợ hay hoảng hốt.
“Kết quả này chứng tỏ âm thanh có tần số thấp có thể khiến con người có những trải nghiệm bất thường, dù họ không phát hiện ra đó là do hạ âm”, Richard Wiseman, giáo sư tâm lý học tại Đại học Hertfordshire, thành viên của nhóm nghiên cứu, đã cho biết như vậy trong hội thảo mới đây của Hiệp hội Khoa học Anh.
Phát hiện này đã ủng hộ một giả thuyết phổ biến lâu nay về mối liên quan giữa hạ âm và những cảm giác kỳ lạ. “Một số nhà khoa học từng phỏng đoán rằng loại âm thanh này có thể xuất hiện ở một số khu vực bị coi là có ma ám, và vì thế, nó khiến người ta có cảm giác kỳ lạ mà họ tưởng tượng ra là ma. Phát hiện của chúng tôi đã xác nhận điều đó”, Wiseman, nói.
Cũng theo các nhà nghiên cứu, sóng hạ âm còn có thể phát sinh từ những hiện tượng tự nhiên, như trong các cơn bão, gió mùa, những kiểu thời tiết đặc biệt và đôi khi là các dạng động đất. Nhiều loài động vật như voi cũng sử dụng loại sóng này để giao tiếp qua những khoảng cách lớn hay làm vũ khí để đánh đuổi kẻ thù.
-
Ai Cập dùng khoa học xóa bỏ lời nguyền pharaoh
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...CB6E0/vua1.jpg
Mặt nạ của vua Tutankhamun.
Các nhà khảo cổ của xứ sở kim tự tháp sẽ tiến hành kiểm tra những hầm mộ chưa từng bị xâm phạm để tìm kiếm những loại hóa chất, khí hoặc vi trùng độc hại. Nếu thành công, họ sẽ dỡ bỏ được lời nguyền vốn bị coi là gây nên cái chết bí ẩn của những nhà thám hiểm đầu tiên xuống các lăng mộ này đầu thế kỷ 20.
Người đứng đầu ngành khảo cổ Ai Cập Zahi Hawass cho biết: “Tại một trong những điểm khai quật, tôi đã tìm thấy dòng chữ khắc 'Bất kỳ ai nếu chạm tay vào ngôi mộ của ta, kẻ đó sẽ bị cá sấu, hà mã và sư tử ăn thịt'. Nhưng nó không có nghĩa rằng điều này sẽ trở thành thực sự".
“Về mặt khoa học, chúng tôi muốn chỉ ra rằng, khi những người Ai Cập cổ đại để lại dòng chữ trên một ngôi mộ, họ không có ý muốn làm tổn thương đến hậu thế - những người mở cửa ngôi mộ đó”, Hawass nói.
Một phần của nghiên cứu sẽ tập trung vào những vi khuẩn nguy hiểm có thể đã tích lũy trong các xác ướp nhiều thế kỷ qua.
Nhà khảo cổ người Anh Howard Carter và người tài trợ cho chuyến khai quật của ông, Lord Carnarvon, nằm trong số những người đầu tiên bước vào lăng mộ của vị vua thiếu niên Tutankhamun (trị vì Ai Cập hơn 3.000 năm trước) trong Thung lũng của các ông hoàng vào năm 1922. Lord Carnarvon đã chết không lâu sau đó vì một vết muỗi cắn. Các tờ báo khi đó loan tin một lời nguyền của pharaoh đã giết chết ông và những người có liên quan đến khám phá này. Còn các nhà khoa học thì cho rằng một căn bệnh nào đó từng ngủ yên trong ngôi mộ đã cướp đi sinh mạng nhà quý tộc Anh.
“Công việc sẽ sớm được bắt đầu, có lẽ là vào tháng tới. Nhưng chúng tôi chưa rõ thời điểm kết thúc… Chúng tôi sẽ nghiên cứu trong những ngôi mộ còn nguyên vẹn, chưa bị khai quật”, Hawass nói.
-
'Hiệu ứng cuối tuần' - sự biến thiên nhiệt độ kỳ lạ
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...chenhnhiet.jpg
Chênh lệch nhiệt độ ngày đêm đang thu hẹp lại, nhưng điều bí ẩn là khoảng cách này lại mở rộng ra vào cuối tuần.
