Đăng nhập

View Full Version : Các vị La Hán chùa Tây Phương



loveactually
10-01-2008, 06:04 PM
Các vị La Hán chùa Tây Phương

Chiểu theo yêu cầu của Quỳnh bên topic:
http://chuyenhvt.net/forum/showthread.php?t=278&page=4

Mình xin giới thiệu về Các vị tổ của chùa Tây Phương:

Dưới đây cũng là những tác phẩm muôn đời của Việt Nam.

Tác giả: Khuyết danh. Không biết chính xác ai là những người đã tạc những pho tượng này.

Mười tám vị Tổ Thiền Tông Ấn Độ, tượng chùa Tây Phương. Tượng tạc bằng gỗ mít, pho lớn nhất cao đến 1,8m.

Tổ thứ nhất: Ma Ha Ca Diếp (Mahakasyapa)
Tổ thứ hai: A Nan Đà (Ananda)

http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to01_mahacadiep.jpg..http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to02_ananda.jpg

Tổ thứ ba: Thương Na Hòa Tu (Sanavasin)
Tổ thứ tư: Ưu Ba Cầu Đa (Upagupta)

http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to03_thuongnahoatu.jpg...http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to04_uubacauda.jpg

Tổ thứ năm: Đề Đa Ca (Dhitika)
Tổ thứ sáu: Di Già Ca (Misaka)

http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to05_dedaca.jpg...http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to06_digiaca.jpg

Tổ thứ bảy: Bà Tu Mật (Vasumitra)
Tổ thứ tám: Phật Đà Nan Đề (Buddhanandi)

http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to07_batumat.jpg...http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to08_phatdanande.jpg

Tổ thứ chín: Phật Đà Mật Đa (Buddhamitra)
Tổ thứ mười: Bà Lật Thấp Bà (Parsva), hay Hiếp Tôn giả

http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to09_phudamatda.jpghttp://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to10_hieptongia.jpg

Tổ thứ 11: A Na Bồ Đề (Anabodhi) hay Mã Minh
Tổ thứ 12: Ca Tỳ Ma La (Kapimala)

http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to12_maminh.jpg...http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to13_catymala.jpg

loveactually
10-01-2008, 06:10 PM
Tổ thứ 13: Na Già Hạt Thụ Na (Nagarjuna) hay Long Thụ tôn giả
Tổ thứ 14: La Hầu La Đa (Rahulabhadra)
http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to14_longthu.jpg...http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to16_lahaulada.jpg

Tổ thứ 15: Tăng Già Nan Đề (Saghanandi)
Tổ thứ 16: Già Da Xá Đa (Saghayathata)

http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to17_tanggianande.jpg...http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to18_giadaxada.jpg


Tổ thứ 17: Cưu Ma La Đa (Kumaralata)
Tổ thứ 18: Xà Dạ Đa (Sayata)

http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to19_cuumala.jpg...http://www9.ttvnol.com/uploaded2/chitto/to20_xadada.jpg



Hệ thống tượng Tổ kế đăng ở chùa Tây phương trước 1943 và ngày nay bày có khác nhau, song cơ bản được tập trung ở toà chùa trong của khu Tam Bảo, vì thế toà chùa này mang tính Hậu đường hơn là chùa Thượng.

Không rõ trước kia tượng các vị Tổ được bày theo hệ thống nào, hiện nay không bày theo trật tự kế đăng nhưng cũng không quá lộn xộn.

Trừ Tổ thứ 1 Ca Diếp Tôn giả và Tổ thứ 2 A Nan Đà tôn giả bày ở Phật điện chính trong bộ tượng "Nhất Phật Nhị tôn giả", các Tổ khác được bày ở gian bên của toà chùa trong, do tượng có pho đứng pho ngồi đã gây được nhịp điệu vui mắt, có vươn lên, có dàn trải với quãng cách khác nhau.

loveactually
10-01-2008, 06:17 PM
Đây là những tài liệu trong bài Báo Cáo Khảo Sát Chủa Tây Phương của Loveac khi còn học trong trường DL:

Hệ thống tượng Tổ kế đăng ở chùa Tây Phương có 18 pho là 18 cá thể, mỗi người một dạng vẻ, một tư thế, ai nấy có cuộc sống riêng biệt rất sắc nét, tất cả đều sống động (ngay cả với Tổ thứ 14 Long Thụ Tôn Giả). Đối chiếu những tượng này với hình vẽ trong các thư tịch cổ, hầu hết về bố cục giống nhau đến lạ lùng, chỉ một ít tượng khác hăớn bố cục song vẫn đồng nhất về cái chung và nhất là ở những chi tiết đặc thù. Vì thế qua nhận diện có thể khôi phục chính xác tên và xây dựng lai lịch cho từng nhân vật. Bám theo hình mẫu trong thư tịch cổ, nhấn mạnh tính cách cá nhân, các nhà điêu khắc xưa đã sáng tạo được những tác phẩm tượng tròn mang đậm chất chân dung, chăớng những nắm bắt cấu tạo cơ thể chính xác theo giải phẫu và theo tình cảm, mà còn đi sâu vào cuộc sống nội tâm của nhân vật, đảm bảo được cả hai mặt của loại hình tác phẩm chân dung là giống và sống. tất nhiên không có người ngồi mẫu, nhưng cái giống ở đây là chất người của nhân vật đã tạo thành mẫu hình ổn định trong ý thức người xem. Các vị Tổ đều là người Âấn Độ, song ở chùa Tây Phương tượng các vị đã được các nghệ nhân Việt Nam sáng tạo mang phong cách riêng của nghệ thuật truyền thống Việt Nam. Chúng ta gặp ở đây sự xum họp của những lớp người Việt đang sinh sống trên mọi miền quê đất nước. Nó đạt tính dân tộc ở thời điểm ra đời, và giữ mãi tính dân tộc ấy để đóng góp một diện mạo Việt Nam vào kho tàng nghệ thuật tạo hình thế giới.

Trong nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam, từ những tượng cổ điển ở thời Lý, đến loạt tượng Phật - tượng Tổ - tượng Hậu thế kỷ XVI -XVII với nhiều tác phẩm đặc sắc trong các chùa là sự khăớng định tài năng của nghệ sĩ Việt Nam. Thế kỷ XVIII ít có điều kiện cho điêu khắc phát triển, song là sự tích tụ âm ỉ của những kỳ tài Nguyễn Công Huệ, Tô Phú Vượng, Hoàng Đình Ưức và Đào Thúc Kiên... để đến thời Tây Sơn đã chớp cơ hội tốt nhất, sáng tạo ra những tuyệt tác "Tượng chùa Tây Phương" mà đỉnh điểm là các vị Tổ kế đăng.

Tổ thứ 1: Ma Ha Ca Diếp Tôn giả (Màhàkàsyapa)

Gọi tắt là Ca Diếp nghĩa là uống ánh hào quang nên còn gọi là Âẩm Quang. Trong một kiếp xa xưa, Ca Diếp đã giúp cô gái tán cục vàng để thếp lên chỗ tượng Phật bị bong, vì thế liền 91 kiếp thân 2 người đều có màu vàng ròng. Trước khi khuất gia, ông làm thợ kim hoàn, rất sành tuổi vàng ròng. Là con một gia đình Bà La Môn, song ông quyết xả bỏ dòng dõi để tu theo Phật trở thành người nêu cao đạo lớn. Khi Đức Phật Thích Ca ở núi Linh Thúy, một hôm giơ bông hoa cho mọi xem. Hàng trăm vạn người không hiểu ý, chỉ một mình Ca Diếp hiểu ý, rạng rỡ mỉm cười. Đức Phật bèn nói: "Ta có chính pháp nhãn tạng, nay trao cho ông Diệu pháp Niết bàn", phong ngài làm Tổ sư đầu tay cai quản Giáo hội Tăng già. Sau khi Đưcỏ Phật nhập diệt, ngài gõ chuông tập hợp chúng tăng kết tập ba tạng kinh điển tiểu thừa. Khi A Nan chứng quả A La Hán, ngài truyền cho y bát và bài kệ:

Pháp pháp bản lai pháp
Vô pháp vô vi pháp
Hà vi nhất pháp trung
Hữu pháp hữu phi pháp

(Pháp vốn có xưa nay
Không pháp, chẳng không pháp
Cớ gì cứ trong pháp
|Có pháp, có không pháp)

Rồi vào núi Kê Túc nhập diệt.

Ơở chùa Tây Phương, tượng Ca Diếp hiện đứng ở bên trái tượng Tuyết Sơn, là một người tuổi cao, ăn mặc nghiêm chỉnh, ánh mắt tinh tường, khoát tay ở thế chém . Đây là một pho đậm chất chân dung, đặc tả cả dung mạo và tính cách.


Tổ thứ 2: A Nan Đà tôn giả (Aànanda)

Gọi tắt là A Nan, nghĩa là vui mừng, nên gọi là Hoan Hỉ, Khánh Hỷ. Ngài là em thúc bá của đức Phật sinh vào đêm phật thành đạo, 25 tuổi xuất gia và theo hầu bên đức Phật suốt 25 năm liền, được thụ trì tất cả Phật pháp, là người đa văn (hiểu biết ) số một. Ngài có hâù bên Phật lúc cuối cùng, được Phật truyền cho những giáo điều sau rốt và cách giữ gìn đạo lý.

Sau khi đức Phật nhập diệt, Tổ thứ 1 Ca Diếp tổ chức kết tập kinh tạng, ANan phiền não chưa hết nên chưa chứng được quả La Hán. Tổ Ca Diếp bên dắt ANan ra ngoài Hội nghị để ngồi thiền. Đến cuối đêm mệt mỏi A Nan định nằm nghỉ, nhưng đầu chưa chạm gối thì bỗng nhiên giác ngộ thành Đại A La Hán. Ngay khi ấy, ngài gõ cửa Hội nghị xin vào tham gia, Tổ Ca Diếp bảo hãy chui qua lỗ khóa. A Nan vận thần thông chui qua lỗ khóa, đủ tư cách cùng tham gia kết tập kinh tạng với các vị A La Hán khác. Tổ Ca Diếp sai A Nan kết tập:’’Đức Phật thuyết pháp dù chỉ là một lời một chữ, nhà người cũng phải thận trọng, chớ để khuyết lậu. Bồ Tát tạng tập hợp ở một nơi, Thanh Văn tạng tập hợp ở một nơi, Giới Luật tạng cũng tập hợp ở một nơi ‘’. Lần đầu tiên kinh văn xuất hiện do A Nan soạn là thế.

Sau khi Ca Diếp nhập tịch, A Nan được truyền làm Tổ thứ 2. Khi A Nan mệnh yểu nhược, ngài vắt chân ngồi yên trên dòng sông Hằng cứ nhè giữa dòng mà đi vào cõi Niết bàn. Các vị Tiên nhân và La Hán ra tiễn biệt. A Nan thấy trong số đó có một vị La Hán là Thương Na Hòa Tu, biết có thể trao truyền y bát cho được, bèn nói với ông này: ’’... Ta sắp đi vào cõi tịch diệt vậy truyền lại chính pháp cho người’’ và đọc bài kệ:

Bản lai phó hữu pháp
Phó liễu ngôn vô pháp
Các các tu tự ngô
Ngọ liễu vô vô pháp

(Xưa nay đem pháp truyền
Truyền rồi nói không pháp
Mọi người phải tự ngộ
Ngộ rồi không không pháp)

Trao truyền xong, A Nan nhún mình lao vào hư không, xá lị phân ra để thờ trong 2 xứ Tỳ Xa Ly và Hoa Thị.

Theo quy định của bài trí Phật điện, A Nan phải được bày sóng đôi với Ca Diếp trong bộ tượng "Nhất Phật nhị tôn giả", đáng ra ở bên phải Tuyết Sơn thì trong một lần bày lại đã tiến lên hàng trước đổi chỗ cho Đại Diệu Tường. Do tượng Ca Diếp đứng nên với tính sóng đôi A Nan cũng được tạc ở thế đứng với hình dáng chung nuột nà, trẻ trung, đang kết tập kinh tạng (ôm sách), ánh mắt và khóe miệng cùng cười vui vẻ. Nụ cười hể hả biểu hiện bản chất của nhân vật đã trở thành tên gọi. Tượng được tạo dáng đứng thẳng chững chạc, những nếp áo chảy sóng càng làm tượng vươn lên trong khối chung óng nuột, tỷ lệ các phần cân đối, cả hình dáng và nội tâm đều sáng láng.



Tổ thứ 3: Thương Na Hòa Tu tôn giả (Sanakavàsa)

Thương Na Hòa Tu còn gọi là Thương Nặc Ca Phoọc Sa, xuất phát từ loại cỏ thiêng và một loại áo lạ gọi là Thương Na hay Thương Nặc Ca. Khi nào có bậc thánh nhân ra đời thì loại cỏ này ứng nghiệm từ đất sạch mọc lên báo trước. Khi còn ở kiếp trước, ngài đã lấy loại cỏ thiêng này tết thành áo. Ngài ở trong bụng mẹ những 6 năm mới sinh hạ, sinh ra đã có áo mặc sẵn theo thân, thân mình cao lớn dần thì áo mặc cũng rộng lớn theo cho phù hợp. Khi ngài xuất gia thì áo đó trở thành pháp phục, khi ngài thụ cụ túc giới thì áo đó biến thành áo cà sa 9 mảnh, khi sắp tịch ngài nguyện để lại áo cho đến khi đạo pháp của đức giới Thích Ca huyền tận thì áo mới bị mục nát. Do đó tên cỏ và tên áo trở thành tên người.

Ngày trước khi Thích Ca đi hoằng dương đạo pháp có đến xứ sở của ngài, thấy dải cây xanh um, mới nói với A Nan rằng: "... Sau khi ta tịch diệt 100 năm sẽ có một vị tăng nhân tên là Thương Na Hoà Tu truyền bá giáo pháp của ta ở đây". Nay quả đúng như thế.

Thương Na Hoà Tu sau khi chứng ngộ quả pháp, có lần đi giáo hoá chúng sinh đã tìm được Ưu Ba Cúc Đa, cho xuống tóc làm thị giả. Một lần ngài hỏi Ưu Ba Cúc Đa về tuổi đời và tâm tính, được đáp: "Thân con 17 tuổi nhưng tính tình chăớng phải 17 đâu". Đây là vấn đề hiện tượng và bản chất thuộc triết học, nói chung thì phù hợp nhưng không phải lúc nào cũng phù hợp. Ba năm sau ngài lập đàn thụ giới thanh văn cho Ưu Ba Cúc Đa làm Tổ thứ 4 với lời kệ:

Phi pháp diệc phi tâm
Vô tâm diệc vô pháp
Thuyết thị tâm pháp thời
Thị pháp phi tâm pháp

(Chăớng pháp cũng chăớng tâm
Không tâm cũng không pháp
Bảo là tâm là pháp
Là pháp chăớng tâm pháp)

Sau khi dặn Ưu Ba Cúc Đa chớ sao nhãng làm đứt đoạn đạo pháp, ngài vào núi ở ẩn nhưng vẫn thiền định theo dõi và nhắc nhở. Khi các tăng chúng chứng được quả A La Hán, Thương Na Hoà Tu bèn hiện 18 ban biến hoá đi vào ánh lửa Tam muội để tự thiêu, xá lị nhập tháp.

Trong chùa Tây Phương, tượng Thương Na Hoà Tu bày ở gian bên phải toà chùa trong là một ông già luôn lo toan, ngồi chân thõng chân co vắt ngang, một tay để trên đùi còn tay kia thu trong bọc, áo mặc nhiều nếp lượn để hở bộ ngực gầy giơ xương... đôi mắt xụp, miệng mím, ít nói nhưng nghĩ nhiều... đã tạo nên một ông già khắc khổ, sống bằng nội tâm.

loveactually
10-01-2008, 06:31 PM
Tổ thứ 4: Ưu Ba Cúc Đa tôn giả (Upagupta)

Ưu Ba Cúc Đa nghĩa là Cận Tàng, ra đời khi đức Phật nhập diệt được 100 năm. Ngài thân tuy không đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp của Phật, nhưng ngài tinh tấn mà làm Phật sự. Từ năm 12 tuổi ngài đã bộc lộ rõ sự thông minh. Hàng ngày mỗi khi nghĩ việc xấu thì bỏ một viên đá đen vào bao, còn nghĩ việc tốt thì bỏ vào viên đá trắng. Lúc đầu đá đen nhiều, đá trắng ít, rồi dần đá đen và đá trắng bằng nhau, về sau không có đá đen chỉ toàn đá trắng, bấy giờ ngài đã vững vàng. Năm 17 tuổi ngài xuất gia, năm 20 tuổi đã chứng được quả. Ngài hay vân du để xiển dương Phật pháp, độ được rất nhiều người. Điều đó khiến ma quỉ lo sợ và tìm mọi cách quấy phá. Nhờ pháp thuật cao, ngài hàng phục được cả ma. Khi thuyết pháp, cứu độ được cho một người, ngài lại cất một thẻ tre vào nhà đá. Về sau có Hương Văn xin xuất gia. Qua trao đổi, biết hương Văn đã ngộ được đạo, ngài làm lễ xuống tóc cho và trao cho giới thanh văn, lại bảo: "Phụ thân người nằm mộng thấy mặt trời chói lọi sắc vàng, liền đó sinh ra người, vậy nên đặt pháp danh là Đề Đa Ca". Sau đó lại trao truyền đạo pháp cho làm Tổ thứ 5 và đọc kệ:

Tâm tự bản lai tâm
bản tâm phi hữu pháp
Hữu pháp hữu bản tâm
Phi tâm phi bản pháp

(Tâm vốn tự là tâm
Tâm đây chăớng có pháp
Có pháp có tâm này
Chăớng tâm chăớng phải pháp)

Truyền đạo xong, ngài ngồi yên trên pháp toà, tự nhiên hoá, Xá lị được xây tháp để thờ.

Tượng Ngài ở chùa tây Phương đặt ở góc sau bên phải toà chùa trong thể hiện ngài là một người độồ lượng, ham học hỏi, ham giúp đời. Ngồi nhấp nhổm trên gót chân trái quỳ gập lại, còn chân phải gấp chống làm điểm tựa cho bàn tay cầm một vật nhẹ (bút hay thanh tre? - đã bị mất), tay bên kia cầm thẻ tre, người dướn lên, đầu nhô cao, mình mặc 2 lớp áo dài xoà trùm xuống đất. Tượng có đầu to tròn, trán cao, hói quá đỉnh biểu hiện sự thông minh; lông mày to rộng cùng với bộ râu quai nón và hàng ria mép là những vệt đen đậm làm nổi đôi mắt tròn sáng mở to nhìn xa rất chăm chú, phối hợp với cái miệng chúm mở, rõ ràng là sự thuyết giảng nhũng giáo lý uyên thâm, cứ như thôi miên quán xuyến cả đám đông người nghe. Đôi tai dài, gò má đầy và cánh mũi nở càng ăn ý với những mảng khối căng tròn trên vai và đầu gối, tất cả đều biểu đạt sự sung mãn mà ngay khi xuất gia tâm tính đã vượt xa 17 tuổi đời. Bộ ngực chỉ lộ một mảng nhỏ hơi hằn nổi xương sườn, cùng với các mảng khối da thịt khác sáng láng là sự tráng kiện của tuổi trung niên. Pho tượng đơn chiếc nhưng người chiêm ngắm lại cứ mường tượng có đám đông chúng sinh phía trước cùng hướng về nơi Tổ ngồi. Đây là một pho tượng rất thành công trong sự cân đối và sống động.

Tổ thứ 5: Đề Ca Đa tôn giả (Dhritaka)

Tên tục là Hương Văn (hay Hương Trượng), khi xuất gia được sư phụ đặt pháp hiệu Đề Đa Ca nghĩa là thông chân lượng, biểu hết thảy vì khi được hỏi rằng: "Thân người xuất gia hay tâm người xuất gia?" đã trả lời: "Tôi xuất gia chăớng vì thân cũng chăớng vì tâm. Không sinh không diệt là cái chân thường của Đại Đạo, chư Phật cũng là thường đạo. Tâm không hình tướng, thể cũng vậy?

Khi ngài mới sinh ra, ông bố nằm mơ thấy 1 mặt trời chói lọi sắc vàng từ trong nhà bay ra chiếu khắp trời đất, phía trước có toà núi lớn, khắp núi là những thứ chân bảo hoa mĩ, đỉnh núi có khe nước trong vọt ra phân thành 4 nhánh chảy réo rắt. Khi biết chuyện, Ưu Ba Cúc Đa giải thích: Núi báu kia là thân thể ngươi, suối nước là chỉ pháp Phật vô tận, mặt trời là sự nhập đạo của ngươi để rồi rọi chiếu trí tuệ đến mọi người.

Đề Đa Ca sau khi nhận y bát của Ưu Ba Cúc Đa để làm Tổ thứ 5 đã phụng trì không biếng trễ. Một lần đến miền trung Âấn Độ, Di Giá Ca đem 8 ngàn Đại tiên đến nghênh đón. Xa xưa 2 người là đồng học, rồi một tu đạo Tiên một tu thiền định, đã qua 6 kiếp nay lại gặp nhau. Đề Đa Ca thọ giới cho Di Giá Ca, lại vận thần thông để tất cả các vị Tiên đều xin xuất gia. Sau đấy Đề Đa Ca đem thanh tịnh pháp nhãn truyền lại cho Di Giá Ca làm Tổ thứ 6 với lời kệ:

Thông đạt bản pháp tâm
Vô pháp vô phi pháp
Ngộ liễu đồng vị ngộ
Vô tâm diệc vô pháp

(Thông đạt vốn pháp tâm
Không pháp không phi pháp
Ngộ rồi như chưa ngộ
Không tâm tức không pháp)

Nói xong, Đề Đa Ca vươn mình lao vào hư không, hiện 18 ban biến hoá, lấy lửa tam muội tự thiêu, xá lị để trong tháp.

Ơở chùa Tây Phương, tượng Tổ thứ 5 Đề Đa Ca được bày ở bên trái Tổ thứ 4, ở thế ngồi , hai tay đưa trước ngực. Toàn bức tượng tạo thành một khối chóp đóng kín, đường viền rõ ràng, mảng khối óng ả, các nếp áo chảy song hành dễ dàng, tất cả như gợi lại điềm lành khi sinh, nhưng khuôn mặt đăm chiêu như có sự vướng mắc chờ đợi người xứng đáng để trao truyền y bát, do đó gợi khoảng không mênh mông tuyệt đối.

Tổ thứ 6: Di Giá Ca tôn giả (Michakha)

Di Giá Ca sau khi trở thành vị Tổ thứ 6 đã đi giáo hoá nhiều nơi. Một hôm thấy trên thành có mây lãnh sắc vàng bèn bước vào, đến chợ gặp người cầm chén rượu chặn hỏi. Sau những câu thăm dò, Tổ bảo người kia nói rõ họ tên sẽ cho biết nguyên cớ. Được biết đó là Bà Tu Mật họ Phả La Đọa, Di Giá Ca liền bảo: "Thầy ta là Đề Đa Ca có nói rằng xưa đức Thế Tôn vân du đến miền Bắc Âấn, đã nói với A Nan rằng: Sau khi ta tịch diệt chừng 300 năm, xứ này sẽ sinh bậc thánh nhân họ Phả La Đoạ tên Bà Tu Mật làm vị Thiền Tổ thứ 7. Đức Phật đã biết trước, vậy nay ngươi nên xuống tóc xuất gia". Bà Tu Mật cũng cho hay: Trong một kiếp xưa có cúng giàng, được Như Lai bảo ở đời Hiền kiếp sẽ thay ngài xiển dương chính pháp, vậy nay xin Đại sư cho được xuất gia. Tổ bèn thu nhận, và về sau trao truyền cho Phật pháp để làm Tổ thứ 7 với bài kệ:

Vô tâm vô khả đắc
Thuyết đắc bất danh pháp
Nhược liễu tâm phi tâm
Thuỷ giải tâm tâm pháp.

(Không tâm không thể đắc
Bảo đắc pháp không xong
Nếu hiểu tâm chăớng tâm
Mới biết pháp của tâm)

Đọc kệ xong, Tổ nhắm mắt đi vào cảnh giới giải thoát, vọt vào hư không rồi lại trở về pháp toà làm ngọn lửa tự thiêu, xá lị để vào tháp.

Ơở chùa Tây Phương, tượng Tổ thứ 6 Di Giá Ca được đặt ở giữa Tổ thứ 3 và Tổ thứ 5, thế đứng chững chạc, mặc áo dài nghiêm túc, đang trong sự ngỡ ngàng tìm hiểu điều gì đó, tay phải thu trong bọc còn tay trái như bấm đốt lần tính, khuôn mặt có vẻ bàng hoàng ngơ ngác, cả mắt và miệng đều đang thăm dò với động thái hấp háy khó nói rõ. Và như thế, người xem cảm nhận phía trước Tổ có cảnh lạ hay ai đó đang đối thoại. Tượng có dáng vẻ bình tĩnh song nội tâm lại động rộn.

loveactually
10-01-2008, 06:40 PM
Tổ thứ 7: Bà Tu Mật tôn giả (Vasumatra)

Bà Tu Mật vốn là người thích ăn mặc sạch sẽ, tay không rời chén rượu, thường du hành trong đám dân quê, hay ngâm thơ và lớn tiếng ca hát. Người ta cho ngài là người cuồng. Khi được Tổ thứ 6 tuyên giảng về tiền duyên, Bà Tu Mật bỏ rượu và xin xuất gia. Sau khi tiếp thừa y bát trở thành Tổ thứ 7, ngài hay đi các nơi giáo hoá chúng sinh. Một hôm có kẻ trí đến gặp, xưng tên là Phật Đà Nan Đề, muốn được cùng bàn về nghĩa cả, nhưng khi biết Tổ thứ 7 hơn hăớn một cái đầu, thì tình nguyện xin theo để cầu chính pháp.

Sau khi xuống tóc và trao giới thanh văn cho Phật Đà Nan Đề, ngài nhắc phải chuyên tâm hộ trì, và phó cho bài kệ:

Tâm đồng hư không giới
Thị đăớng hư không pháp
Chứng đắc hư không thời
Vô thị vô phi pháp

(Tâm hư cõi hư không
Âấy là pháp hư không
Chứng được thời hư không
Đâu pháp và phi pháp)

Khi Tổ đi vào chốn từ tâm Tam muội, các chư Tiên đều xin Tổ mở cho con đường giải thoát. Tổ bèn hướng về phía quần Tiên đọc kệ tiếp:

Pháp mà ta ngộ được
Thời chăớng phải có pháp
Muốn ngộ được Phật tính
Hãy bỏ cả có - không.

Đọc xong Tổ đi vào cảnh giới niết bàn.

Hình Tổ thứ 7 Bà Tu Mật được vẽ trong các thư tịch cổ và tạc thành tượng ở chùa Tây Phương đặt ở bên trái Tổ thứ 3 gần như tương đồng: Tổ là người cao tuổi, rất chú ý đến trang sức, đầu tóc buộc dây và chải mượt, mặc áo tĩnh y với những nếp gấy chảy nuột, chân giầy, cổ tay đeo vòng, đứng thăớng, ngửa mặt lên trời, miệng há vừa như chào đon đả hay đọc kệ, hai tay chắp lại đưa lên ngang mặt thi lễ, mắt lim dim... Hăớn nghệ sỹ xưa muốn diễn tả giây phút cuối đời của Tổ đang truyền kệ cho các chư Tiên. Là tượng đơn, song chiêm ngắm Tổ, người xem cảm được cả một tập thể mà Tổ đang giao tiếp. Hình ảnh Tổ được nghiên cứu rất kỹ để từng chi tiết phối hợp lại bộc lộ rõ tính cách lịch thiệp, trang trọng, ngoại hình gắn bó chặt chẽ với nội tâm.

Tổ thứ 8: Phật Đà Nan Đề tôn giả (Bouđhanandi)

Tổ có nhục kháo trên đầu, có tài biện luận, giỏi ăn nói, sống thoải mái. Khi biết Tổ thứ 7 đến nước mình, ngài chủ động tìm gặp, tự giới thiệu và xin cùng luận bàn nghĩa cả. Sau khi được Bà Tu Mật trao truyền giáo Pháp làm Tổ thứ 8, đã đi vân du khắp nơi để xiển dương chính pháp.

Một lần thấy trên nhà nọ toả ra thứ ánh sáng trắng kỳ lạ. Tổ nói với các đồ đệ: "Trong nhà ắt có thánh nhân có thể hoằng dương Phật pháp. Người này chưa hề nói và đi đâu vì không muốn tiếp xúc với ô uế bên ngoài". Chủ nhà ra mời Tổ vào và nói rõ: "Con trai tôi là Phục Đà Mật Đa đã 50 tuổi mà chưa nói một lời, chưa đi một bước". Tổ nhận ra đây là người mình cần tìm, thì Phục Đà Mật Đa cũng bước ra thi lễ, đọc kệ nói lên công ơn cha mẹ khó đáp đền và tâm nguyện muốn đi tìm đạo, sau đó đi 7 bước.

Sau khi nghe Tổ giải thích, vị trưởng giả chủ nhà quyết định xa con, để Phục Đà Mật Đa theo Tổ làm đầu đà. Không bao lâu, Phật Đà Nan Đề trao truyền thanh tịnh pháp nhân cho Phục Đà Mật Đa làm Tổ thứ 9 và đọc bài kệ:

Hư không vô nội ngoại
Tâm pháp diệc như thử
Nhược liễu hư không cố
Thị đạt chân như lý

(Hư không đâu trong ngoài
Tâm pháp cũng như thế
Nếu hiểu hư không vậy
Lag đạt cảnh giới rồi).

Đọc kệ xong, Phật Đà Nan Đề thiu thiu đoan toạ mà viên tịch, xá lị an táng trong tháp.

Tượng Tổ thứ 8 ở chùa Tây Phương bày ở các góc ngoài phía bên phải toà chùa trong, là một người béo tốt, ngồi bệt, chân phải xếp bằng, chân trái chống nghiêng, tay trái để trên đùi, tay phải đang ngoáy tai. Cả pho tượng thể hiện sự căng nây, óng ả, mặt hỉ hả, đôi mắt hóm hỉnh, miệng cười dễ dãi, khuôn mặt sáng sủa, tất cả toát lên sự thông minh, mềm mỏng, nói khéo, dễ gần. Đây là pho tượng đặc biệt sống động, dù cái que bị mất vẫn luôn gợi động tác ngoáy tai, ngoài sự kích thích còn biểu hiện sự giao tiếp và ứng xử văn hoá uyên bác.

Tổ thứ 9: Phục Đà Mật Đa tôn giả (Bouđhamitra)

Phục Đà Mật Đa tuy 50 năm liền không nói không đi nhưng không phải là bệnh lý mà là muốn giữ mình trong sạch. Ngay cả khi gặp Tổ thứ 8 Phật Đà Nan Đề, ngài đã có những biểu hiện như khi đức Phật ra đời là đọc bài kệ và đi 7 bước, khiến Tổ thứ 8 nhận xét về ngài: "Vị Tiên sinh này kiếp xưa chắc đã gặp Phật Tổ, có tâm nguyện sâu rộng, nhưng khó báo ân nghĩa mẹ cha". Ngay sau khi nhận sự phó thác của Phật Đà Nan Đề, ngài đã tán tụng công đức sư phụ:

Thầy ta là Tổ thứ Tám
Đem Phật pháp dạy dỗ quần sinh
Khiến ai cũng được A Na Hàm đắc quả.

Là Tổ thứ 9, Phục Đà Mật có lần đi giáo hoá đã gặp ông Hương Cái dắt theo đứa con nhỏ đến và nói: "Con tôi từng ở trong bụng mẹ 60 năm, do đó khi sinh ra khó mới đặt tên là Nan Sinh. Có vị Tiên đã phán bảo sau này nó sẽ thừa truyền sự nghiệp cao cả. Nay xin Tôn giả thu nhận nó làm đệ tử". Được thụ giới Tổ thứ 9, Nan Sinh khi hành đạo có hào quang toả sáng Pháp toà, long lanh như xá lị Phật. Về sau Phục Đà Mật Đa trao cho Nan Sinh thanh tịnh pháp nhãn để làm Tổ thứ 10, và đọc kệ:

Chân lý bản vô danh
Nhân danh hiển chân lý
Thụ đắc chân thực pháp
Vô chân diệc vô ngụ��m>

(Lý thực vốn không tên
Nhân danh tỏ lý đó
Thụ được pháp thực chân
Thì không chân không ngụ��font>

Truyền pháp xong, Phục Đà Mật Đa thiu thiu đi vào cảnh giới Niết bàn giải thoát, xá lị để trong tháp.

Tượng Tổ thứ 9 Phục Đà Mật Đa được bày ở bên trái Tổ thứ 8, tả cảnh Tổ đang ngồi tựa mỏm đá, mặc áo nhiều nếp nhăn, để hở ngực và cánh tay. Tượng được nhấn mạnh những nét gồ ghề, tạo sự già dặn từng trải pha chút hóm hỉnh như đầu nhô nhục kháo, lông mày nhíu lại tạo những vết nhăn dọc trên ấn đường, lưỡng quyền nổi cao, cánh mũi nở, miệng mở hẹp với nếp nhăn bên khoé mép, cằm bạnh, mắt sáng nhìn xuống. Tay trái ngài cầm một cuốn sách mở, tạo được sự hợp lý của khuôn mặt đang nhìn xuống sách, đọc và phát hiện những tư tưởng mới như chính ngài đặt ra khi nói câu đầu tiên: "... Đạo lớn kia là Đạo ta cần biết. Còn cái gì cần biết hơn Đạo kia?". Đây là tác phẩm thể hiện được một nội tâm khá phức tạp.

loveactually
10-01-2008, 06:50 PM
Tổ thứ 10: Hiệp tôn giả (Parsva)

Tên tục của ngài là Nan Sinh, nhưng người đương thời gọi ngài là Hiệp tỳ kheo với nghĩa nhà tu hành không đặt lưng xuống chiếu nằm nghỉ. Truyện kể người cha nằm mộng thấy con voi trắng mang trên lưng chiếc ngai báu đặt hạt minh châu từ cửa tiến vào, toả ánh sáng đầy nhà. Khi tỉnh dậy thì Nan Sinh ra đời. Vì ngài nằm trong thai những 60 năm nên lọt lòng đã có râu và lông mày bạc trắng. Buổi đầu ngài theo đạo Bà La Môn, là nhà thông thái. Năm 80 tuổi ngài mới xuất gia đi tu, bị những người trẻ chê là ông già đần, họ bảo người xuất gia phải biết thiền định và tụng kinh, mà ông thì già yếu chỉ biết ăn no thôi. Nghe vậy, ngài phát nguyện: Nếu không thông nghĩa lý ba tạng kinh, không đoạn trừ được lòng dục ba cõi, không đắc được sáu thần thông và không đắc được giải thoát thì mãi mãi không bao giờ đặt lưng xuống chiếu. Trải 3 năm kiên trì tu luyện, ngài đã đạt được những điều hạnh nguyện.

Sau khi được Phật Đà Mật Đa truyền cho pháp bảo làm Tổ thứ 10, Hiệp tôn giả đi vân du giáo hoá chúng sinh, một lần dừng chân bên cây cổ thụ, ngài chỉ tay xuống đất nói với đồ chúng: "Đất nơi đây sẽ biến thành vàng, và khi đó sẽ có vị thánh nhân xuất hiện". Nói xong quả nhiên đất dưới chân vàng rực và có Phú Na Dạ Xà đi đến yết kiến. Hai người đàm đạo Phật pháp rất tâm đắc. Biết được Phú Na Dạ Xà đã tỏ thiền cơ, Tổ bèn thế tóc trao giới cho làm thị giả, về sau lại truyền Pháp bảo cho làm Tổ thứ 11, kèm bài kệ:

Chân thể tự nhiên chân
Nhân chân thuyết hữu lý
Lĩnh đắc chân chân pháp
Vô hành diệc vô chỉ

(Thể thực tự nhiên thực
Nhân đấy nói lời hay
Hiểu rồi pháp chân thực
Không đi cũng chăớng dừng)

Trao pháp xong, Hiệp tôn giả tiến vào cõi Niết bàn, tự hoá ra lửa thiêu thân, xá lị nhập tháp báu.

Ơở chùa Tây Phương, tượng Tổ thứ 10 Hiệp tôn giả được bày ở bên trái Tổ thứ 9 , tả cảnh ngài đang đứng tựa vào thân cây già, có nhục kháo trên đầu, râu tóc đều rất ngắn, mặt bóng bẩy hóm hỉnh, tay phải cầm quạt, còn tay trái tỳ lên cổ tay phải. Tượng được đặc biệt nhấn mạnh ở đôi mắt tròn sáng, miệng mím xít, da thịt phốp pháp mịn óng đối lập với cây khô nhiều hốc mắt, cũng biểu hiện người hay quan sát, ít nói, không nằm nghỉ đúng như tên gọi, người tinh tấn có chí, rất giàu nghị lực.

Tổ thứ 12: Mã Minh tôn giả (Asvagosha)

Mã Minh có nghĩa là ngựa rống, bắt nguồn từ mấy truyền thuyết khác nhau: ngài vốn là Quốc vương, trong nước ngài có một loại người sống như ngựa không mặc quần áo, ngài bèn dùng phép phân thân hoá ra vô số tơ tằm, dân phấn khích la rống lên, do đó ngài lấy hiệu là Mã Minh. Thuyết khác kể rằng ngài là vị tì khiêu có tài thuyết pháp cảm động được cả những loài phi nhân. Một lần có 7 con ngựa đói thỉnh tì khiêu thuyết pháp, nhà Vua cho người mang cỏ non đến, nhưng chúng rơi nước mắt, chỉ chăm chú nghe pháp, không tưởng gì đến ăn uống. Vì thế thiên hạ gọi ngài là Mã Minh Bồ Tát.

Mã Minh là con một nhà Bà La Môn, thông minh, hiểu biết, nổi tiếng về tài biện luận. Xưa đức Như Lai thọ ký rằng: "Sau khi ta tịch diệt 600 năm, sẽ có một vị hiền nhân ra đời tên là Mã Minh chuyên hàng phục tà giáo, có tài thuyết phục rất nhiều người xuất gia tu hành, sẽ là người truyền thừa giáo pháp của ta". Tổ thứ 11 Phú Na Dạ Xa tìm được Mã Minh, giảng giải cho về hiển giáo và Mật giáo, rồi truyền thanh tịnh pháp nhân cho làm Tổ thứ 12.

Một lần ngài đang tuyên giảng đạo pháp, bỗng có ma quỷ hiện hình thành ông già, thành người vàng rồi lại thành một cô gái đến chòng ghẹo, sau lại thành con rồng dữ lượn quẫy trong mưa gió mịt mù để đe doạ. Ngài vẫn ngồi yên trang nghiêm lấy chính pháp thu phục, khiến ma hiện lại hình người bày tỏ sự sám hối. Con ma xưng tên là Ca Tỳ Ma La, đã có 3000 đồ đệ, có thể biến được biển lớn thành suối nhỏ. Nhưng hỏi về tính chất của biển thì Ca Tỳ Ma La không biết, sau khi được Tổ giải thích đã xin quy y cùng với tất cả đồ đệ. Về sau, Mã Minh truyền thanh tịnh pháp nhãn cho Ca Tỳ Ma La làm Tổ thứ 13, kèm theo bài kệ:

Âẩn hiện tức bản pháp
Minh ám nguyên vô nhị
Kim phó ngộ liễu pháp
Phi thủ diệc phi ly

(Âẩn hiện tức là pháp
Sáng tối vốn không hai
Nay trao cho phép ngộ
Chăớng tin cũng chăớng bỏ).

Trao truyền xong, Mã Minh nhập thiền định cảnh giới cát tường mà viên tịch, xá lị để trong long khám.

Ơở chùa Tây Phương, tượng Tổ thứ 12 Mã Minh đặt ở cuối dãy hồi trái toà chùa trong.Tượng Tồ được tạc ở tư thế ngồi, chống tay phải trên phiến đá, mặc áo trật vai trái xuống tận cánh tay để hở cả ngực và bụng, đầu hói quá đỉnh. Tồ ngồi trên lưng rồng, bình thản, thả thõng chân phải và hơi co chân trái, thân hơi ngả về sau và chống thăớng tay phải tạo thế vững vàng không mỏi, tay trái gấp vuông đưa ngang trước bụng và chỉ về con rồng. Đầu tượng tròn, cạo trọc càng nổi các khối căng đầy sức sống, tai dài chạm vai, mắt nhìn thăớng vào đối tượng cùng với miệng há biểu hiện đang tranh luận, mặt rất tươi, trên thân mình, da dẻ căng óng khoẻ mạnh. Tổ đầy vẻ tự tin, thông minh, điềm tĩnh, rất chan hoà với mọi người.

loveactually
10-01-2008, 06:58 PM
Tổ thứ 13: Ca Tỳ Ma La tôn giả (Capimala)

Ngài vốn theo tà giáo, đã có tới 3000 đồ đệ, thông hiểu các dị thuyết, sau được Tổ thứ 12 Mã Minh khuất phục rồi lại truyền thừa y bát cho làm Tổ thứ 13. Ngài đi giáo hoá khắp nơi, một hôm nhận lời mời đến toạ thiền ở một hang núi sâu, giữa đường gặp con rắn to quấn chặt quanh mình. Nghe ngài thuyết giảng, rắn bỏ đi, khi ngài đến gần hang đá, có ông lão chắp tay thi lễ và thưa: "Tôi xưa cũng là hoà thượng, nhưng do mắng đuổi những người học đạo bị biến thành mãng xà ở hang này đã nghìn năm. Vừa rồi được nghe tôn giả thuyết giảng nên đến cảm tạ". Ông già cho biết thêm gần đây có cây đại thụ xum xuê như con rồng lớn che mát cho 500 con rồng nhỏ, gọi là long thụ vẫn thường thuyết pháp cho chúng rồng nghe. Ngài tìm đến, Long Thụ đón chào nhưng còn ngờ vực, đến khi được nghe chỉ bảo, đã cùng 500 long chúng đều xin xuống tóc đi tu. Sau đó Ca Tỳ Ma La truyền giáo pháp cho Long Thụ làm Tổ thứ 14, và đọc bài kệ:

Phi ẩn phi hiển pháp
Thuyết thị chân thực tế
Ngộ thử ẩn hiện pháp
Phi ngu diệc phi trí

(Pháp chăớng ẩn chăớng hiện
Khi giảng điều chân thực
Ngộ rồi pháp ẩn - hiện
Chăớng ngu cũng chăớng trí)

Thuyết pháp xong, Ca Tỳ Ma La hoá ra ngọn lửa tự thiêu thân, xá lị cất trong tháp báu.

Tượng Tổ ở chùa Tây Phương được đặt ở giáp tường hậu cuối gian bên trái toà chùa trong, tả cảnh Tồ đang bị mãng xã quấn quanh, nhưng Tổ vẫn điềm tĩnh: đứng thăớng vững vàng, mặt nhìn lên, đầu nổi nhục kháo, gò má cao tạo một vẻ hơi ngây, mắt mở to, miệng mím không nói gì, da thịt và mảng áo đều mịn óng. Sự đàng hoàng của Tổ khiến rắn biết gặp đối thủ cao cường phải bái phục. Đây cũng là một cách tranh đấu có nội lực mạnh, khác với điều ghi trong tiểu sử, biểu hiện sự sáng tạo của nhà điêu khắc.

Tổ thứ 14: Long Thụ tôn giả (Nagarjuna)

Ngài được bà mẹ sinh dưới một gốc cây, về sau lại nhờ loài rồng giúp mà thành đạo, do đó mang tên là Long Thụ. Ngài ra đời sau khi đức Phật nhập diệt chừng 700 năm. Tuổi nhỏ ngài đã đi khắp nơi, tìm học nhiều môn, vốn dòng Bà La Môn, sau gặp Tổ thứ 13 Ca Tỳ Ma La mới quy Phật. Ngài đã đọc và liễu thuộc nhiều kinh điển, song vẫn thấy còn có chỗ chưa đầy đủ, đã ngồi quán tưởng được Đại Long đưa xuống Long cung chép Kinh Hoa Nghiêm mang về. Ngài còn soạn ra một số bộ kinh giải về đạo lý rất rành và làm cốt yếu của Tam luận tông. Ngài còn truyền bá giáo lý Mật Tông với nhũng linh phù và châm ngôn. Long Thụ khi đi giáo hoá, đã vì mọi người mà thuyết pháp, đoan nghiêm ngồi trên pháp toà, hiện thành vầng trăng sáng, mọi người chỉ nghe tiếng mà không thấy hình tướng. Đệ tử Ca Na Đề Bà giải thích cho mọi người rằng đấy là đại sư tiến nhập vào Vô tướng Tam muội, hình như vầng trăng tròn sáng, trống rỗng hư huyền, biểu hiện ý nghĩa Phật tính. Long Thụ là một vị Tổ có danh tiếng lớn trong giới Phật học, được đương thời coi là Phật sống. Về sau ngài truyền thanh tịnh pháp nhãn cho Ca Na Đề Bà làm Tổ thứ 15, đọc bài kệ:

Vị minh ẩn hiện pháp
Phương thuyết giải thoát lý
Ư pháp tâm bất chứng
Vô sân diệc vô hỷ

(Làm rõ pháp ẩn - hiện
Nói tỏ lẽ giải thoát
Tâm không chứng được pháp
Chăớng buồn cũng không vui).

Truyền pháp xong, Tổ nhập Nguyệt luân Tam muội, ngồi yên trên pháp toà, lặng lẽ viên tịch, thi thể an táng trong tháp báu.

Ơở chùa Tây Phương, Tổ thứ 14 Long Thụ được đặt ở bên trái Tổ thứ 13, là vị Tổ duy nhất ngồi trên toà sen. Tượng Tổ được tạc với những đặc điểm: đầu nổi nhục kháo, gò má cao, mắt nhắm, mũi nở, cằm nhọn thể hiện một nhà hiền triết uyên bác, ngồi tĩnh lặng nhưng nội tâm sôi động, là người từng trải, khắc khổ, xem nhẹ đời thường để suy tư hoàn chỉnh kinh pháp. Con rồng ở bệ nhỏ bên trái Tổ đang đội một kệ sách, ý chừng nhắc ngài được Đại Long cho kinh Hoa Nghiêm. Đây là pho tượng thoát tục rất thành công, Tổ được xem trọng như Phật. Người xem hiểu truyện Tổ, ngắm tượng lâu sẽ thấy đường viền nhạt nhoà để chỉ còn một vầng sáng yếu, không thực không hư theo như Phật tính.

loveactually
10-01-2008, 07:10 PM
Tổ thứ 16: La Hầu La Đa tôn giả (Ràhulata)

La Hầu La Đa còn gọi tắt là La Hầu La là con trai của một nhà trưởng giả, trên cây trong vườn nhà ông cứ hàng ngày mọc ra những đoá mộc nhĩ mà chỉ riêng La Hầu La Đa nhìn thấy, hái ăn rồi lại mọc. Tổ thứ 15 Ca Na Đề Bà biết chuyện ghé thăm và giải thích: có vị tăng nhân chịu ơn cúng dường của trưởng giả đã biến thành mộc nhĩ để báo tiền duyên. Trưởng giả bèn xin Tổ cho La Hầu La Đa xuất gia theo hầu. Tổ thứ 15 bèn cho biết xa xưa đức Phật đã dự ngôn rằng sau khi ngài nhập diệt 1000 năm thì con trai ông sẽ kế thừa y bát thành Giáo chủ, vậy đây là việc tiền duyên, bèn thu nhận và xuống tóc cho làm thị giả. Về sau Ca Na Đề Bà truyền đại pháp cho La Hầu La Đa làm Tổ thứ 16.

La Hầu La Đa là người thông minh, có tài thuyết pháp. Một lần ngài vân du đến sông Kim Thuỷ thành Thất La, đã nói cho đại chúng biết rằng ở đầu nguồn có bậc thánh nhân Tăng Già Nan Đề mà xưa đức Phật đã dự ngôn rằng sau 1000 năm người ấy sẽ ở ngôi vị Tổ thứ 17. Nói rồi, ngài cho thuyền ngược lên nguồn, tới nơi thấy Tăng Già Nan Đề đang nhập định. Đủ 37 ngày ông này mới xuất định ra khỏi cơn thiền. Hai người bàn luận nhiều về nghĩa lý của sự định, tranh luận sôi nổi và kéo dài, cuối cùng Tăng Già Nan Đề tỉnh ngộ xin được xuất gia. La Hầu La Đa còn thuyết giáo nhiều cho các đồ chúng, trong đó Tăng Già Nan Đề đã giúp việc rất đắc lực, cuối cùng được truyền thanh tịnh pháp nhãn làm Tổ thứ 17, kèm bài kệ:

Ư pháp thực vô chứng
Bất thủ diệc bất ly
Pháp phi hữu vô tướng
Nội ngoại vân hà khởi

(Pháp thực còn chưa chứng
Không nắm cũng không rời
Pháp tướng chăớng có - không
Trong - ngoài nào chỗ tách)

Truyền pháp xong, Tổ ngồi yên viên tịch, thi hài thờ trong tháp. Ơở chùa Tây Phương, tượng Tổ thứ 16 La Hầu La Đa được bày ở bên phải Tổ thứ 13. Tổ ngồi trên phiến đá, hai chân thả chạm đất, cây gậy tích trượng để tựa vai do tay trái giữ không phải để tăng sự vững chắc mà chỉ nhằm nâng uy thế. Bàn tay phải xoè ra để úp trên đùi lộ rõ những móng tay dài của người trưởng giả ăn chơi, khuôn mặt hơi ngửa có vẻ ngạo nghễ, miệng mím với môi mỏng biểu hiện tài nói năng trơn tru. Đôi mắt nheo nheo với chiếc mũ hơi hếch lại tạo một vẻ mặt đăm đăm. Các nếp nhăn và khối gồ ghề trên thân thể biểu hiện sự mỏi mệt, đến cả các nếp nhăn trên áo cũng gợi sự trăn trở, và cách ngồi có cái gì nặng nề. Tổ là vị duy nhất chít khăn cùng với toàn thân cân đối muốn gợi sự quyền quý oai vệ. Con hươu nằm ở trái Tổ, quay cổ và ngóc đầu hướng về Tổ như sự chờ đợi vỗ về. Có thể đấy là hình ảnh của Lộc uyển nơi đức Phật Thích Ca đã thuyết pháp và đức Ca Diếp đã chuyển pháp luân, ở đây con hươu cũng gợi ra những chúng sinh, những tăng lữ đã từng tranh luận về pháp với Tổ. Đây là một pho tượng được nghiên cứu rất kỹ về giải phẫu cơ thể và tâm lý xã hội, phức tạp mà thống nhất.

Tổ thứ 17: Tăng Già Nan Đề tôn giả (Samghanandi)

Ngài là con Vua nước Bảo Trang Nghiêm, vừa sinh ra đã biết nói, hay tán dương Phật pháp. Lên 7 tuổi đã xa bỏ những thú vui thế tục, làm bài tụng xin xuất gia nhưng cha mẹ không thuận. Không lay chuyển được con, vua cha mời một vị hoà thượng vào thành tuyên dạy, 19 năm không hề thoái chí. Song ngài không bằng lòng với việc tu ở trong vương cung, một ngày kia đã trốn vào trong hang núi để ngồi nhập định. Ngài nhập định liền 37 ngày, khi xuất định thấy Tổ thứ 16 La Hầu La Đa ở bên cạnh. Được Tổ giảng giải về Đạo, Tăng Già Nan Đề tỉnh rõ tất cả. Mười năm sau được La Hầu La Đa truyền thừa giáo pháp làm Tổ thứ 17. Một lần đi vân du, nhờ gió mát và mây tía báo hiệu, ngài gặp đứa trẻ cầm gương xưng đã 100 tuổi muốn ngộ Phật cơ, bèn dắt về chùa làm lễ xuống tóc cho làm thị giả và đặt tên là Già Da Xá Đa.

Nhân một lần gió thổi làm khánh kêu, Tổ hỏi: "Khánh kêu hay gió kêu?", Già Da Xá Đa đáp: "Đấy là tâm con kêu". Lại hỏi: "Trong tâm ngươi là cái gì?". Đáp: "Tất thảy đều yên ắng". Biết Già Da Xá Đa đã ngộ, Tăng Già Nan Đề bèn trao thanh tịnh pháp nhãn cho làm Tổ thứ 18, kèm bài kệ:

Tâm pháp bản vô sinh
Nhân địa tòng duyên khởi
Duyên chủng bất tương phòng
Hoa quả diệc phục hỹ

(Tâm pháp vốn không sinh
Mọi cái đều từ duyên
Duyên - pháp không cùng lối
Hoa quả cũng thế thôi).

Phó pháp xong, Tổ vin cành cây mà viên tịch, các đồ đệ xây tháp dưới gốc cây để thờ.

Tượng Tăng Già Nan Đề ở chùa Tây Phương được bày ở góc trong bên trái của toà chùa trong, tượng được tạc với khuôn mặt chữ điền rạng rỡ, ngồi tì cằm lên bàn tay úp đè nhau trên đầu gối (tay phải ở trên), cánh mũi nở, gò má đầy, nhắm mắt, khép miệng nhưng mỉm cười. Toàn thân thu gọn trong tấm áo bào choàng từ cổ xuống đất với những nếp gấp chảy xuôi, phía trước chỉ để hở khối chân phải gấp nằm ngang và khối chân trái gấp dựng đứng. Bệ tượng gợi sóng nước có mặt một con thú rừng, như muốn biểu hiện một thiên nhiên hoang dã. Thế ngồi tự nhiên, toàn thể bó trong một khối chóp có đường viền rõ ràng, các mảng lớn chảy xuôi gắn với vài mảng ngang hẹp làm cho toàn thể chững chạc, thu lại hình để khơi mở tư tưởng lớn. Đây là tác phẩm có bố cục rất gọn chặt.

Tổ thứ 18: Già Da Xá Đa tôn giả (Samghàyacas)

Mẹ ngài nằm mơ thấy vị thần cầm gương báu, từ đó mà có thai, sau 7 ngày sinh; ngài có thân thể sáng trong như pha lê, toả hương thơm tinh khiết. Từ bé ngài đã nói không như những trẻ bình thường, hay cầm gương đi chơi. Khi gặp Tổ thứ 17, ngài giải thích về chiếc gương: "Mỗi vị Phật lớn đều có cái gương tròn lớn, soi thấu trong ngoài, trong gương ngoài gương hai người đều cùng nhìn nhau, tâm và mắt cũng tương tự vậy". Sau khi xuất gia rồi lại được Tăng Già Nan Đề trao cho y bát làm Tổ thứ 18, Già Da Xã Đa xuất lĩnh đồ chúng đi giáo hoá các nơi, rất hay quan sát và hay tìm hỏi. Một hôm thấy trên nhà người Bà La Môn có dị khí bốc lên, bèn đến gõ cửa nhưng hồi lâu trong nhà vọng ra: "Cả nhà đi vắng rồi!". Bị căn vặn: "Thế ai nói đó", chủ nhà mới ra mở của mời vào. Ngài nói cho chủ nhà hay rằng: "Đức Phật Thích Ca xưa đã dự ngôn sau khi nhập tịch 1000 năm, ở nước này sẽ có vị đại sĩ tên là Cưu Ma La Đa nhớ lại tiền duyên, cúi xin được xuất gia. Già Da Xá Đa bèn vì Cưu Ma La Đa xuống tóc và trao giới, sau lại đem đại pháp trao cho làm Tổ thứ 19, kèm bài kệ:

Hữu chủng hữu tâm địa
Nhân duyên năng phát manh
Ư duyên bất tương ngại
Đương sinh, sinh bất sinh

(Có giống có ruộng tâm
Theo duyên hạt nảy mầm
Mọi duyên đều chăớng ngại
Đương độ nở và không)

Phó pháp xong, Tổ phát ra lửa Tam muội tự nhiên, xá lị thờ trong tháp.

Ơở chùa Tây Phương, tượng Già Da Xá Đa bày ở bên phải tượng Tổ thứ 16, tả cảnh Tổ đang đi vân du giáo hoá, tay trái cầm gương giơ về phía sau, tay phải giang ngang rồi gấp lại tì giữ chiếc gậy trên vai mà đầu đằng sau buộc cuốn kinh với tua kim tòng. Tượng có những đặc điểm: gió thổi bay xa các tà áo và ống tay trong khi người vẫn đứng thăớng, chân phải hơi co tạo sự nhún nhảy gợi cho những cánh tay như đung đưa theo nhịp bước, các nếp áo buông chảy tự nhiên, đầu hơi nhô nhục kháo và dướn cao mở rộng tầm nhìn, vẻ mặt có phần ngơ ngác luôn gặp những cảnh mới lạ, đôi mắt mở to như hấp háy và cái miệng há vừa phải đang giữa câu nói, cánh mũi rộng, gò má đầy, tai dài, người đẫy chắc. Ngắm nhìn tượng đơn nhưng ta có thể thả sức tưởng tượng nhiều tình huống xảy ra phía trước.

Tổ thứ 19: Cưu Ma La Đa tôn giả (Kumârata)

Kiếp xưa ngài là Tiên ở tầng trời cao, nhìn thấy chuỗi dây anh lạc quấn quanh bụng một vị Bồ Tát đã nảy sinh lòng dục, bị đầy dần xuống các tầng trời thấp, cuối cùng giáng sinh vào một gia đình Bà La Môn ở nước Đại Nguyệt Thị. Khi gặp Già Da Xá Đa, nghe nói đến danh hiệu Phật bỗng tâm thần hoảng loạn, nhưng khi biết lời tiên tri của đức Phật và nhớ việc đời trước đã vui vẻ xin xuất gia. Sau khi đã thành Tổ thứ 19, ngài đi giáo hoá chúng sinh, đã giảng rõ nghiệp báu, khiến Xà Dạ Đa nhớ lại tiền duyên và xin được xuống tóc xuất gia. Về sau Cưu Ma La Đa trao thanh tịnh pháp nhãn cho Xà Dạ Đa làm Tổ thứ 20 kèm bài kệ:

Tính thường bản vô sinh
Vị đối cầu nhân thuyết
Ư pháp ký vô đắc
Hà hoài quyết bất quyết

(Tính thường vốn không sinh
Vì người mà giảng giải
Đã không chứng được pháp
Nghĩ gì quyết hay không)

Đọc xong, Tổ yên toạ trên pháp toà, lấy móng tay vẽ bông sen hồng, toả hào quang rồi tiến vào cõi tịch diệt. Nơi đó được lập pháp thờ.

Ơở chùa Tây Phương, Tượng Cưu Ma La Đa bày ở góc ngoài bên trái của toà chùa trong, tả Tồ với hình dáng toàn thân béo múp, ngồi ngả người rất thoải mái, chân gấp đứng, chân xếp ngang, tay trái để trên đùi, tay phải cầm bông hoa mây. Sự kết hợp bố cục hài hòa giữa bông hoa mây với những mảng khối căng nẩy khắp toàn thân, với khuôn mặt rất hể hả cùng nhau làm toát ra tính cách lãng mạn, yêu đời, sống thật thoải mái. Đầu tượng tròn, mặt bầu bĩnh, mắt hấp háy cười, mũi hơi chun lại với cánh nở, miệng mỉm cười, hai tai đầy rất dài, các nếp nhăn trên trán, trên cằm và khoé miệng, ánh mắt đều biểu hiện sự mãn nguyện. Tổ mặc áo phanh ra hở cả ngực và bụng cũng đều căng bóng, lại thêm mấy ngấn bụng thắt lại càng tạo cảm giác cứ rung lên phập phồng. Tượng quy về khối nón vững chắc, phối hợp các mảng khối ngang và dọc, điểm thêm một số đường nét thuận chiều, chỗ nào cũng đầy tràn sức xuân, gắn với kiếp trước ở tầng trời cao nhiều hơn là khi xuống hạ giới trong nhà Bà La Môn.

Tổ thứ 20: Xà Dạ Đa tôn giả (Jayata)

Ngài là người trí tuệ rất sâu xa, hoá đạo cho rất nhiều người. Khi Cưu Ma La Đa đến, ông chủ động đi tìm hỏi:

- Cha mẹ tôi vốn tín mộ Tam bảo, thế nhưng luôn bị bệnh tật, làm việc gì cũng đều thất bại. Gần nhà tôi có người hạng Chiên-đà-la (hà tiện, ác trược) thế mà thân thì khoẻ mạnh, làm việc gì cũng toại ý! Vậy kẻ ấy có phúc chi luôn gặp may, chúng tôi có tội chi luôn bị rủi ro?

Tổ Cưu Ma La Đa đáp:

- Sự báo ứng nhân quả thiện - ác trong ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai). Kẻ phàm thường chỉ thấy người lương thiện chết yểu, kẻ độc ác sống lâu, người nghĩa gặp dữ, kẻ nghịch gặp lành... bèn cho là không có báo ứng nhân quả, sự hồi báo của phúc và tội chỉ là giả huyễn. Họ có biết đâu như bóng theo hình, ảnh hưởng sự thiện ác theo mãi không tan mất.

Xà Dạ Đa nghe vừa dứt lời, mọi nghi hoặc tan biến.

Tổ lại nói: Nhà ngươi đã tin vào Tam nghiệp (thân - ngữ - ý), song vẫn chưa hiểu cái nghiệp do cái mê mà sinh, cái thức lại y theo cái không hiểu biết, cái không hiểu lại khởi nguồn từ cái tâm. Mà bản tính của tâm là thanh tịnh, không sinh không diệt, không báo ứng, không hơn thua, nó yên ắng và trong sáng. nếu ngươi nhập pháp môn ấy thì không khác gì Phật Tổ trên toà cao kia. Hết thảy thiện và ác, hữu vi và vô vi đều là mộng huyễn hết.

Xà Dạ Đa nhớ lại tiền duyên, xin xuất gia, được Cưu Ma La Đa xuống tóc, lại trao cho giới thanh văn làm Tổ thứ 20. Ngài khi giảng pháp cho nhóm có học và thích biện luận của Bà Tu Bàn Đầu đã nói về mình: "Ta không truy cầu đạo cả, cũng chăớng trái phạm đạo cả; ta không lễ phật, cũng chăớng khinh Tam bảo; ta không nhăm nhăm suốt ngày thiền định, cũng chăớng nhởn nhơ bỏ trễ; ta không phải chỉ ăn một loại thực vật, cũng chăớng phàm ăn tục uống; ta không biết đủ cũng chăớng tham lam. Tâm không trói buộc, ấy mới là thực đạo". Bà Tu Bàn Đầu nghe hết, nhớ lại tiền duyên, xin được dạy dỗ. Xà Dạ Đa bèn truyền thanh tịnh pháp giới cho: "Người xưa nay uẩn chứa vô vàn công đức, xứng kế thừa tông nghiệp của Phật Tổ, hãy lắng nghe tụng kệ":

Ngôn hạ hợp vô sinh
Đồng ư pháp giới tính
Nhược năng như thị giải
Thông đạt sự lý cách

(Điều nói vốn chưa sinh
Mọi cái trùng pháp giới
Nếu hiểu được như vậy
Đến rồi nơi tịch diệt)

Ơở chùa Tây Phương, tượng Xà Dạ Đa được bày ở giữa Tổ thứ 12 và Tổ thứ 19 sát tường hồi trái nếp nhà trong. Tổ khoác chéo thân một tấm cà sa như chiếc khăn, ngồi chân chống chân gấp trên tấm thảm tròn, cúi gấp người xuống, tay trái để trên đùi còn tay phải cầm cái que chọc xuống tấm lưng trần gãi.

Toàn bộ pho tượng nhấn mạnh cái ngứa đang hành hạ một người gầy yếu nhưng nội lực mạnh: Đầu to tròn với vầng trán rộng thông minh, nhưng khuôn mặt dài và xương xương, dướn cổ tạo những hốc, ngực phơi đủ bộ xương sườn, bụng mướp với nhiều nếp da nhăn nheo.

Tượng ngồi chân phải quỳ chân trái chống, bàn tay trái đặt lên đùi như lấy thêm thế dướn vai phải đưa tay lên cao để gãi cho đã. Đây cũng là thế ngồi khi tranh biện có thể phán quyết đầy đủ đối phương, gắn với hoạt động hoá đạo của Tổ. Đôi mắt nheo nheo trong hõm sâu ẩn dưới gò cao cùng với cái miệng chụm lại, phối hợp với các nếp nhăn trên trán, đuôi mắt và khoé miệng không chỉ nói lên cái già, còn biểu hiện những suy tư sâu sắc. Nhìn chính diện, người xem sẽ thấy sự chính xác về giải phẫu, sự dằn vặt về sinh lý và sự sâu sắc về trí tuệ.

keongot[!]
10-01-2008, 07:11 PM
cho hỏi
chùa tây phương ở đấu thía nhê?:10:

loveactually
10-01-2008, 07:16 PM
cho hỏi
chùa tây phương ở đấu thía nhê?:10:
Chùa Tây phương ở trong quyển Văn lớp 11 của bạn ý!

BUBABY
10-01-2008, 09:53 PM
póc tem cho chị nầy cái,.....chị ơi chị cũng sùng đạo phật ạ,......em kũng vậy chị còn nhiều ảnh của phật ko pót lên nốt đê,..............để em còn dơn về cho má em nha:clap:

keongot[!]
10-01-2008, 09:55 PM
póc tem cho chị nầy cái,.....chị ơi chị cũng sùng đạo phật ạ,......em kũng vậy chị còn nhiều ảnh của phật ko pót lên nốt đê,..............để em còn dơn về cho má em nha:clap:

hix
tui póc....x...tem rùi kòn j`------>nan?:orismi1:
to lovea....:ở sách văn 11 kì II ah? e chả nhớ:(

loveactually
11-01-2008, 12:08 AM
póc tem cho chị nầy cái,.....chị ơi chị cũng sùng đạo phật ạ,......em kũng vậy chị còn nhiều ảnh của phật ko pót lên nốt đê,..............để em còn dơn về cho má em nha:clap:
Tớ là BOY chính hiệu! cả mấu cả củ! huhuhu sao mình toàn bị nhầm là chị thế này???????

Toàn chị ơi chị àh! Mình sẽ post về đạo phật trong mục thư viên nhé!

(Bài: các vị la hán chùa Tây Phương - huy cận trong chương trình học của các bạn, nếu ko nhớ bạn nên hỏi thử cô giáo dạy văn xem! cô ấy sẽ chỉ cho! mà bạn học văn cô nào đấy ?

™ Ngọt ™
11-01-2008, 02:21 AM
nhìn mặt hội này sợ bỏ xừ....
hix..
hok biết ai nghĩ ra mấy cái gọi là la hán này thế hok biết:10:

keongot[!]
11-01-2008, 12:33 PM
Tớ là BOY chính hiệu! cả mấu cả củ! huhuhu sao mình toàn bị nhầm là chị thế này???????

Toàn chị ơi chị àh! Mình sẽ post về đạo phật trong mục thư viên nhé!

(Bài: các vị la hán chùa Tây Phương - huy cận trong chương trình học của các bạn, nếu ko nhớ bạn nên hỏi thử cô giáo dạy văn xem! cô ấy sẽ chỉ cho! mà bạn học văn cô nào đấy ?

hi`
kai' này thì khỏi nói:D
nghe danh văn thầy Thành chưa:24:
hix
là thầy đấy:orismi1:

loveactually
20-01-2008, 01:10 PM
nhìn mặt hội này sợ bỏ xừ....
hix..
hok biết ai nghĩ ra mấy cái gọi là la hán này thế hok biết:10:

Việc gọi nhưng người này là La Hán là do Kinh phật cổ (=tiếng phạn) đặt!
Kì thực họ là các vị tổ kế đăng của đạo phật! phò dưỡng đạo phật của Như Lai!
Muốn hiểu rõ hơn về các vị la hán này or đạo phật thì chúng ta sẽ phải chuyển qua BOX khác! híc !
Ở đây chỉ bàn về kiến trúc & nghệ thuật của tượng thôi!

keongot[!]
20-01-2008, 01:14 PM
ax
chi ui
e tim` trong sach van 11 roai`
nhung ko co' bai` nao` lien kan den kai' nay` het' ah:no::no::no:

loveactually
20-01-2008, 01:21 PM
ax
chi ui
e tim` trong sach van 11 roai`
nhung ko co' bai` nao` lien kan den kai' nay` het' ah:no::no::no:

Mình nhầm 1 chút!
Đây nằm trong chương trình Văn Lớp 12! văn lớp 11 chưa đến thời kì này!
Vì HS trường mình học lớp 11 là học hết xừ nó chương trình lớp 12 oy! nên mình nhấm
Học năm lớp 11 nhưng trong chương trình lớp 12

keongot[!]
20-01-2008, 01:36 PM
:cx:
nhung mu` cac' lop 11 bjo` dang hoc duoi? CT day'
ko bit' leo kip den CT 12 trong nam 11 ko nua~ ay':yw:

kembong
23-01-2008, 05:12 PM
Chùa Tây Phương (Sơn Tây) có những pho tượng La Hán rất đẹp, rất sinh động tạc vào thế kỷ 18. Nhà nghệ sĩ xưa đã vô tình hay hữu ý mượn đề tài chuyện Phật mà miêu tả xã hội quằn quại đau khổ trong nhiều biến động, và bế tắc không tìm được lối ra.

Các vị La Hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về lòng vấn vương.
Há chẳng phải đây là xứ Phật,
Mà sao ai nấy mặt đau thương ?

Đây vị xương trần chân với tay
Có chi thiêu đốt tấm thân gầy
Trầm ngâm đau khổ sâu vòm mắt
Tự bấy ngồi y cho đến nay.

Có vị mắt giương, mày nhíu xệch
Trán như nổi sóng biển luân hồi
Môi cong chua chát, tâm hồn héo
Gân vặn bàn tay mạch máu sôi.

Có vị chân tay co xếp lại
Tròn xoe từa thể chiếc thai non
Nhưng đôi tai rộng dài ngang gối
Cả cuộc đời nghe đủ chuyện buồn....

Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.

Mỗi người một vẻ, mặt con người
Cuồn cuộn đau thương cháy dưới trời
Cuộc họp lạ lùng trăm vật vã
Tượng không khóc cũng đổ mồ hôi.

Mặt cúi nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.

Có thực trên đường tu đến Phật
Trần gian tìm cởi áo trầm luân
Bấy nhiêu quằn quại run lần chót
Các vị đau theo lòng chúng nhân ?

Nào đâu, bác thợ cả xưa đâu ?
Sống lại cho tôi hỏi một câu:
Bác tạc bấy nhiêu hình khô hạnh
Thật chăng chuyện Phật kể cho nhau ?

Hay bấy nhiêu hồn trong gió bão
Bấy nhiêu tâm sự, bấy nhiêu đời
Là cha ông đó bằng xương máu
Đã khổ, không yên cả đứng ngồi.

Cha ông năm tháng đè lưng nặng
Những bạn đương thời của Nguyễn Du
Nung nấu tâm can vò võ trán
Đau đời có cứu được đời đâu.

Đứt ruột cha ông trong cái thuở
Cuộc sống giậm chân hoài một chỗ
Bao nhiêu hi vọng thúc bên sườn
Héo tựa mầm non thiếu ánh dương.

Hoàng hôn thế kỷ phủ bao la
Sờ soạng, cha ông tìm lối ra
Có phải thế mà trên mặt tượng
Nửa như khói ám, nửa sương tà.

Các vị La Hán chùa Tây Phương!
Hôm nay xã hội đã lên đường
Tôi nhìn mặt tượng dường tươi lại
Xua bóng hoàng hôn, tản khói sương.

Cha ông yêu mến thời xưa cũ
Trần trụi đau thương bỗng hoá gần!
Những bước mất đi trong thớ gỗ
Về đây, tươi vạn dặm đường xuân

o0Sanshiro0o
27-01-2008, 01:03 PM
chùa Tây Phương này ở HÀ Tây hay sao ý
năm lớp 12 đến rồi đúng hôm trời mưa, leo bậc thang ốm đòn
NHìn mấy ông La Hán Trận này kjnh lắm

chinchilla
22-04-2008, 03:20 PM
quue e đấy
nhà e ngay sau chùa tây phương
chùa đẹp phết

Tuân_se7en
31-05-2008, 09:13 AM
Trông cũng đẹp lão và phong độ=))=))

loveactually
04-03-2009, 09:36 AM
thêm 1 chút cho mọi người về kiến trúc & cách sắp đặt của chùa nhé:


Cách Hà Nội 37km về hướng Tây, ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây có một quả núi cao khoảng 50m nằm trên một địa thế rất đẹp : giữa một rừng cây cối tre trúc xanh rờn che kín những mái nhà tranh ẩn trên sườn núi.
Đó là núi Câu Lậu. Có tài liệu cho rằng sở dĩ ngọn núi này có tên như vậy vì hình nó cong cong như chiếc lưỡi câu. Nhưng xét về từ nguyên học, thì tên núi theo âm cổ vốn là "Klâu", nghĩa là núi Trâu, về sau có sách vở ghi theo âm chữ Hán là Câu Lậu. Người ta sẽ hiểu được điều này khi đứng từ xa nhìn ngọn núi này kết hợp với các ngọn đồi vùng Kim Quan tạo thành một dãy núi đồi chạy dài từ Ba Vì xuống giữa đồng bằng, trông chẳng khác nào một đàn trâu mà núi Câu Lậu là con trâu mẹ đang quay đầu nhìn lại đàn con.
Từ chân núi Câu Lậu, leo lên 239 bậc đá ong, chúng ta sẽ đứng trước cổng danh lam thuộc loại tiêu biểu về nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc ở nước ta : Chùa Tây Phương, tên chữ là Sùng Phúc Tự, còn có tên khác là Hoành Sơn Thiếu Lâm Tự.
Theo các tài liệu để lại thì chùa xây từ đời Cao Biền (865-875). Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657 - 1682, Tây Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan. Đến năm 1794 dưới thời Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay. Hiện trong chùa còn chuông đồng đúc năm Bính Thìn 1796, năm Cảnh Thịnh thứ 4 và bài Minh do Phan Huy ích soạn khắc vào chuông năm Mậu Ngọ (Cảnh Thịnh thứ 6).
Bia chùa Tây Phương lập năm 1924 có ghi lại sự việc "Sadi Thiết Tử, tên tự là Thanh Ngọc, quê làng Cao Xá, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Đông, xuất gia từ nhỏ, đến năm 1893 đến ở chùa Sùng Phúc tức chùa Tây Phương núi Câu Lậu. Vùng núi này là nơi danh lam thắng cảnh tích phát anh tài, hương thiền phảng phất. Vì vậy các thân hào kỳ lý trong xã họp lại nhất trí tu tạo và sửa sang 3 tòa tự vũ, nhiều lần chấn chỉnh, đồng thời tạc tượng Quan Âm trăm tay cùng tượng Thiện Tài Long Nữ. Cũng trong thời gian này còn tạc thêm tượng Bát bộ Kim Cương, Thập bát La-hán vàng son lộng lẫy?".
Chùa gồm 3 nếp nhà làm bằng gỗ lim rắn chắc xếp theo hình chữ "Tam" : tòa bái đường, tòa chính điện và tòa hậu cung. Ba tòa nhà này cách nhau 1,60m, tạo nên một nhịp điệu kiến trúc độc đáo. Hệ thống cửa sổ hứng lấy ánh sáng lung linh từ bên ngoài, tạo cho nội thất một khung cảnh thoát tục, phù hợp với triết lý sắc sắc không không của nhà Phật.
Mỗi nếp chùa có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tám mái và tám góc là các đầu đao vươn lên cong vút với những đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng, phượng. Vật liệu xây chùa chủ yếu là gạch Bát Tràng để trần, các cột gỗ đều kê trên tảng đá xanh tròn khắc hình cánh sen. Mái lợp gồm hai lớp ngói : lớp trên là ngói đầu mũi đúc hình lá đề nổi, lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc. Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung.
Khắp chùa hầu như chỗ nào có gỗ là có chạm trổ những hình tượng trang trí quen thuộc của dân tộc ta : hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù rất tinh xảo với kỹ thuật chạm bẹt (chạm nông). .
Du khách đến thăm chùa Tây Phương chưa hết bàng hoàng trước vẻ đẹp hoành tráng của kiến trúc thì lại càng sửng sốt khi chiêm ngưỡng thế giới sinh động của 72 pho tượng gỗ sơn son thếp vàng. Trên đất nước ta không ở đâu có được một phòng triển lãm tuyệt vời và độc đáo như thế với nghệ thuật điêu khắc tôn giáo nhưng lại phản ánh những đặc điểm dân tộc của con người Việt Nam. 72 pho tượng gỗ của chùa Tây Phương là 72 công trình nghệ thuật đích thực, mỗi pho tượng biểu hiện không chỉ cuộc đời, tính cách mà cả thế giới tâm linh của các vị Phật, Bồ-tát và La-hán?
Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương gồm :
1- Bộ tượng Tam Thế với ba pho tượng Phật : Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (còn gọi là Tam thân : Pháp thân, Ứng thân và Hóa thân) ngồi ở tư thế tọa thiền, y phục gập nếp đơn giản phủ kín cơ thể.
2- Bộ tượng Di-đà Tam Tôn : gồm tượng đức Phật A-di-đà, đứng hai bên là Bồ-tát Quan Âm và Bồ-tát Thế Chí.
3- Tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật Thích-ca trong thời kỳ tu khổ hạnh : mỗi ngày ăn một hạt kê, một hạt vừng, tự hành xác để vươn lên thế giới tinh thần sáng láng. Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng, tay chân gầy khẳng khiu, xương nổi lên trước ngực. Toàn bộ cơ thể chìm trong suy tưởng, mắt trũng sâu, hướng về nội tâm.
4- Tượng đức Phật Di-lặc tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương lai. Người mập mạp, ngồi hơi ngả về phía sau, toàn thân toát ra sự thỏa mãn, sung sướng.
5- Tượng Bồ-tát Văn-thù : đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm móng xuống mặt bệ.
6- Tượng Bồ-tát Phổ Hiền : chắp tay trước ngực, khuôn mặt sáng rộng nổi lên trên tấm thân phủ đầy y phục.
7- Tượng Bát bộ Kim Cương, thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp ghép gỗ và cách bố cục, chuyển động của một thân thể mang giáp trụ trong các thế võ.
8- Mười sáu pho tượng Tổ với phong cách hiện thực : Đó là Ưu-ba-cầu-đa, Đê-đa-ca, Di-trà-ca, Ba-tu-mật, Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa, Hiếp Tôn giả, Phương Nam Hòa Tu, Mã Minh, Ca-tỳ-ma-la, Long Thụ Tôn giả, La-hầu-la-đà, Tăng-già Nan-đề, Già-gia-xá-đa, Cưu-ma-la-đa, Chà-dạ-đa.
Thế giới tượng trong nội thất chùa Tây Phương đã từng là nguồn cảm hứng cho nhiều văn nhân, nghệ sĩ Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa, đã làm những câu thơ rất sống động và gợi cảm về hình tượng những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quần quại của chúng sinh. Những pho tượng sống động này phản ánh những sự tích của nhà Phật, đồng thời biểu hiện thế giới tinh thần của những nghệ nhân đã sáng tạo ra. Tất cả những bộ phận trên cơ thể đều mang dấu vết của nỗi đau trần thế : mắt giương, mày nhíu xệch, trán như nổi sóng, môi cong chua chát, bàn tay cân vặn, đôi tai rộng dài ngang gối nghe đủ chuyện buồn vui của đời người. Tất cả các giác quan của con người như đều căng lên trong từng thớ gỗ :
Các vị ngồi đây trong lặng yên
Mà nghe giông bão nổ trăm miền
Như từ vực thẳm đời nhân loại
Bóng tối đùn ra trận gió đen.
Từ những biểu hiện sinh động đó của nỗi đau đời thương người, nhà thơ rút ra một nét đặc trưng chung của các vị : niềm băn khoăn, day dứt trước lẽ tử sinh, ý nghĩa và hướng đi của cuộc đời. Câu hỏi đè nặng tâm hồn các vị không tìm lấy sự giải thoát cho riêng mình mà tìm sự giải thoát cho cả chúng sinh.
Mặt cúi, mặt nghiêng, mặt ngoảnh sau
Quay theo tám hướng hỏi trời sâu
Một câu hỏi lớn. Không lời đáp
Cho đến bây giờ mặt vẫn chau.
Câu hỏi đó không chỉ ám ảnh những con người sống trong buổi hoàng hôn của một thế kỷ chìm trong đau thương, mà vẫn còn là nỗi băn khoăn day dứt khôn nguôi của con người trên con đường đến Chân - Thiện - Mỹ.

loveactually
04-03-2009, 09:49 AM
Kiến Trúc



Tên chính thức của chùa là sùng Phúc mưu cầu mọi sự tốt lành như bao ngôi chùa vốn có nguồn gốc từ buổi đầu kỷ nguyên độc lập: Vạn Phúc, Vĩnh Phúc, Thiên Phúc, Ninh Phúc, Diên Phúc... Song mọi người cứ gọi theo tên núi, là chùa Tây Phương với niềm tin đã đúc kết thành câu đối ghi ở toà chùa trong!

Tây Phương hữu Phật tín tư sơn

Thạch Thất truyền kinh nghi thử địa

(Tin ở núi này - Tây Phương có Phật

Ngờ đâu đất ấy - Thạch Thất truyền kinh)

Chứ tâm thức Việt Nam cổ gọi đây là núi Trâu - xa xưa phát âm là Klâu, rồi dần phiên âm Hán Việt thành Câu Lậu. Lớp văn hoá gốc nhoà đi, Câu Lậu được giải thích do núi có hình cong tựa chiếc móc câu khổng lồ! Nói thế thâm tâm vẫn tin các dãy núi đá lẫn đất của vùng Thạch Thất là đàn trâu 9 con: Câu Lậu, Lôi Âm, Gai - Vòi Voi, