sheva1510
24-04-2008, 12:07 AM
Các lực lượng đặc nhiệm Nga.
Mùa hè năm 1996 Tổng thống Nga ra sắc lệnh thành lập Trung tâm phòng chống tội phạm thuộc FSB, đó là một trong những bước tiến đầu tiên của Mikhail Barsukov từ khi được bổ nhiệm vào chức vụ Giám đốc FSB. Phó Giám đốc Victor Zorin được giao việc phụ trách Trung tâm. Cơ cấu của Trung tâm gồm có đơn vị Alpha, đơn vị Vympel (Vega), các chuyên gia phân tích, các bộ phận tác chiến, bộ phận huấn luyện và thông tin. Trong trường hợp xảy ra tình trạng khẩn cấp, lãnh đạo Trung tâm có quyền huy động cả các lực lượng của FSB, FPS, Bộ Nội vụ.
Tháng 5/1997 Trung tâm CKB đổi tên thành Cục CKB thuộc FSB. Sau đó, khi cơ quan này được tổ chức lại, Cục CKB đổi thành Cục bảo vệ thể chế hiến pháp và đấu tranh chống khủng bố FSB.
Lúc đầu Cục có 4 bộ phận, đó là - Nhóm tác chiến (khủng bố), Nhóm Alpha, Nhóm Vympel và Nhóm K (cơ quan K này là một dạng của Tổng cục 5 KGB nổi tiếng thời Xô-viết chuyên làm nhiệm vụ phản gián trên mặt trận tư tưởng). Sau đó cơ cấu của Cục được bổ sung thêm Sở an ninh hiến pháp (UKB), đứng đầu là ông Genadiy Zotov. Chính ông này đã có sáng kiến sáp nhập Cục CKB và UKB làm một đơn vị thống nhất. Nhóm Alpha và Nhóm Vympel thì được tách ra để nhập vào Trung tâm đặc nhiệm liên bang. Cơ cấu của Cục BVTCHP và CKB FSP lúc ấy gồm các bộ phận như sau:
• Trung tâm đặc nhiệm;
• Sở phụ trách các tỉnh, vùng;
• Sở phụ trách tổ chức;
• Sở điều tra;
• Sở phụ trách chống khủng bố và phần tử chính trị cực đoan;
• Sở điều phối và tác chiến phụ trách khu vực Bắc Kavkaz.
Nhiệm vụ của Nhóm Alpha là vô hiệu quá các phần tử khủng bố cướp máy bay và tàu thuyền, phương tiện đường bộ và bắt cóc con tin.
Nhiệm vụ của Nhóm Vympel thì thiên về các vấn đề nguyên tử, hạt nhân, đó là vô hiệu hoá các phần tử khủng bố trên các cơ sở hạt nhân. Trong thời gian chiến tranh thì nhiệm vụ của họ là tiêu diệt, phá bỏ các cơ sở hạt nhân, tên lửa mang đầu đạn hạt nhân (kể cả thiết bị chuyên chở) và các cơ sở đặc biệt khác trên lãnh thổ của kẻ thù. Tuy nhiên, hiện giờ Nga không chiến tranh với ai cả nên Nhóm Vympel hoạt động ở Chechnya khi cần thiết.
Lực lượng đặc nhiệm Liên Xô là lực lượng tác chiến đặc biệt có quân số lớn nhất trên thế giới, với quân số có thể lên tới 600.000 người. Lực lượng này là sự tổng hợp của các hình thức tác chiến như chống bạo động, chống khủng bố, theo dõi, điệp báo và phản gián, ám sát bắt cóc tạo nên một thực thể với kết cấu cồng kềnh và thần bí, một viên thượng uý thuộc lực lượng này chạy trốn sang phương Tây đã miêu tả về lực lượng này như sau: “Lực lượng đặc nhiệm Liên Xô là lực lượng tác chiến mà phương Tây lo ngại nhất. Vào một buổi sáng sớm nào đó họ có thể bất ngờ xuất hiện trước cửa nhà bạn, cũng giống như danh tướng Haniban của Jataki cổ đại bất ngờ xuất hiện dưới chân thành Roma”.
Trên danh nghĩa lực lượng đặc nhiệm Liên Xô thuộc quyền quản lý của cơ quan tình báo Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô nhưng trong thực tế nó chịu sự lãnh đạo trực tiếp của cơ quan quyền lực cao nhất của Kremlin, do vậy nó còn có danh hiệu “đội quân nằm trong quân đội”.
Đội quân này đã bước ra từ trong lửa đạn của chiến tranh. Kể từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa Xô Viết ra đời. Đảng Cộng sản Liên Xô đã nhận thức được tầm quan trọng của việc có một đội quân tác chiến đặc biệt có bản lĩnh chính trị vững vàng, đáng tin cậy, tiếp đó là việc xây dựng và sử dụng lực lượng tác chiến này được triển khai.
Năm 1918, Liên Xô thành lập “Đội kỵ binh nhiệm vụ đặc biệt”. Năm 1919, căn cứ vào quyết định của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, “chi đội nhiệm vụ đặc biệt” được thành lập để phối hợp hành động với uỷ ban chống phản cách mạng toàn Nga (Trêca), lực lượng đặc nhiệm “Sư đoàn Jier Zenjis Jerzenskis” đầy uy lực, trong thời kỳ khó khăn trấn áp lực lượng bạch vệ đã lập được những chiến công rạng rỡ. Đến những năm cuối thập kỷ 20, lực lượng đặc nhiệm Liên Xô đã hình thành quy mô ban đầu, đã có một số đơn vị với một số loại hình khác nhau trực thuộc ngành an ninh quốc gia, trong đó bao gồm bộ đội biên phòng, lực lượng “Sư đoàn Jerzenskis” của Bộ Nội vụ và Cục Bảo vệ an ninh chính trị (Cục bảo vệ an ninh chính trị, tức uỷ ban an ninh quốc gia của Liên Xô cũ-tiền thân của KGB). Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ 2, Bộ Tổng Tư lệnh tối cao Liên Xô còn thành lập thêm “Bộ tư lệnh trung ương phong trào du kích”, chỉ huy các chi đội làm nhiệm vụ đặc biệt thực hiện các hoạt động chiến tranh du kích, gián điệp, phá hoại, ám sát trong hậu phương quân Đức. Nhà bác học quân sự Liên Xô Papsilov chủ biên của tác phẩm “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại” đã ca ngợi lực lượng đặc nhiệm như sau: “Trong thời kỳ chiến tranh, họ đã giết, làm bị thương và bắt sống hang vạn lính Đức, bọn gián điệp và quan chức chính quyền chiếm đóng. Họ đã làm lật nhào 18.000 đoàn tàu thiêu huỷ và phá hoại hàng vạn chiếc xe cơ giới và hàng vạn toa tàu và xe chở xăng dầu. Đã đánh mạnh vào tinh thần binh sỹ Đức, khiến chúng bàng hoàng lo sợ, ăn không ngon ngủ không yên”. Phía Liên Xô còn cho thành lập “lữ đoàn bộ binh cơ giới hoá độc lập” với biên chế 7.316 người, chia thành 212 phân đội. Trên mặt trận Xô-Đức họ xuất quỷ nhập thần, hoạt động rất hiệu quả. Trong vòng 4 năm của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, họ đã tiêu diệt được tổng cộng 140.000 tên địch, với thiệt hại nhỏ đã giành thắng lợi lớn. Thời kỳ cuối của cuộc chiến, khi Hồng quân tiến vào Berlin, họ lại quay sang khai chiến với Nhật Bản trên chiến trường Châu Á. Tập đoàn quân Liên Xô tại Viễn Đông đã thành lập “Chi đội công kích” và “Chi đội biệt phái đổ bộ đường không”, tham gia vào chiến dịch Viuễn Đông mùa hè mở ra ngày 9 tháng 8 năm 1945, đóng góp quan trọng vào thắng lợi hoàn toàn của cả chiến dịch.
Sau chiến tranh thế giới lần 2, Liên Xô vẫn giữ nguyên lực lượng chiến đấu hiệu quả này đồng thời không ngừng phát triển và sử dụng.
Qua những thập niên đầy biến động lực lượng đặc nhiệm đã trở thành lực lượng mạnh trong lực lượng vũ trang Liên Xô. Một tướng lĩnh cao cấp quân đội Liên Xô đã đánh giá trong một tạp chí chuyên ngành rằng: “Bộ đội đặc nhiệm giống như một lưỡi kiếm đã rút ra khỏi vỏ, vô cùng sắc bén, trong giờ phút nguy cấp nó thể hiện sức mạnh thần kỳ và to lớn vô song”.
Lữ đặc nhiệm hải quân: có 4 lữ, phối thuộc cho 4 hạm đội hải quân. Một lữ gồm 1 lữ bộ, 1 đại đội trực thuộc, 1 đại đội tàu ngầm mi ni, 2 đến 3 tiểu đoàn người nhái, 1 tiểu đoàn dù, 1 đại đội thông tin và 1 chi đội chi viện. Để tránh bộc lộ tên thật, các thành viên của lữ đặc nhiệm hải quân có lúc mặc quân phục của hải quân lục chiến, có lúc lại mặc những kiểu quân phục khác. Lính dù thường mặc quân phục lính dù hải quân; đặc nhiệm trên tàu ngầm thông thường mặc quân phục của lính tàu ngầm; những người khác có thể mặc trang phục của lính hậu cần, pháo binh bờ biển hoặc đồ lính hoặc đồ sĩ quan.
Trung đoàn đặc nhiệm: có 3 trung đoàn, phối thuộc tại bộ chỉ huy tại 3 hướng chiến lược miền tây, miền tây nam và viễn đông mỗi nơi 1 trung đoàn. Trung đoàn bao gồm 1 trung đoàn bộ và 67 đại đội phá hoại, biên chế từ 700 đến 800 người.
Đại đội đặc nhiệm: có 41 đại đội, tại mỗi tập đoàn quân phối thuộc 1 đại đội. Đại đội gồm 1 đại đội bộ, 3 trung đội dù, 1 trung đội thông tin và một phân đội chi viện, biên chế 115 người, có 9 sĩ quan, 11 chuẩn uý và 95 chiến sĩ. Nhiệm vụ của đại đội là hoạt động trong vùng địch cách tiền tuyến từ 100 đến 150 km với đội hình xé lẻ thành các phân đội. Trung đội thông tin tới các tổ trong cự ly 1.000 km. Trong khi hoạt động trong vùng địch, một đại đội này có thể chia thành 15 tổ chia ra hoạt động, cũng có thể hợp thành đội hình thống nhất.
Ngoài ra, lực lượng đặc nhiệm Liên Xô còn bao gồm 20 phân đội đặc nhiệm tình báo và 12 phân đội trinh sát đặc nhiệm. Với 20 phân đội tình báo đặc nhiệm, tại mỗi phương diện quân hoặc hạm đội có một phân đội phố thuộc. 12 phân đội trinh sát đặc nhiệm trực thuộc cơ quan tình báo Bộ Tổng tham mưu. Nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng đặc nhiệm là: thu thập tin tức quan trọng bao gồm tin tức về vũ khí hạt nhân chiến lược, tên lửa chiến dịch chiến thuật, thiết bị tại sân bay và hải cảng, đầu mối giao thông và thông tin liên lạc, chuẩn bị bãi đáp cho máy bay trong vùng địch hậu, hoặc dẫn đường cho bộ đội phá huỷ kho vũ khí hạt nhân của địch hoạt động phá tuyến giao thông, thực hiện tấn công mang tính kiềm chế, bắt cóc, ám sát quan chức cao cấp địch
Lực lượng đặc nhiệm Bộ Nội vụ do Bộ Nội vụ chỉ huy, trực tiếp chịu trách nhiệm với bộ thống soái tối cao. Biên chế 260.000 người, theo cơ cấu sư đoàn, trung đoàn bộ binh cơ giới. Nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ lãnh đạo cao cấp của cơ quan Đảng, chính quyền và đảm bảo an ninh cho các chuyến thăm của nguyên thủ nước ngoài, bảo vệ an ninh tại một số mục tiêu quan trọng như cơ quan Đảng, chính quyền, sân bay, cơ quan nghiên cứu, nhà máy điện, trung tâm thông tin hoặc tham gia chống bạo loạn. Phạm vi của các hoạt động tác chiến thường không vượt ra ngoài biên giới quốc gia hoặc các nước thuộc phe “xã hội chủ nghĩa". Về sau nhiệm vụ được mở rộng sang cả lĩnh vực chống khủng bố. Trong đó phải kể đến lực lượng tinh nhuệ được hết sức giữ bí mật đó là “Đội hành động đặc biệt”. Ngày 8 tháng 3 năm 1987, một chiếc máy bay chở khách động cơ phản lực TU-154, chở theo 76 hành khách bay theo tuyến Yakutzk đến Leningrad thì bị 11 kẻ khủng bố bắt cóc. Máy bay hạ cánh xuống một sân bay quân sự tại Leningrad, “đội hành động đặc biệt” được lệnh xuất kích. Trong trang phục các thợ máy làm nhiệm vụ tiếp dầu, nạp điện máy bay, họ xông vào trong khoang, tiếp đó là màn đấu súng quyết liệt diễn ra. Chỉ trong vòng một phút, 5 tên không tặc bị bắn hạ, 6 tên còn lại bị bắt, cuộc giải cứu thành công. Bộ đội đặc nhiệm KGB là chiếc “chân kiêng lớn nhất trong “thế chân kiềng” của lực lượng đặc nhiệm Liên Xô, biên chế khoảng hơn 300.000 người, còn nhiều hơn toàn bộ lực lượng vũ trang của một quốc gia thông thường. Lực lượng này không chịu sự chỉ huy của Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu mà báo cáo trực tiếp với tổng hành dinh KGB tại Moscow, tiếp đó tin tức được nhanh chóng chuyển sang điện Kremlin. Nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng này là bảo vệ điện Kremlin và các mục tiêu quan trọng của nhà nước, bảo vệ đường biên giới, chống bạo loạn và thực hiện “những nhiệm vụ nhạy cảm” tại nước ngoài.
Trong KGB, các đơn vị đảm nhiệm công tác đặc biệt gồm có: cục 7 KGB, tức cục bộ đội biên phòng. Cục này có binh lực tinh nhuệ cấp sư đoàn hoặc trung đoàn cấp 1, trong đó có “Sư đoàn Terzenskis” nổi tiếng. Nghe nói cục bộ đội biên phòng có khoảng 7 sư đoàn như vậy. Nhiệm vụ chủ yếu của họ là dẹp bạo động trong nước hoặc thực hiện hoạt động tác chiến đặc biệt ở ngoài nước. Trong lực lượng tấn công vào cung điện Daruraman của Afghanistan lần này có một bộ phận thuộc quân số của cục 7 KGB.
Cục 3 KGB, tức cục tình báo bộ đội vũ trang. Cục này có một bộ phận đặc nhiệm chuyên trách theo dõi quân đội. Căn cứ mệnh lệnh của Kremlin, họ gài người vào các cơ quan chỉ huy cấp một của các quân chủng hải lục không quân, thông qua một loạt các cơ cấu phối thuộc nằm trong các đơn vị của lực lượng vũ trang (bao gồm lực lượng đặc nhiệm Bộ Nội vụ và đặc nhiệm KGB), qua các “phòng đặc biệt” để hoàn thành những nhiệm vụ đặc biệt này, đây chính là “tai mắt tự động để KGB kiểm soát quân đội.
Cục 1 KGB, tức là cục hoạt động đối ngoại. Trong cục này có một “nhóm chấp hành nhiệm vụ” chuyên thực hiện các “sứ mạng đặc biệt quan trọng” như ám sát, bắt cóc, phá hoại, các cơ quan tình báo nước ngoài gọi họ là lực lượng đặc nhiệm “chuyên lo việc riêng”.
Vũ khí trang bị của lực lượng đặc nhiệm KGB cũng khác với những lực lượng bình thường. Ngoài súng ngắn, súng trường tiểu liên tấn công, súng bắn tỉa, súng máy và các loại vũ khí hạng nhẹ khác, họ còn được trang bị các loại trang bị đặc trưng khác như xuồng cao tốc, máy bay trực thăng,xe bọc thép, xe tuần tiễu bọc thép, xe chở quân, pháo kính nhìn đêm, đèn pha, thiết bị báo động và liên lạc, rada, thiết bị theo dõi giám sát và các loại vũ khí trang thiết bị hạng nặng khác.
Họ chính là những dũng sĩ trên thao trường
Các chuyên gia quân sự phương Tây cho rằng, trong trường hợp chiến tranh xảy ra, lữ đặc nhiệm “đối phó VIP” của Liên Xô sẽ được tung vào cuộc, toả đi khắp hướng ám sát các nguyên thủ, lãnh đạo của thế giới phương Tây. Nhưng chiến sĩ bí mật đó rời khỏi căn cứ, hoá thân thành các vận động viên tham dự vào đội hình “đội thi đấu thể thao”, tiến hành huấn luyện đặc biệt, sau đó họ đàng hoàng dấn thân vào thế giới phương Tây. Người vận động viên Liên Xô đoạt huy chương vàng đua thuyền tại Thế vận hội chính là một nhân vật đáng sợ kiểu như vậy.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ đặc biệt, quá trình tuyển chọn thành viên cho đội đặc nhiệm hết sức nghiêm khắc, ngoài sự khoẻ mạnh về thể lực và sự dũng cảm thông minh, điều chủ yếu là đáng tin cậy về bản lĩnh chính trị. Công tác tuyển chọn thông thường được tiến hành trước khi tân binh thực hiện nghĩa vụ quân sự của họ. Sau khi tuyển quân, tân binh được phân loại dựa trên yếu tố chính trị thể chất và trình độ văn hoá. Những người ở đẳng cấp cao được đưa vào lực lượng bảo vệ điện Kremlin, lực lượng thông tin tổng hành dinh KGB, lực lượng đặc nhiệm và lực lượng biên phòng KGB. Do vậy, lính đặc nhiệm có thể được chọn từ những người xuất sắc nhất, thậm chí có thể tuyển lựa từ lính dù, lính tên lửa chiến lược, lính trên tàu ngầm hạt nhân và các lực lượng tinh nhuệ khác. Sau khi tân binh được đưa vào trong hàng ngũ lính đặc nhiệm họ phải trải qua sự huấn luyện ngắn ngủi căng thẳng và được sàng lọc. Những hạt giống ưu tú, được đưa đến các tiểu đoàn huấn luyện bộ đội tác chiến và tham gia huấn luyện, ra khỏi đây họ đã trở thành các quân nhân chuyên nghiệp.
1.NHÓM ALPHAhttp://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/6/6a/Alpha_antiterror_group_emblem.png/150px-Alpha_antiterror_group_emblem.png
http://www.ileta.com/images/Ukraine_Specfor.jpg
Nhóm Alpha (hay còn gọi là Nhóm A) được thành lập vào ngày 29/7/1974 theo sáng kiến của Giám đốc KGB Liên xô thời đó là Yuri Andropov và lãnh đạo Tổng cục 7 KGB - Đại tướng Aleksey Beschastnyi. Lúc đó, Nhóm Alpha là biệt đội tuyệt mật, cho tới năm 1985 Nhóm chỉ chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng bí thư ĐCS và lãnh đạo KGB.
http://www.mofa.gov.vn/quocte/tg12,05/tg12_05,10-luc.jpg
Cho đến tháng 8/1991, tên gọi đầy đủ của biệt đội này là Nhóm A thuộc Tổng cục 7 KGB Liên bang Xô-viết. Lúc đầu quân số của Nhóm A rất hạn chế - không quá 40 người, chủ yếu là các nhân viên KGB được huấn luyện đặc biệt.
Mục tiêu hành động của Nhóm A là đấu tranh chống khủng bố và các hoạt động cực đoan khác liên quan tới bắt cóc con tin, phương tiện giao thông, các cơ sở của nhà nước trên lãnh thổ Liên xô cũng như ở nước ngoài.
http://www.tuoitre.com.vn/tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=41397
Tính đến thời điểm Liên xô tan rã thì Nhóm Alpha có khoảng 500 sĩ quan, ngoài Mát-xcơ-va thì còn có các phân nhóm ở Ki-ép, Min-xcơ, Krasnodar, Ekaterinburg và Alma-Ata.
Sau khi Liên xô tan rã, Nhóm A sáp nhập vào Tổng cục cảnh vệ LB Nga. Từ đó cho đến năm 1993, Nhóm A còn làm thêm một nhiệm vụ nữa - bảo vệ Tổng thống. Tháng 8/1995, sau khi ông M. Barsukov lên làm Giám đốc FSB, Nhóm Alpha được tách khỏi Tổng cục cảnh vệ và nhập vào FSB.
Các thành viên của ALFA được tuyển chọn từ những đơn vị lính dù thiện chiến, cảnh sát đặc nhiệm…. Tất cả đều có khả năng sử dụng mọi loại vũ khí, kể cả của Phương Tây, lái xe, trực thăng, xe tăng hạng nhẹ, bơi lặn…Ngoài ra còn có các chuyên gia về chất nổ, thông tin, leo núi, đàm phán, tâm lý, y học…Đội tác chiến dưới nước thường tập luyện tại Hạm đội biển Bắc và Cuba
Tháng 12/1979 - Nhóm A tham gia tập kích dinh thự Tổng thống Afghanistan Hafiz ul-Aman. Họ chia làm 3 đội, đi trên xe BTR vượt đạn lửa xông vào khu dinh thự. Sau đó các chiến sỹ Nhóm A đột nhập vào bên trong dinh thự dưới làn đạn lửa dày đặc. Cuối cùng Tổng thống ul-Aman đã bị giết chết. Phía Nga có 5 chiến sỹ đã hy sinh, trong đó có 2 người của Nhóm A: Dmitriy Zudin và Genadiy Volkov.
Phi vụ nổi tiếng nhất của ALFA là tấn công cung điện của quốc vương Afghanistan: Dar-ul-aman (Afghanistan, December 27, 1979). Đây là tổ hợp ba toà nhà trên đồi, có thể quan sát 360 độ, chỉ có 1 con đường độc đạo đi lên, xây dựng cực kỳ kiên cố, tường có thể chống được đạn 23mm.Thường có 2000 lính của lực lượng mujahideen canh giữ, trang bị vũ khí đầy đủ, cả vũ khí chống tăng. Tuy nhiên hôm đó chỉ còn 200 tên, với 7 xe tăng, trong đó có2 xe án ngữ trước cổng. Cách đó khoảng 500m là tổng hành dinh quân đội, có hệ thống phòng không và nhiều trại lính, cảnh sát xung quanh bảo vệ. Để hỗ trợ cho ALFA, lính dù có nhiệm vụ tiêu diệt các mục tiêu này. 49 lính ALFA được chia thành hai nhóm Grom" (Thunder) 25 người và ZENITH 24 người, trang bị 2 xe ADV, 6 BTR, 6 BMP. Trận chiến diễn ra trong vòng 30 phút, toàn bộ các mục tiêu đều bị tiêu diệt, trong đó Tư lệnh không quân. Đội ALFA mất 1 xe BTR, 1 xe BMP, 5 người thiệt mạng, 13 người bị thương .
Trận này phía Nga có hơn 60 lính đặc nhiệm của KGB, dội 15 thuộc lực lượng đặc nhiệm của GRY và lính dù với tổng số lên đến 650 người. Tổn thất là chết 5 của KGB trong đó 2 thuộc ZENIT, 2 thuộc GROM và chỉ huy của họ đại tá BOIARINOV và 5 của GRY. Tất cả lính đặc nhiệm đều bị thương trong đó có 17 bị thương nặng. Số lính dù tổn thất bao nhiêu không biết. Bên Afgan trong số 2500 lín bảo vệ cung AMIN chết hơn 300, khaỏng 1700 ra hàng và số còn lại chạy được vào núi.
• 18/12/1981 - vô hiệu hoá 2 tên tội phạm có vũ trang bắt cóc 25 học sinh trong 1 trường học làm con tin.
• 02/3/1982 - vô hiệu hoá công dân Liên xô Ushakov trên lãnh thổ ĐSQ Mỹ tại Nga. Ushakov mang trong mình thiết bị nổ (bom mìn) tự tạo.
• 18-19/11/1983 - giải cứu con tin bị bắt giữ trên máy bay Tu-134 ở Tbilisi.
• 20/9/1988 - giải cứu hành khách trên máy bay Tu-134 bị lực lượng quân đội vũ trang bắt giữ.
• Năm 1988 - ở thành phố Mineralnye Vody, nhóm vũ trang nước ngoài Yakshjanza cướp 1 xe buýt chở học sinh và bắt cóc họ làm con tin. Nhóm A đã tiến hành chiến dịch "Grom", đến tận Tel-Aviv để giải cứu các con tin.
• 13/8/1990 - chiến dịch giải cứu con tin bị bắt giữ trong 1 khu cách ly ở thành phố Sukhumi.
• Tháng 1/1991 - Nhóm A tham gia đánh chiếm đài truyền hình thành phố Vilnyus. Trong chiến dịch này một chiến sỹ nhóm A là Victor Shatskikh đã bị hy sinh.
• Tháng 8/1991 - trong thời gian diễn ra đảo chính, các chiến sỹ nhóm Alpha đã có một cuộc họp không chính thức và đã quyết định thông tham gia tập kích Quốc hội Cộng hoà liên bang Nga Xô-viết.
• 04/10/1993 - khi xảy ra chính biến, nhóm Alpha được lệnh tấn công toà nhà Nghị viện LB Nga. Nhóm đã đến bên nhà Nghị viện, tiến hành thương lượng với lãnh đạo lực lượng vũ trang Liên bang và đội cảnh vệ Nghị viện. Cuối cùng Alpha đã xông vào trong toà nhà đưa người ra ngoài. Kết quả là một chiến sỹ Alpha đã thiệt mạng - Genadiy Sergeev, trong lúc đang đưa người bị thương ra khỏi toà nhà. Theo lời của các chiến sỹ Alpha khác chứng kiến sự việc thì Sergeev đã bị bắn một phát trúng vào khu vực không được bảo vệ ở giữa mũ và áo giáp, viên đạn được bắn từ toà nhà đối diện nhà Nghị viện.
• 17/6/1995 - Nhóm Alpha tấn công vào bệnh viện thành phố Budenovsk. Lúc đó, một nhóm khủng bố dưới sự cầm đầu của S. Basaev đã bắt giữ hơn 1.000 con tin. Trong chiến dịch này, một số chiến sỹ đã hy sinh, đó là Dmitriy Burdyaev, Dmitriy Ryabinkin và Vladimir Solovov, 15 chiến sỹ khác bị thương.
• 20/9/1995 - giải cứu con tin bị bắt giữ trên một chiếc xe buýt, bọn khủng bố đã đòi một chiếc trực thăng chở chúng đến Makhachkala.
• Tháng 10/1995 - giải cứu con tin là hành khách trên một chuyến xe buýt ở Mát-xcơ-va, tên khủng bố đã bị bắn chết
Đã không ít giả thiết đặt ra để trả lời cho câu hỏi tại sao lại có tên gọi là “nhóm A”? Tại sao không phải là bất kì một tên gọi khác?
Một trong số những giả thiết – đó có thể là chữ cái đầu tiên trong bảng chữ cái La tinh. Theo một giả thiết khác thì có thể lấy theo chữ cái đầu tiên trong họ của Chủ nhiệm ủy ban an ninh Quốc gia Андропов – người kí sắc lệnh thành lập nhóm (nguyên tổng bí thư CCCP) và thứ ba – tên gọi được chọn theo chữ cái đầu tiên của từ «антитеррор».
Nhóm “Alpha” chỉ là cách gọi “mĩ miều” của các nhà báo đặt cho “nhóm A” trong thời gian tấn công trung tâm truyền hình Вильнюсск vào năm 1991. Và từ đó trở thành cách gọi quen thuộc mỗi khi nhắc tới nhóm A.
Nền móng của nhóm là 30 thành viên. Và tiền thân là những người có nhiệm vụ bảo vệ ngoại giao đoạn của “phòng 7” trực thuộc Ủy ban an ninh Quốc gia KGB. Việc tuyển chọn thành viên cũng chỉ giới hạn trong các sỹ quan của KGB, và trực tiếp Андропов thực hiện việc kiểm tra việc tuyển chọn những thành viên.
Yêu cầu tuyển chọn: không ít hơn 5 năm kinh nghiệm trong những công việc cùng tính chất, sức khỏe tốt, thần kinh ổn định. Những cuộc nói chuyện trong thi tuyển do thiếu tá KGB Роберт Ивон thực hiện. Người vào năm 1977 đã trực tiếp chỉ huy nhóm. Và đội trưởng đầu tiên là Виталий Бубенин
2.NHÓM VYMPEL http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/5/50/Vympel_special_forces.png
http://mgo-rspb.ru/photo1/vympel.jpg
http://chechnya.ru/genocid/beslan12.jpg
Nhóm Vympel được thành lập vào ngày 09/8/1981, thuộc Sở C (tình báo ngầm) Tổng cục 1 KGB Liên xô. Thời đó, Vympel là nhóm biệt kích tình báo ở nước ngoài hàng đầu. Trước Vympel đã từng có các nhóm khác cùng nhiệm vụ, đó là các nhóm Zenit và Kaskad. Tên chính thức của Vympel là "Trung tâm đào tạo đặc biệt thuộc KGB Liên xô".http://media.militaryphotos.net/photos/albums/Russian_Interior_Ministry_Special_Forces/rimsf5.jpg
Nhóm Vympel được lãnh đạo Sở C - thiếu tướng Yuri Ivanovich Drozdov thành lập theo lệnh của Giám đốc KGB Liên xô. Người chỉ huy đầu tiên của Nhóm Vympel là Anh hùng Xô-viết Evald Grigorievich Kozlov. Nhóm Vympel có khoảng 1000 người. http://media.militaryphotos.net/photos/albums/moscow_hostage_incident/mos13.jpg
Mỗi chiến sĩ Vympel biết ít nhất 1 ngoại ngữ, biết về đất nước, nơi mà anh ta sẽ làm nhiệm vụ. Các binh sĩ Vympel được huấn luyện lặn trong lữ đoàn 17 ở thành phố Ochakov, được các chuyên gia Nicaragua huấn luyện xạ kích rồi thực tập ở Cuba. Họ còn được huấn luyện leo núi, tập luyện trên các phương tiện bay hạng nhẹ. Theo lời của ông Drozdov, khi ấy chi phí huấn luyện một chiến sĩ Vympel vào khoảng 100.000 rúp mỗi năm. Quá trình tập huấn kéo dài 5 năm.
http://www.zvezda.org.ru/images/eng_news/58.gif
Các binh sĩ Vympel đã tiến hành các chiến dịch đặc biệt ở ngoài Liên xô (chủ yếu là Afghanistan), tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm độc đáo về nghiệp vụ tình báo và biệt kích, chiến đấu với khủng bố và giải cứu con tin. http://media.militaryphotos.net/photos/albums/moscow_hostage_incident/mos14.jpg
http://media.militaryphotos.net/photos/albums/moscow_hostage_incident/mos37.jpg
Năm 1991 sau khi xảy ra đảo chính, Nhóm Vympel được chuyển sang cho Bộ an ninh LB Nga quản lý. Năm 1993 Nhóm nằm trong thành phần Cơ quan an ninh của Tổng thống.
Khi diễn ra chính biến tháng 10/1993, cũng như Alpha, Vympel đã kháng lệnh tấn công Nghị viện, kết quả là Nhóm đã bị chuyển sang Bộ Nội vụ quản lý. Ở đó, Nhóm Vympel được đặt một cái tên mới - Vega. Trong số vài trăm chiến sĩ Vympel, chỉ có 50 người chịu mang quân hàm cảnh sát (số còn lại giải ngũ hoặc chuyển sang đơn vị khác). Được tin Vympel giải tán, một số quan chức cơ quan an ninh Mỹ đã đến Mát-xcơ-va mời họ (các cựu chiến binh Vympel) về làm việc cho Mỹ. Nhưng các chiến sĩ Vympel đã từ chối những lời mời kia. Một số đã chuyển sang cơ quan tình báo ngoài nước, một số khác chuyển sang Bộ các tình trạng khẩn cấp, 20 người về Trung tâm đặc nhiệm thuộc FSB.
NHÓM SIGNAL FLAG
KGB đã ủy quyền cho Cục C (Cục Điệp báo bí mật) phụ trách mọi hoạt động của lực lượng Signal Flag. Tên gọi thông thường của lực lượng này là Trung tâm huấn luyện độc lập của KGB và phiên hiệu ban đầu là 35690, sau đổi thành 5555. Tiêu chuẩn tuyển chọn những ngày đầu chỉ coi trọng kinh nghiệm, còn yêu cầu về thể năng không quá khắt khe. Nhưng sau này, Signal Flag do phải đảm nhiệm các nhiệm vụ đặc biệt ngày càng nhiều, vì vậy yêu cầu tuyển chọn cũng ngày càng cao và thể năng trở thành một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu.
http://media.militaryphotos.net/photos/albums/moscow_hostage_incident/mos16.jpg
Đầu năm 1991, Signal Flag đã phát triển với quân số 1.200 người, trong đó 90% là sĩ quan. Đối tượng được tuyển chủ yếu là những sĩ quan trẻ ưu tú từ Cục An ninh liên bang, lực lượng đột kích đường không, lực lượng biên phòng và học viên tốt nghiệp loại xuất sắc của các trường quân sự. Tuổi đời của họ từ 22 đến 27. Một điều quan trọng khác trong tuyển chọn thành viên của Signal Flag là những người này phải biết hai ngoại ngữ, trong đó thông thạo một ngoại ngữ, còn một ngoại ngữ phải dịch được các tài liệu, văn bản có sự trợ giúp của từ điển. Không chỉ vậy, họ còn phải trải qua khâu kiểm tra cá tính và kiểm tra bài viết, từ đó mới đánh giá được mức độ thông minh và trí tuệ. Theo chuẩn mực đó thì cứ 15 đến 20 người thì mới chọn được 1 người.
Sau khi được tuyển chọn, các chiến sĩ sẽ phải trải qua các khóa huấn luyện, tác chiến thực tế trong vòng 10-15 năm, sau đó căn cứ vào nhu cầu của tổ chức và khả năng có thể phiên sang bộ phận khác trong đó, 5 năm đầu chủ yếu là huấn luyện. Trước hết, họ được huấn luyện, đào tạo lại các chuyên ngành đặc biệt tại các lớp đào tạo sĩ quan của KGB hoặc Học viện Trinh sát của KGB. Tất cả học viên phải trải qua quá trình huấn luyện 4 giai đoạn về kỹ năng chuyên môn.
Giai đoạn 1 là giai đoạn huấn luyện cơ bản. Các học viên sẽ được huấn luyện hành quân việt dã và khẩn cấp vượt qua các khu rừng nguyên thủy và các vùng đầm lầy. Ở giai đoạn này, học viên phải sống ở trong vùng lầy lội với các xác chết, rắn, rác bẩn... để làm quen và loại bỏ tâm lý sợ hãi. Giai đoạn 2 là huấn luyện năng lực sinh tồn và khả năng chịu đựng. Các học viên tìm cách thích nghi ở những nơi hoang dã không có sự sống và tự biết che giấu mình trước sự truy đuổi của kẻ thù. Giai đoạn 3 là huấn luyện hành động trong các điều kiện đặc biệt. Trung tâm huấn luyện căn cứ vào địa hình, địa vật của một nước nào đó, phong cảnh và đặc điểm của một thành phố nào đó trên thế giới để tiến hành thiết kế bãi tập. Giai đoạn 4 là huấn luyện chiến đấu. Trong giai đoạn này, các học viên phải bắn trăm phát trúng cả trăm, biết lái các loại xe chiến đấu, tìm hiểu và sử dụng các loại trang thiết bị vũ khí của nước ngoài. Đồng thời, các học viên còn phải biết sử dụng các thiết bị đặt bom và thuốc nổ định hướng cỡ nhỏ, biết dùng các loại nhiên liệu đơn giản để làm bom. Đặc biệt các học viên còn nắm bắt và sử dụng thành thạo các loại điện đài, linh hoạt trong việc truyền tải tin tức, trinh sát, nghe trộm và đánh chặn thông tin.
Các thành viên Signal Flag khi triển khai hành động thường chia thành các tốp, mỗi tốp có từ 10 đến 30 người. Trong điều kiện cần thiết, vài tốp có thể nhanh chóng hợp thành một lực lượng tác chiến.
Trong 10 năm xảy ra chiến tranh tại Afghanistan, Signal Flag đã hoạt động rất mạnh. Từ những năm 90, Signal Flag bắt đầu đảm nhận nhiệm vụ tấn công các phần tử khủng bố, các loại tội phạm vũ trang và các tổ chức tội phạm quy mô lớn. Cụ thể năm 1992, 10 thành viên của Signal Flag đã tiêu diệt 14 tên khủng bố có vũ trang khi chúng định tấn công vào 3 nhà ga ở Moskva và tịch thu được 1.000.000 USD giả. Năm 1993, Signal Flag đã ngăn chặn được một vụ khủng bố có quy mô rất lớn tại ngoại ô Moskva.
Gần đây, trong các cuộc giao tranh chống lại phiến quân ở Chechnya hay các vụ giải cứu con tin ở Nhà hát Lớn của Moskva, tại trường trung học ở Beslan... đều có sự đóng góp mang tính quyết định của lực lượng Signal Flag.
Một quan chức phụ trách Signal Flag cho biết, do những chiến công và quá trình huấn luyện gian khổ nên chế độ đãi ngộ của lực lượng Signal Flag cao gấp rưỡi chế độ đãi ngộ dành cho các nhân viên Cục An ninh liên bang Nga và các cơ quan liên quan khác. Mỗi tháng lương của một thành viên Signal Flag trung bình khoảng 6.000 rúp
Mùa hè năm 1996 Tổng thống Nga ra sắc lệnh thành lập Trung tâm phòng chống tội phạm thuộc FSB, đó là một trong những bước tiến đầu tiên của Mikhail Barsukov từ khi được bổ nhiệm vào chức vụ Giám đốc FSB. Phó Giám đốc Victor Zorin được giao việc phụ trách Trung tâm. Cơ cấu của Trung tâm gồm có đơn vị Alpha, đơn vị Vympel (Vega), các chuyên gia phân tích, các bộ phận tác chiến, bộ phận huấn luyện và thông tin. Trong trường hợp xảy ra tình trạng khẩn cấp, lãnh đạo Trung tâm có quyền huy động cả các lực lượng của FSB, FPS, Bộ Nội vụ.
Tháng 5/1997 Trung tâm CKB đổi tên thành Cục CKB thuộc FSB. Sau đó, khi cơ quan này được tổ chức lại, Cục CKB đổi thành Cục bảo vệ thể chế hiến pháp và đấu tranh chống khủng bố FSB.
Lúc đầu Cục có 4 bộ phận, đó là - Nhóm tác chiến (khủng bố), Nhóm Alpha, Nhóm Vympel và Nhóm K (cơ quan K này là một dạng của Tổng cục 5 KGB nổi tiếng thời Xô-viết chuyên làm nhiệm vụ phản gián trên mặt trận tư tưởng). Sau đó cơ cấu của Cục được bổ sung thêm Sở an ninh hiến pháp (UKB), đứng đầu là ông Genadiy Zotov. Chính ông này đã có sáng kiến sáp nhập Cục CKB và UKB làm một đơn vị thống nhất. Nhóm Alpha và Nhóm Vympel thì được tách ra để nhập vào Trung tâm đặc nhiệm liên bang. Cơ cấu của Cục BVTCHP và CKB FSP lúc ấy gồm các bộ phận như sau:
• Trung tâm đặc nhiệm;
• Sở phụ trách các tỉnh, vùng;
• Sở phụ trách tổ chức;
• Sở điều tra;
• Sở phụ trách chống khủng bố và phần tử chính trị cực đoan;
• Sở điều phối và tác chiến phụ trách khu vực Bắc Kavkaz.
Nhiệm vụ của Nhóm Alpha là vô hiệu quá các phần tử khủng bố cướp máy bay và tàu thuyền, phương tiện đường bộ và bắt cóc con tin.
Nhiệm vụ của Nhóm Vympel thì thiên về các vấn đề nguyên tử, hạt nhân, đó là vô hiệu hoá các phần tử khủng bố trên các cơ sở hạt nhân. Trong thời gian chiến tranh thì nhiệm vụ của họ là tiêu diệt, phá bỏ các cơ sở hạt nhân, tên lửa mang đầu đạn hạt nhân (kể cả thiết bị chuyên chở) và các cơ sở đặc biệt khác trên lãnh thổ của kẻ thù. Tuy nhiên, hiện giờ Nga không chiến tranh với ai cả nên Nhóm Vympel hoạt động ở Chechnya khi cần thiết.
Lực lượng đặc nhiệm Liên Xô là lực lượng tác chiến đặc biệt có quân số lớn nhất trên thế giới, với quân số có thể lên tới 600.000 người. Lực lượng này là sự tổng hợp của các hình thức tác chiến như chống bạo động, chống khủng bố, theo dõi, điệp báo và phản gián, ám sát bắt cóc tạo nên một thực thể với kết cấu cồng kềnh và thần bí, một viên thượng uý thuộc lực lượng này chạy trốn sang phương Tây đã miêu tả về lực lượng này như sau: “Lực lượng đặc nhiệm Liên Xô là lực lượng tác chiến mà phương Tây lo ngại nhất. Vào một buổi sáng sớm nào đó họ có thể bất ngờ xuất hiện trước cửa nhà bạn, cũng giống như danh tướng Haniban của Jataki cổ đại bất ngờ xuất hiện dưới chân thành Roma”.
Trên danh nghĩa lực lượng đặc nhiệm Liên Xô thuộc quyền quản lý của cơ quan tình báo Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô nhưng trong thực tế nó chịu sự lãnh đạo trực tiếp của cơ quan quyền lực cao nhất của Kremlin, do vậy nó còn có danh hiệu “đội quân nằm trong quân đội”.
Đội quân này đã bước ra từ trong lửa đạn của chiến tranh. Kể từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa Xô Viết ra đời. Đảng Cộng sản Liên Xô đã nhận thức được tầm quan trọng của việc có một đội quân tác chiến đặc biệt có bản lĩnh chính trị vững vàng, đáng tin cậy, tiếp đó là việc xây dựng và sử dụng lực lượng tác chiến này được triển khai.
Năm 1918, Liên Xô thành lập “Đội kỵ binh nhiệm vụ đặc biệt”. Năm 1919, căn cứ vào quyết định của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, “chi đội nhiệm vụ đặc biệt” được thành lập để phối hợp hành động với uỷ ban chống phản cách mạng toàn Nga (Trêca), lực lượng đặc nhiệm “Sư đoàn Jier Zenjis Jerzenskis” đầy uy lực, trong thời kỳ khó khăn trấn áp lực lượng bạch vệ đã lập được những chiến công rạng rỡ. Đến những năm cuối thập kỷ 20, lực lượng đặc nhiệm Liên Xô đã hình thành quy mô ban đầu, đã có một số đơn vị với một số loại hình khác nhau trực thuộc ngành an ninh quốc gia, trong đó bao gồm bộ đội biên phòng, lực lượng “Sư đoàn Jerzenskis” của Bộ Nội vụ và Cục Bảo vệ an ninh chính trị (Cục bảo vệ an ninh chính trị, tức uỷ ban an ninh quốc gia của Liên Xô cũ-tiền thân của KGB). Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ 2, Bộ Tổng Tư lệnh tối cao Liên Xô còn thành lập thêm “Bộ tư lệnh trung ương phong trào du kích”, chỉ huy các chi đội làm nhiệm vụ đặc biệt thực hiện các hoạt động chiến tranh du kích, gián điệp, phá hoại, ám sát trong hậu phương quân Đức. Nhà bác học quân sự Liên Xô Papsilov chủ biên của tác phẩm “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại” đã ca ngợi lực lượng đặc nhiệm như sau: “Trong thời kỳ chiến tranh, họ đã giết, làm bị thương và bắt sống hang vạn lính Đức, bọn gián điệp và quan chức chính quyền chiếm đóng. Họ đã làm lật nhào 18.000 đoàn tàu thiêu huỷ và phá hoại hàng vạn chiếc xe cơ giới và hàng vạn toa tàu và xe chở xăng dầu. Đã đánh mạnh vào tinh thần binh sỹ Đức, khiến chúng bàng hoàng lo sợ, ăn không ngon ngủ không yên”. Phía Liên Xô còn cho thành lập “lữ đoàn bộ binh cơ giới hoá độc lập” với biên chế 7.316 người, chia thành 212 phân đội. Trên mặt trận Xô-Đức họ xuất quỷ nhập thần, hoạt động rất hiệu quả. Trong vòng 4 năm của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, họ đã tiêu diệt được tổng cộng 140.000 tên địch, với thiệt hại nhỏ đã giành thắng lợi lớn. Thời kỳ cuối của cuộc chiến, khi Hồng quân tiến vào Berlin, họ lại quay sang khai chiến với Nhật Bản trên chiến trường Châu Á. Tập đoàn quân Liên Xô tại Viễn Đông đã thành lập “Chi đội công kích” và “Chi đội biệt phái đổ bộ đường không”, tham gia vào chiến dịch Viuễn Đông mùa hè mở ra ngày 9 tháng 8 năm 1945, đóng góp quan trọng vào thắng lợi hoàn toàn của cả chiến dịch.
Sau chiến tranh thế giới lần 2, Liên Xô vẫn giữ nguyên lực lượng chiến đấu hiệu quả này đồng thời không ngừng phát triển và sử dụng.
Qua những thập niên đầy biến động lực lượng đặc nhiệm đã trở thành lực lượng mạnh trong lực lượng vũ trang Liên Xô. Một tướng lĩnh cao cấp quân đội Liên Xô đã đánh giá trong một tạp chí chuyên ngành rằng: “Bộ đội đặc nhiệm giống như một lưỡi kiếm đã rút ra khỏi vỏ, vô cùng sắc bén, trong giờ phút nguy cấp nó thể hiện sức mạnh thần kỳ và to lớn vô song”.
Lữ đặc nhiệm hải quân: có 4 lữ, phối thuộc cho 4 hạm đội hải quân. Một lữ gồm 1 lữ bộ, 1 đại đội trực thuộc, 1 đại đội tàu ngầm mi ni, 2 đến 3 tiểu đoàn người nhái, 1 tiểu đoàn dù, 1 đại đội thông tin và 1 chi đội chi viện. Để tránh bộc lộ tên thật, các thành viên của lữ đặc nhiệm hải quân có lúc mặc quân phục của hải quân lục chiến, có lúc lại mặc những kiểu quân phục khác. Lính dù thường mặc quân phục lính dù hải quân; đặc nhiệm trên tàu ngầm thông thường mặc quân phục của lính tàu ngầm; những người khác có thể mặc trang phục của lính hậu cần, pháo binh bờ biển hoặc đồ lính hoặc đồ sĩ quan.
Trung đoàn đặc nhiệm: có 3 trung đoàn, phối thuộc tại bộ chỉ huy tại 3 hướng chiến lược miền tây, miền tây nam và viễn đông mỗi nơi 1 trung đoàn. Trung đoàn bao gồm 1 trung đoàn bộ và 67 đại đội phá hoại, biên chế từ 700 đến 800 người.
Đại đội đặc nhiệm: có 41 đại đội, tại mỗi tập đoàn quân phối thuộc 1 đại đội. Đại đội gồm 1 đại đội bộ, 3 trung đội dù, 1 trung đội thông tin và một phân đội chi viện, biên chế 115 người, có 9 sĩ quan, 11 chuẩn uý và 95 chiến sĩ. Nhiệm vụ của đại đội là hoạt động trong vùng địch cách tiền tuyến từ 100 đến 150 km với đội hình xé lẻ thành các phân đội. Trung đội thông tin tới các tổ trong cự ly 1.000 km. Trong khi hoạt động trong vùng địch, một đại đội này có thể chia thành 15 tổ chia ra hoạt động, cũng có thể hợp thành đội hình thống nhất.
Ngoài ra, lực lượng đặc nhiệm Liên Xô còn bao gồm 20 phân đội đặc nhiệm tình báo và 12 phân đội trinh sát đặc nhiệm. Với 20 phân đội tình báo đặc nhiệm, tại mỗi phương diện quân hoặc hạm đội có một phân đội phố thuộc. 12 phân đội trinh sát đặc nhiệm trực thuộc cơ quan tình báo Bộ Tổng tham mưu. Nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng đặc nhiệm là: thu thập tin tức quan trọng bao gồm tin tức về vũ khí hạt nhân chiến lược, tên lửa chiến dịch chiến thuật, thiết bị tại sân bay và hải cảng, đầu mối giao thông và thông tin liên lạc, chuẩn bị bãi đáp cho máy bay trong vùng địch hậu, hoặc dẫn đường cho bộ đội phá huỷ kho vũ khí hạt nhân của địch hoạt động phá tuyến giao thông, thực hiện tấn công mang tính kiềm chế, bắt cóc, ám sát quan chức cao cấp địch
Lực lượng đặc nhiệm Bộ Nội vụ do Bộ Nội vụ chỉ huy, trực tiếp chịu trách nhiệm với bộ thống soái tối cao. Biên chế 260.000 người, theo cơ cấu sư đoàn, trung đoàn bộ binh cơ giới. Nhiệm vụ chủ yếu là bảo vệ lãnh đạo cao cấp của cơ quan Đảng, chính quyền và đảm bảo an ninh cho các chuyến thăm của nguyên thủ nước ngoài, bảo vệ an ninh tại một số mục tiêu quan trọng như cơ quan Đảng, chính quyền, sân bay, cơ quan nghiên cứu, nhà máy điện, trung tâm thông tin hoặc tham gia chống bạo loạn. Phạm vi của các hoạt động tác chiến thường không vượt ra ngoài biên giới quốc gia hoặc các nước thuộc phe “xã hội chủ nghĩa". Về sau nhiệm vụ được mở rộng sang cả lĩnh vực chống khủng bố. Trong đó phải kể đến lực lượng tinh nhuệ được hết sức giữ bí mật đó là “Đội hành động đặc biệt”. Ngày 8 tháng 3 năm 1987, một chiếc máy bay chở khách động cơ phản lực TU-154, chở theo 76 hành khách bay theo tuyến Yakutzk đến Leningrad thì bị 11 kẻ khủng bố bắt cóc. Máy bay hạ cánh xuống một sân bay quân sự tại Leningrad, “đội hành động đặc biệt” được lệnh xuất kích. Trong trang phục các thợ máy làm nhiệm vụ tiếp dầu, nạp điện máy bay, họ xông vào trong khoang, tiếp đó là màn đấu súng quyết liệt diễn ra. Chỉ trong vòng một phút, 5 tên không tặc bị bắn hạ, 6 tên còn lại bị bắt, cuộc giải cứu thành công. Bộ đội đặc nhiệm KGB là chiếc “chân kiêng lớn nhất trong “thế chân kiềng” của lực lượng đặc nhiệm Liên Xô, biên chế khoảng hơn 300.000 người, còn nhiều hơn toàn bộ lực lượng vũ trang của một quốc gia thông thường. Lực lượng này không chịu sự chỉ huy của Bộ Quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu mà báo cáo trực tiếp với tổng hành dinh KGB tại Moscow, tiếp đó tin tức được nhanh chóng chuyển sang điện Kremlin. Nhiệm vụ chủ yếu của lực lượng này là bảo vệ điện Kremlin và các mục tiêu quan trọng của nhà nước, bảo vệ đường biên giới, chống bạo loạn và thực hiện “những nhiệm vụ nhạy cảm” tại nước ngoài.
Trong KGB, các đơn vị đảm nhiệm công tác đặc biệt gồm có: cục 7 KGB, tức cục bộ đội biên phòng. Cục này có binh lực tinh nhuệ cấp sư đoàn hoặc trung đoàn cấp 1, trong đó có “Sư đoàn Terzenskis” nổi tiếng. Nghe nói cục bộ đội biên phòng có khoảng 7 sư đoàn như vậy. Nhiệm vụ chủ yếu của họ là dẹp bạo động trong nước hoặc thực hiện hoạt động tác chiến đặc biệt ở ngoài nước. Trong lực lượng tấn công vào cung điện Daruraman của Afghanistan lần này có một bộ phận thuộc quân số của cục 7 KGB.
Cục 3 KGB, tức cục tình báo bộ đội vũ trang. Cục này có một bộ phận đặc nhiệm chuyên trách theo dõi quân đội. Căn cứ mệnh lệnh của Kremlin, họ gài người vào các cơ quan chỉ huy cấp một của các quân chủng hải lục không quân, thông qua một loạt các cơ cấu phối thuộc nằm trong các đơn vị của lực lượng vũ trang (bao gồm lực lượng đặc nhiệm Bộ Nội vụ và đặc nhiệm KGB), qua các “phòng đặc biệt” để hoàn thành những nhiệm vụ đặc biệt này, đây chính là “tai mắt tự động để KGB kiểm soát quân đội.
Cục 1 KGB, tức là cục hoạt động đối ngoại. Trong cục này có một “nhóm chấp hành nhiệm vụ” chuyên thực hiện các “sứ mạng đặc biệt quan trọng” như ám sát, bắt cóc, phá hoại, các cơ quan tình báo nước ngoài gọi họ là lực lượng đặc nhiệm “chuyên lo việc riêng”.
Vũ khí trang bị của lực lượng đặc nhiệm KGB cũng khác với những lực lượng bình thường. Ngoài súng ngắn, súng trường tiểu liên tấn công, súng bắn tỉa, súng máy và các loại vũ khí hạng nhẹ khác, họ còn được trang bị các loại trang bị đặc trưng khác như xuồng cao tốc, máy bay trực thăng,xe bọc thép, xe tuần tiễu bọc thép, xe chở quân, pháo kính nhìn đêm, đèn pha, thiết bị báo động và liên lạc, rada, thiết bị theo dõi giám sát và các loại vũ khí trang thiết bị hạng nặng khác.
Họ chính là những dũng sĩ trên thao trường
Các chuyên gia quân sự phương Tây cho rằng, trong trường hợp chiến tranh xảy ra, lữ đặc nhiệm “đối phó VIP” của Liên Xô sẽ được tung vào cuộc, toả đi khắp hướng ám sát các nguyên thủ, lãnh đạo của thế giới phương Tây. Nhưng chiến sĩ bí mật đó rời khỏi căn cứ, hoá thân thành các vận động viên tham dự vào đội hình “đội thi đấu thể thao”, tiến hành huấn luyện đặc biệt, sau đó họ đàng hoàng dấn thân vào thế giới phương Tây. Người vận động viên Liên Xô đoạt huy chương vàng đua thuyền tại Thế vận hội chính là một nhân vật đáng sợ kiểu như vậy.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ đặc biệt, quá trình tuyển chọn thành viên cho đội đặc nhiệm hết sức nghiêm khắc, ngoài sự khoẻ mạnh về thể lực và sự dũng cảm thông minh, điều chủ yếu là đáng tin cậy về bản lĩnh chính trị. Công tác tuyển chọn thông thường được tiến hành trước khi tân binh thực hiện nghĩa vụ quân sự của họ. Sau khi tuyển quân, tân binh được phân loại dựa trên yếu tố chính trị thể chất và trình độ văn hoá. Những người ở đẳng cấp cao được đưa vào lực lượng bảo vệ điện Kremlin, lực lượng thông tin tổng hành dinh KGB, lực lượng đặc nhiệm và lực lượng biên phòng KGB. Do vậy, lính đặc nhiệm có thể được chọn từ những người xuất sắc nhất, thậm chí có thể tuyển lựa từ lính dù, lính tên lửa chiến lược, lính trên tàu ngầm hạt nhân và các lực lượng tinh nhuệ khác. Sau khi tân binh được đưa vào trong hàng ngũ lính đặc nhiệm họ phải trải qua sự huấn luyện ngắn ngủi căng thẳng và được sàng lọc. Những hạt giống ưu tú, được đưa đến các tiểu đoàn huấn luyện bộ đội tác chiến và tham gia huấn luyện, ra khỏi đây họ đã trở thành các quân nhân chuyên nghiệp.
1.NHÓM ALPHAhttp://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/6/6a/Alpha_antiterror_group_emblem.png/150px-Alpha_antiterror_group_emblem.png
http://www.ileta.com/images/Ukraine_Specfor.jpg
Nhóm Alpha (hay còn gọi là Nhóm A) được thành lập vào ngày 29/7/1974 theo sáng kiến của Giám đốc KGB Liên xô thời đó là Yuri Andropov và lãnh đạo Tổng cục 7 KGB - Đại tướng Aleksey Beschastnyi. Lúc đó, Nhóm Alpha là biệt đội tuyệt mật, cho tới năm 1985 Nhóm chỉ chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng bí thư ĐCS và lãnh đạo KGB.
http://www.mofa.gov.vn/quocte/tg12,05/tg12_05,10-luc.jpg
Cho đến tháng 8/1991, tên gọi đầy đủ của biệt đội này là Nhóm A thuộc Tổng cục 7 KGB Liên bang Xô-viết. Lúc đầu quân số của Nhóm A rất hạn chế - không quá 40 người, chủ yếu là các nhân viên KGB được huấn luyện đặc biệt.
Mục tiêu hành động của Nhóm A là đấu tranh chống khủng bố và các hoạt động cực đoan khác liên quan tới bắt cóc con tin, phương tiện giao thông, các cơ sở của nhà nước trên lãnh thổ Liên xô cũng như ở nước ngoài.
http://www.tuoitre.com.vn/tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=41397
Tính đến thời điểm Liên xô tan rã thì Nhóm Alpha có khoảng 500 sĩ quan, ngoài Mát-xcơ-va thì còn có các phân nhóm ở Ki-ép, Min-xcơ, Krasnodar, Ekaterinburg và Alma-Ata.
Sau khi Liên xô tan rã, Nhóm A sáp nhập vào Tổng cục cảnh vệ LB Nga. Từ đó cho đến năm 1993, Nhóm A còn làm thêm một nhiệm vụ nữa - bảo vệ Tổng thống. Tháng 8/1995, sau khi ông M. Barsukov lên làm Giám đốc FSB, Nhóm Alpha được tách khỏi Tổng cục cảnh vệ và nhập vào FSB.
Các thành viên của ALFA được tuyển chọn từ những đơn vị lính dù thiện chiến, cảnh sát đặc nhiệm…. Tất cả đều có khả năng sử dụng mọi loại vũ khí, kể cả của Phương Tây, lái xe, trực thăng, xe tăng hạng nhẹ, bơi lặn…Ngoài ra còn có các chuyên gia về chất nổ, thông tin, leo núi, đàm phán, tâm lý, y học…Đội tác chiến dưới nước thường tập luyện tại Hạm đội biển Bắc và Cuba
Tháng 12/1979 - Nhóm A tham gia tập kích dinh thự Tổng thống Afghanistan Hafiz ul-Aman. Họ chia làm 3 đội, đi trên xe BTR vượt đạn lửa xông vào khu dinh thự. Sau đó các chiến sỹ Nhóm A đột nhập vào bên trong dinh thự dưới làn đạn lửa dày đặc. Cuối cùng Tổng thống ul-Aman đã bị giết chết. Phía Nga có 5 chiến sỹ đã hy sinh, trong đó có 2 người của Nhóm A: Dmitriy Zudin và Genadiy Volkov.
Phi vụ nổi tiếng nhất của ALFA là tấn công cung điện của quốc vương Afghanistan: Dar-ul-aman (Afghanistan, December 27, 1979). Đây là tổ hợp ba toà nhà trên đồi, có thể quan sát 360 độ, chỉ có 1 con đường độc đạo đi lên, xây dựng cực kỳ kiên cố, tường có thể chống được đạn 23mm.Thường có 2000 lính của lực lượng mujahideen canh giữ, trang bị vũ khí đầy đủ, cả vũ khí chống tăng. Tuy nhiên hôm đó chỉ còn 200 tên, với 7 xe tăng, trong đó có2 xe án ngữ trước cổng. Cách đó khoảng 500m là tổng hành dinh quân đội, có hệ thống phòng không và nhiều trại lính, cảnh sát xung quanh bảo vệ. Để hỗ trợ cho ALFA, lính dù có nhiệm vụ tiêu diệt các mục tiêu này. 49 lính ALFA được chia thành hai nhóm Grom" (Thunder) 25 người và ZENITH 24 người, trang bị 2 xe ADV, 6 BTR, 6 BMP. Trận chiến diễn ra trong vòng 30 phút, toàn bộ các mục tiêu đều bị tiêu diệt, trong đó Tư lệnh không quân. Đội ALFA mất 1 xe BTR, 1 xe BMP, 5 người thiệt mạng, 13 người bị thương .
Trận này phía Nga có hơn 60 lính đặc nhiệm của KGB, dội 15 thuộc lực lượng đặc nhiệm của GRY và lính dù với tổng số lên đến 650 người. Tổn thất là chết 5 của KGB trong đó 2 thuộc ZENIT, 2 thuộc GROM và chỉ huy của họ đại tá BOIARINOV và 5 của GRY. Tất cả lính đặc nhiệm đều bị thương trong đó có 17 bị thương nặng. Số lính dù tổn thất bao nhiêu không biết. Bên Afgan trong số 2500 lín bảo vệ cung AMIN chết hơn 300, khaỏng 1700 ra hàng và số còn lại chạy được vào núi.
• 18/12/1981 - vô hiệu hoá 2 tên tội phạm có vũ trang bắt cóc 25 học sinh trong 1 trường học làm con tin.
• 02/3/1982 - vô hiệu hoá công dân Liên xô Ushakov trên lãnh thổ ĐSQ Mỹ tại Nga. Ushakov mang trong mình thiết bị nổ (bom mìn) tự tạo.
• 18-19/11/1983 - giải cứu con tin bị bắt giữ trên máy bay Tu-134 ở Tbilisi.
• 20/9/1988 - giải cứu hành khách trên máy bay Tu-134 bị lực lượng quân đội vũ trang bắt giữ.
• Năm 1988 - ở thành phố Mineralnye Vody, nhóm vũ trang nước ngoài Yakshjanza cướp 1 xe buýt chở học sinh và bắt cóc họ làm con tin. Nhóm A đã tiến hành chiến dịch "Grom", đến tận Tel-Aviv để giải cứu các con tin.
• 13/8/1990 - chiến dịch giải cứu con tin bị bắt giữ trong 1 khu cách ly ở thành phố Sukhumi.
• Tháng 1/1991 - Nhóm A tham gia đánh chiếm đài truyền hình thành phố Vilnyus. Trong chiến dịch này một chiến sỹ nhóm A là Victor Shatskikh đã bị hy sinh.
• Tháng 8/1991 - trong thời gian diễn ra đảo chính, các chiến sỹ nhóm Alpha đã có một cuộc họp không chính thức và đã quyết định thông tham gia tập kích Quốc hội Cộng hoà liên bang Nga Xô-viết.
• 04/10/1993 - khi xảy ra chính biến, nhóm Alpha được lệnh tấn công toà nhà Nghị viện LB Nga. Nhóm đã đến bên nhà Nghị viện, tiến hành thương lượng với lãnh đạo lực lượng vũ trang Liên bang và đội cảnh vệ Nghị viện. Cuối cùng Alpha đã xông vào trong toà nhà đưa người ra ngoài. Kết quả là một chiến sỹ Alpha đã thiệt mạng - Genadiy Sergeev, trong lúc đang đưa người bị thương ra khỏi toà nhà. Theo lời của các chiến sỹ Alpha khác chứng kiến sự việc thì Sergeev đã bị bắn một phát trúng vào khu vực không được bảo vệ ở giữa mũ và áo giáp, viên đạn được bắn từ toà nhà đối diện nhà Nghị viện.
• 17/6/1995 - Nhóm Alpha tấn công vào bệnh viện thành phố Budenovsk. Lúc đó, một nhóm khủng bố dưới sự cầm đầu của S. Basaev đã bắt giữ hơn 1.000 con tin. Trong chiến dịch này, một số chiến sỹ đã hy sinh, đó là Dmitriy Burdyaev, Dmitriy Ryabinkin và Vladimir Solovov, 15 chiến sỹ khác bị thương.
• 20/9/1995 - giải cứu con tin bị bắt giữ trên một chiếc xe buýt, bọn khủng bố đã đòi một chiếc trực thăng chở chúng đến Makhachkala.
• Tháng 10/1995 - giải cứu con tin là hành khách trên một chuyến xe buýt ở Mát-xcơ-va, tên khủng bố đã bị bắn chết
Đã không ít giả thiết đặt ra để trả lời cho câu hỏi tại sao lại có tên gọi là “nhóm A”? Tại sao không phải là bất kì một tên gọi khác?
Một trong số những giả thiết – đó có thể là chữ cái đầu tiên trong bảng chữ cái La tinh. Theo một giả thiết khác thì có thể lấy theo chữ cái đầu tiên trong họ của Chủ nhiệm ủy ban an ninh Quốc gia Андропов – người kí sắc lệnh thành lập nhóm (nguyên tổng bí thư CCCP) và thứ ba – tên gọi được chọn theo chữ cái đầu tiên của từ «антитеррор».
Nhóm “Alpha” chỉ là cách gọi “mĩ miều” của các nhà báo đặt cho “nhóm A” trong thời gian tấn công trung tâm truyền hình Вильнюсск vào năm 1991. Và từ đó trở thành cách gọi quen thuộc mỗi khi nhắc tới nhóm A.
Nền móng của nhóm là 30 thành viên. Và tiền thân là những người có nhiệm vụ bảo vệ ngoại giao đoạn của “phòng 7” trực thuộc Ủy ban an ninh Quốc gia KGB. Việc tuyển chọn thành viên cũng chỉ giới hạn trong các sỹ quan của KGB, và trực tiếp Андропов thực hiện việc kiểm tra việc tuyển chọn những thành viên.
Yêu cầu tuyển chọn: không ít hơn 5 năm kinh nghiệm trong những công việc cùng tính chất, sức khỏe tốt, thần kinh ổn định. Những cuộc nói chuyện trong thi tuyển do thiếu tá KGB Роберт Ивон thực hiện. Người vào năm 1977 đã trực tiếp chỉ huy nhóm. Và đội trưởng đầu tiên là Виталий Бубенин
2.NHÓM VYMPEL http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/5/50/Vympel_special_forces.png
http://mgo-rspb.ru/photo1/vympel.jpg
http://chechnya.ru/genocid/beslan12.jpg
Nhóm Vympel được thành lập vào ngày 09/8/1981, thuộc Sở C (tình báo ngầm) Tổng cục 1 KGB Liên xô. Thời đó, Vympel là nhóm biệt kích tình báo ở nước ngoài hàng đầu. Trước Vympel đã từng có các nhóm khác cùng nhiệm vụ, đó là các nhóm Zenit và Kaskad. Tên chính thức của Vympel là "Trung tâm đào tạo đặc biệt thuộc KGB Liên xô".http://media.militaryphotos.net/photos/albums/Russian_Interior_Ministry_Special_Forces/rimsf5.jpg
Nhóm Vympel được lãnh đạo Sở C - thiếu tướng Yuri Ivanovich Drozdov thành lập theo lệnh của Giám đốc KGB Liên xô. Người chỉ huy đầu tiên của Nhóm Vympel là Anh hùng Xô-viết Evald Grigorievich Kozlov. Nhóm Vympel có khoảng 1000 người. http://media.militaryphotos.net/photos/albums/moscow_hostage_incident/mos13.jpg
Mỗi chiến sĩ Vympel biết ít nhất 1 ngoại ngữ, biết về đất nước, nơi mà anh ta sẽ làm nhiệm vụ. Các binh sĩ Vympel được huấn luyện lặn trong lữ đoàn 17 ở thành phố Ochakov, được các chuyên gia Nicaragua huấn luyện xạ kích rồi thực tập ở Cuba. Họ còn được huấn luyện leo núi, tập luyện trên các phương tiện bay hạng nhẹ. Theo lời của ông Drozdov, khi ấy chi phí huấn luyện một chiến sĩ Vympel vào khoảng 100.000 rúp mỗi năm. Quá trình tập huấn kéo dài 5 năm.
http://www.zvezda.org.ru/images/eng_news/58.gif
Các binh sĩ Vympel đã tiến hành các chiến dịch đặc biệt ở ngoài Liên xô (chủ yếu là Afghanistan), tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm độc đáo về nghiệp vụ tình báo và biệt kích, chiến đấu với khủng bố và giải cứu con tin. http://media.militaryphotos.net/photos/albums/moscow_hostage_incident/mos14.jpg
http://media.militaryphotos.net/photos/albums/moscow_hostage_incident/mos37.jpg
Năm 1991 sau khi xảy ra đảo chính, Nhóm Vympel được chuyển sang cho Bộ an ninh LB Nga quản lý. Năm 1993 Nhóm nằm trong thành phần Cơ quan an ninh của Tổng thống.
Khi diễn ra chính biến tháng 10/1993, cũng như Alpha, Vympel đã kháng lệnh tấn công Nghị viện, kết quả là Nhóm đã bị chuyển sang Bộ Nội vụ quản lý. Ở đó, Nhóm Vympel được đặt một cái tên mới - Vega. Trong số vài trăm chiến sĩ Vympel, chỉ có 50 người chịu mang quân hàm cảnh sát (số còn lại giải ngũ hoặc chuyển sang đơn vị khác). Được tin Vympel giải tán, một số quan chức cơ quan an ninh Mỹ đã đến Mát-xcơ-va mời họ (các cựu chiến binh Vympel) về làm việc cho Mỹ. Nhưng các chiến sĩ Vympel đã từ chối những lời mời kia. Một số đã chuyển sang cơ quan tình báo ngoài nước, một số khác chuyển sang Bộ các tình trạng khẩn cấp, 20 người về Trung tâm đặc nhiệm thuộc FSB.
NHÓM SIGNAL FLAG
KGB đã ủy quyền cho Cục C (Cục Điệp báo bí mật) phụ trách mọi hoạt động của lực lượng Signal Flag. Tên gọi thông thường của lực lượng này là Trung tâm huấn luyện độc lập của KGB và phiên hiệu ban đầu là 35690, sau đổi thành 5555. Tiêu chuẩn tuyển chọn những ngày đầu chỉ coi trọng kinh nghiệm, còn yêu cầu về thể năng không quá khắt khe. Nhưng sau này, Signal Flag do phải đảm nhiệm các nhiệm vụ đặc biệt ngày càng nhiều, vì vậy yêu cầu tuyển chọn cũng ngày càng cao và thể năng trở thành một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu.
http://media.militaryphotos.net/photos/albums/moscow_hostage_incident/mos16.jpg
Đầu năm 1991, Signal Flag đã phát triển với quân số 1.200 người, trong đó 90% là sĩ quan. Đối tượng được tuyển chủ yếu là những sĩ quan trẻ ưu tú từ Cục An ninh liên bang, lực lượng đột kích đường không, lực lượng biên phòng và học viên tốt nghiệp loại xuất sắc của các trường quân sự. Tuổi đời của họ từ 22 đến 27. Một điều quan trọng khác trong tuyển chọn thành viên của Signal Flag là những người này phải biết hai ngoại ngữ, trong đó thông thạo một ngoại ngữ, còn một ngoại ngữ phải dịch được các tài liệu, văn bản có sự trợ giúp của từ điển. Không chỉ vậy, họ còn phải trải qua khâu kiểm tra cá tính và kiểm tra bài viết, từ đó mới đánh giá được mức độ thông minh và trí tuệ. Theo chuẩn mực đó thì cứ 15 đến 20 người thì mới chọn được 1 người.
Sau khi được tuyển chọn, các chiến sĩ sẽ phải trải qua các khóa huấn luyện, tác chiến thực tế trong vòng 10-15 năm, sau đó căn cứ vào nhu cầu của tổ chức và khả năng có thể phiên sang bộ phận khác trong đó, 5 năm đầu chủ yếu là huấn luyện. Trước hết, họ được huấn luyện, đào tạo lại các chuyên ngành đặc biệt tại các lớp đào tạo sĩ quan của KGB hoặc Học viện Trinh sát của KGB. Tất cả học viên phải trải qua quá trình huấn luyện 4 giai đoạn về kỹ năng chuyên môn.
Giai đoạn 1 là giai đoạn huấn luyện cơ bản. Các học viên sẽ được huấn luyện hành quân việt dã và khẩn cấp vượt qua các khu rừng nguyên thủy và các vùng đầm lầy. Ở giai đoạn này, học viên phải sống ở trong vùng lầy lội với các xác chết, rắn, rác bẩn... để làm quen và loại bỏ tâm lý sợ hãi. Giai đoạn 2 là huấn luyện năng lực sinh tồn và khả năng chịu đựng. Các học viên tìm cách thích nghi ở những nơi hoang dã không có sự sống và tự biết che giấu mình trước sự truy đuổi của kẻ thù. Giai đoạn 3 là huấn luyện hành động trong các điều kiện đặc biệt. Trung tâm huấn luyện căn cứ vào địa hình, địa vật của một nước nào đó, phong cảnh và đặc điểm của một thành phố nào đó trên thế giới để tiến hành thiết kế bãi tập. Giai đoạn 4 là huấn luyện chiến đấu. Trong giai đoạn này, các học viên phải bắn trăm phát trúng cả trăm, biết lái các loại xe chiến đấu, tìm hiểu và sử dụng các loại trang thiết bị vũ khí của nước ngoài. Đồng thời, các học viên còn phải biết sử dụng các thiết bị đặt bom và thuốc nổ định hướng cỡ nhỏ, biết dùng các loại nhiên liệu đơn giản để làm bom. Đặc biệt các học viên còn nắm bắt và sử dụng thành thạo các loại điện đài, linh hoạt trong việc truyền tải tin tức, trinh sát, nghe trộm và đánh chặn thông tin.
Các thành viên Signal Flag khi triển khai hành động thường chia thành các tốp, mỗi tốp có từ 10 đến 30 người. Trong điều kiện cần thiết, vài tốp có thể nhanh chóng hợp thành một lực lượng tác chiến.
Trong 10 năm xảy ra chiến tranh tại Afghanistan, Signal Flag đã hoạt động rất mạnh. Từ những năm 90, Signal Flag bắt đầu đảm nhận nhiệm vụ tấn công các phần tử khủng bố, các loại tội phạm vũ trang và các tổ chức tội phạm quy mô lớn. Cụ thể năm 1992, 10 thành viên của Signal Flag đã tiêu diệt 14 tên khủng bố có vũ trang khi chúng định tấn công vào 3 nhà ga ở Moskva và tịch thu được 1.000.000 USD giả. Năm 1993, Signal Flag đã ngăn chặn được một vụ khủng bố có quy mô rất lớn tại ngoại ô Moskva.
Gần đây, trong các cuộc giao tranh chống lại phiến quân ở Chechnya hay các vụ giải cứu con tin ở Nhà hát Lớn của Moskva, tại trường trung học ở Beslan... đều có sự đóng góp mang tính quyết định của lực lượng Signal Flag.
Một quan chức phụ trách Signal Flag cho biết, do những chiến công và quá trình huấn luyện gian khổ nên chế độ đãi ngộ của lực lượng Signal Flag cao gấp rưỡi chế độ đãi ngộ dành cho các nhân viên Cục An ninh liên bang Nga và các cơ quan liên quan khác. Mỗi tháng lương của một thành viên Signal Flag trung bình khoảng 6.000 rúp