Hầu hết giới khoa học đồng ý rằng chênh lệch nhiệt độ ngày-đêm ở nhiều khu vực đã thu hẹp lại đáng kể trong những thập kỷ gần đây. Nay, một nghiên cứu mới lại phát hiện ra rằng, không những thế, mức chênh trên còn biến thiên theo chu kỳ 7 ngày trong tuần.
Chênh lệch nhiệt độ ngày-đêm (DTR - chênh lệch giữa mức cao nhất trong ngày và thấp nhất ban đêm) khá nhỏ vào những ngày bình thường, nhưng lại tăng cao từ thứ bảy tới thứ hai, là khoảng thời gian cuối tuần. Hiện tượng này vốn không hề tồn tại trong tự nhiên.
Nghiên cứu do tiến sĩ Piers Forster, tại phòng thí nghiệm Khí tượng và Đại dương học quốc gia Mỹ, và tiến sĩ Susan Solomon, Đại học Reading (Anh) phối hợp thực hiện. Bộ đôi đã thu thập thông tin về sự thay đổi của DTR từ khoảng 10.000 trạm quan trắc mặt đất trên toàn thế giới trong vòng 40 năm qua. Họ phát hiện thấy ở một số khu vực, đặc biệt là các thành phố tại Mỹ, Mexico, Nhật Bản và Trung Quốc, DTR trung bình từ thứ bảy đến thứ hai lớn hơn so với từ thứ tư đến thứ sáu.
Quan sát đã chỉ ra rằng, DTR thu hẹp lại khoảng 0,5 độ C mỗi thập kỷ ở nhiều khu vực, do nhiệt độ tối thiểu ban đêm đã tăng hơn so với ban ngày. Sự khác biệt DTR giữa các ngày trong tuần và cuối tuần cũng là khoảng 0,5 độ C.
Cũng theo nhóm nghiên cứu, hiện tượng này rất phổ biến và có thể quan sát được tại các khu vực khác nhau và cách xa nhau như Mexico và Trung Quốc. “Chúng tôi kết luận rằng hiệu ứng cuối tuần là một hiện tượng địa vật lý ngắn hạn và có phạm vi ảnh hưởng lớn, nhất thiết liên quan đến con người”, nhóm nghiên cứu nhận định.
Mặc dù cơ chế chính xác gây nên "hiệu ứng cuối tuần" vẫn chưa rõ ràng, nhóm nghiên cứu phỏng đoán rằng thủ phạm có thể là các sol khí (những hạt bụi lơ lửng được giải phóng vào khí quyển từ các quá trình công nghiệp và giao thông) đã làm ảnh hưởng đến lớp mây che phủ bầu trời, từ đó tác động đến khí hậu.
Nhiệt độ lớp không khí sát mặt đất trên toàn cầu đã tăng trong thế kỷ qua, và các nhà khoa học hy vọng việc hiểu rõ biến thiên DTR có thể giúp làm sáng tỏ xem bao nhiêu phần trăm trong số thay đổi đó là do các hoạt động của con người.
-
Bí ẩn trí tuệ của người tự kỷ ( P1)
Họ là những người bị coi là thiểu năng trí tuệ, nhưng lại có thể nhân nhẩm được những số có 12 chữ số, vẽ rất đẹp hoặc nói được… 30 ngoại ngữ. Các nhà khoa học đang tìm cách vén bức màn bí hiểm bao quanh họ để rút ra kinh nghiệm làm cho những người bình thường trở nên thông minh hơn.
Khả năng kỳ dị của những người tự kỷ.
Kim Peek 51 tuổi, có đôi chân gầy tong teo và hai bàn tay mềm nhũn, trắng xanh, lạnh lẽo. Khi tiếp khách, ông ngồi lọt thỏm trong ghế, thở hổn hển.
“Tôi sinh ngày 26/12/1959, đó là một ngày thứ bảy trong tuần”. “Còn bố mẹ, vợ, con anh?”. “Cha tôi sinh ngày 16/6/1923. Cũng là một ngày thứ bảy. Con trai tôi sinh ngày 13/2/1996, một ngày thứ ba và sẽ đủ tuổi hưu ngày 13/2/2061 vào một ngày chủ nhật”.
“Kim, thế 4.397 nhân 8.915 là bao nhiêu”. “39.199.255”.
Kim Peek đã không "tính" ra con số này mà gọi ra từ đâu đó, như từ trong tiềm thức vậy. Ông có thể tính nhẩm các ngày trong tuần cho 4.000 năm và chưa bao giờ tính nhầm cả.
“Tôi đến từ Hamburg ở miền bắc nước Đức… Năm 1510, Hamburg được công nhận là thành phố độc lập của đế chế Đức, 1558, thành lập thị trường chứng khoán; 1678, khai trương nhà hát opera đầu tiên; 1871, gia nhập đế chế Đức; 17 năm sau gia nhập hội thuế quan; trước đó ngày 5/5/1842, bị một trận hoả hoạn ghê gớm. Đó là ngày thứ hai trong tuần.
Kim Peek nạp dữ liệu từ 14 lĩnh vực. Ông tính ra ngày trong tuần, nắm các sự kiện lịch sử, các tuyến xe buýt trên khắp nước Mỹ, Canada, mã số điện thoại, bưu điện, nhớ kết quả các trận bóng chày cách đây 40 năm, cả vị trí địa lý các thành phố châu Phi.
Khả năng kỳ diệu của Kim Peek bùng phát đúng vào đêm Giáng sinh năm 1962, khi cậu bé 10 tuổi đột nhiên đọc trước mọi người trong nhà toàn bộ câu chuyện về lễ Giáng sinh trong Kinh Thánh đúng từng câu, từng chữ. Kim đã học thuộc lòng câu chuyện rất dài đó trong những buổi đi lễ nhà thờ.
Mỗi ngày Kim đọc sách khoảng 10 giờ. Cho đến nay, ông đọc khoảng 7.600 cuốn sách chuyên môn, nhưng lại không thể hiểu được sách văn học! Ngoài ra, Kim còn đọc các loại bảng giờ tàu, xe, danh bạ điện thoại…và nhớ được hầu hết những gì đã đọc - tương đương với khối lượng sách chứa đầy 190 thùng các tông lớn.
Giáo sư tâm lý Darold Treffert là một trong số 100 tiến sĩ giỏi nhất nước Mỹ. Từ nhiều năm nay, ông nghiên cứu những tài năng bị thiểu năng trí tuệ như Kim Peek. Đó là những người không có khả năng tự mình đi qua đường mà không bị xe cộ đâm phải, nhưng lại nói được vài chục ngoại ngữ, không hiểu được một bộ phim hoạt hình nhưng lại tính được bất cứ ngày nào trong vòng 4.000 năm là ngày thứ mấy trong tuần. Đó là những người rất khó khăn mới đọc được tên của chính mình, nhưng có thể vẽ lại đúng tới từng chi tiết nhỏ nhất Viện bảo tàng Anh. Trên thế giới có khoảng gần 100 người mắc hội chứng tự kỷ như vậy.
Chỉ những gì ta hay dùng đến mới được cất vào các ô trong bộ nhớ.
Một bộ não khoẻ mạnh có một cơ chế quản lý bộ nhớ, và cái gì cần thiết mới được cất giữ vào các ô. Người tự kỷ có lẽ không có bộ nhớ gồm các ngăn và cũng chẳng có cơ chế quản lý nó. Họ luôn sống trong “nhà kho” lưu trữ những gì mà họ nhớ được: con số, công thức toán học, tranh ảnh…
Cũng như Kim Peek, Stephen Wiltshire là một người sống như vậy. Một ngày tháng 8/2001, hai phóng viên BBC và một thanh niên da đen bay trên một chiếc máy bay lên thẳng để làm một thử nghiệm trên bầu trời London. Stephen Wiltshire là một chàng trai da đen thiểu năng trí tuệ 29 tuổi. Anh phải nhìn qua cửa sổ máy bay trong khi nó lượn một vòng qua khu nội thành London. Sau đó máy bay hạ cánh và trong 3 giờ anh dễ dàng vẽ lại từng chi tiết một khu vực rộng khoảng 10 km2 của London nhìn từ trên trời xuống, nơi có 12 danh lam thắng cảnh nổi tiếng của London, hơn 200 toà nhà với cả những chi tiết như cửa sổ lâu đài, tháp canh, ống khói… Stephen Wiltshire không vẽ, mà “in” bức tranh từ bộ nhớ của anh ta.
Cũng như mọi người khác, những hình ảnh Stephen nhìn thấy được lưu trong vùng sau đầu trên diện tích khoảng 3-4 tỷ tế bào thần kinh. Điểm khác biệt giữa Stephen với những người bình thường là anh không chỉ nhìn một lần (khi máy bay bay qua) mà “nhìn thấy” mãi mãi (cả khi máy bay đã bay qua) những gì anh đã nạp vào bộ nhớ.
Bộ não của người tự kỷ có thể có những năng lực hoàn toàn khác nhau: nhớ các số liệu về các sự kiện lịch sử; các tuyến đường giao thông; tính ra ngày trong tuần cho một ngày bất kỳ; nhớ được những gì đã “nhìn thấy” như Stephen Wiltshire hoặc có năng lực ngôn ngữ phi thường như Christopher Taylor.
Christopher Taylor năm nay 40 tuổi và sống tại một thị trấn nhỏ bé ở Đông Bắc nước Anh. Tối tối anh lại đến uống một, hai cốc bia tại một cái quán nhỏ chỉ cách nhà anh 200 mét. Tuy nhiên, nếu không có người dẫn đường thì thế nào anh cũng đi lạc. Nhưng anh lại có thể nói, đọc và viết được tiếng Đan Mạch, Hà Lan, Phần Lan, Pháp, Đức, Hy Lạp, Hindi, Italy, Nauy, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Nga, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Thổ Nhĩ Kỳ…
Từ đâu mà những người tự kỷ có được khả năng của họ? Câu hỏi tuy có lý, nhưng chưa đúng hướng. Các nhà nghiên cứu đặt câu hỏi theo một hướng hoàn toàn khác: tại sao người bình thường lại không có được những khả năng của những người tự kỷ.
-
(P2)
Việc gạn lọc các dữ liệu trí nhớ bảo đảm cho chúng ta lựa ra những thông tin cần thiết từ “cái kho” lộn xộn trong bộ não, nhưng lại gây khó khăn cho việc học của con người. Các nhà nghiên cứu cho rằng nếu điều khiển được cơ chế học gạn lọc đó thì mỗi người bình thường đều có thể trong chớp mắt học được tiếng Anh hoặc dễ dàng chơi các bản nhạc của Chopin.
Cơ cấu trí nhớ của con người
Cơ cấu trí nhớ của mọi người đều nằm trong vỏ bán cầu đại não gồm khoảng 100 tỷ tế bào thần kinh và chúng tạo nên khoảng một tỷ tỷ điểm kết nối. Cái kho này có đủ chỗ cho mọi dữ liệu, cảnh vật, con số, sự kiện xảy ra từ thời niên thiếu đến khi trưởng thành. Những hình ảnh đó có thể gọi ra được, nhưng được nạp dưới một chế độ nén lớn đến mức không thể lần mò đến chúng được. Để phân biệt những dữ liệu cần thiết cho cuộc sống với những dữ liệu không cần thiết, bộ não phải tiến hành các phương pháp nhắc lại, liên hệ kết nối và xác định giá trị cảm xúc để đánh dấu những dữ liệu quan trọng. Lúc bình thường, không ai nhớ được tên người phi công đã lái chiếc máy bay chở mình trên chặng Frankfurt - New York cả. Nhưng nếu người phi công đó phải hạ cánh khẩn cấp, trên một núi băng chẳng hạn, thì sự kiện bất thường đó sẽ kích hoạt hàng nghìn tế bào thần kinh tạo các điểm kết nối mới và vì thế mỗi lần kể lại câu chuyện đó thì tên người phi công lại được gọi ra từ bộ nhớ. Bộ não sẽ duy trì mối liên kết sao cho đến khi về già người ta vẫn nhớ được câu chuyện và tên người phi công.
Giá trị xúc cảm là một chiến lược rất khôn khéo của bộ não. Việc gạn lọc các dữ liệu trí nhớ bảo đảm cho sự lựa chọn chính xác điều cần thiết, cho dù trữ lượng của “cái kho” trong bộ não to lớn một cách khủng khiếp. Nhưng mặt khác, cơ chế lọc này lại làm cho việc học của con người khá khó khăn. Nếu chế ngự được cơ chế học này theo nhu cầu thì mỗi người bình thường có thể trong chớp mắt học được tiếng Anh, dễ dàng chơi các bản nhạc của Chopin hoặc kích hoạt những tiềm năng còn ẩn giấu trong đầu. Rất tiếc là không thể làm thế được. Tuy nhiên, các nhà khoa học lại cho rằng, có thể làm thế được.
Người bình thường có thể trở thành thiên tài ngôn ngữ nếu bộ não được kích hoạt một cách phù hợp.
Từ 16 năm nay, giáo sư Allan Snyder đi tìm công thức sự “thiên tài” của người tự kỷ. Ông cho rằng, người bình thường chúng ta phải học từ họ, vì “họ chỉ cho chúng ta thấy chúng ta thực sự là ai và có thể sẽ trở thành ai”. Cũng như ông, các nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới trong các lĩnh vực sinh lý, sinh học thần kinh như Gerhard Roth hoặc Manfred Spitzer đều cho rằng, chiến lược của bộ não chỉ nhớ những sự kiện quan trọng đã hạn chế con người len lỏi được vào kho dữ liệu đầy ắp trong bộ não để khai thác những gì mà con người thực ra đã biết.
Vấn đề là làm thế nào để làm giảm đi sự hoạt động của cơ chế lọc và kìm hãm này, nhưng không gây nguy hiểm cho sự cân bằng hóa điện tử của bộ não? Ai lại muốn học ngoại ngữ, nếu vì thế có thể sẽ bị tàn phế (khả năng hoạt động cơ bắp chẳng hạn)? Giáo sư Allan Snyder cho rằng: “Vấn đề đó chúng ta sẽ giải quyết được”.
Mới đây, Allan Snyder cùng với nhóm 6 nhà khoa học khác đã kết thúc một công trình nghiên cứu công phu về vấn đề này. Trong một năm trời, họ đã dùng thiết bị kích thích từ trường vào vùng đầu (TMS) để thử nghiệm vài trăm người. Từ vài năm nay, phương pháp này được dùng để kích thích và làm giảm hoạt động của những vùng nhất định trong não. Mục đích của giáo sư Allan Snyder là kìm hãm hoạt động của những kết nối điện thần kinh nhất định và thế vào đó là “giải phóng” những kết nối điện thần kinh khác, để qua đó thử nghiệm được các khả năng trí tuệ. Giáo sư Allan Snyder cho biết: “khả năng sáng tạo của họ tăng 40%. Những người chịu tác động của TMS ít bị ảnh hưởng bởi lý trí và sự tính toán trong suy nghĩ. Họ suy nghĩ trong những luồng cố định. Họ có thể sử dụng nhiều hơn nguồn dữ liệu trong tiềm thức của họ. Trong một thời khắc, họ đã thành những người tự kỷ!”.
Snyder mơ đến một thiết bị tạm gọi là “cái mũ suy nghĩ”, mà khi chụp nó lên đầu thì năng lực sáng tạo và khả năng học hành của con người sẽ được cải thiện. Ông thừa nhận rằng, nghe có vẻ như khoa học viễn tưởng nhưng 30 năm trước đây ai có thể tưởng tượng ra một thế giới Internet ngày nay.
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-ho...C74F/matt2.jpg
Matt Savage 9 tuổi đã sáng tác những bản nhạc đậm màu sắc và lấp lánh.
Hiện nay vẫn chưa có một cái mũ kiểu như vậy. Những nhà khoa học như Allan Snyder ở Australia và Darold Treffert ở Mỹ vẫn truy tìm những điều bí ẩn bên trong những người tự kỷ. Mới đây, giáo sư Darold Treffert nhận được một đĩa CD do mẹ của một cậu bé mắc chứng tự kỷ gửi đến. Ông biết nhiều người tự kỷ chơi piano và thuộc hàng nghìn bản nhạc, nhưng hầu như ai cũng chơi vô cảm như một cái máy. Tuy vậy khúc tam tấu nhạc Jazz soạn cho piano, contrabass và bộ gõ do cậu bé này chơi lại thật tuyệt vời. Vợ ông khẳng định: “Không thể là của một người tự kỷ được”. “Đúng - ông nói - chưa là một người, vì đó mới chỉ là một cậu bé 11 tuổi”.
Matt Savage biết chơi piano từ năm 6 tuổi và lên 9 đã sáng tác những bản nhạc đậm màu sắc và lấp lánh đến nỗi hai nhạc sĩ nổi tiếng Dave Brubeck và Chick Corea phải tuyên bố cậu là tài năng âm nhạc lớn nhất của thế kỷ! Có thể ông sẽ tìm ra câu trả lời từ trường hợp cậu bé này chăng? Có thể giáo sư Darold Treffert sẽ tìm thấy ở cậu bé này chiếc cầu nối giữa những thiên tài tự kỷ nhưng vô cảm, không ý thức được tài năng của mình với những thiên tài là người bình thường hoàn toàn ý thức được tài năng của mình?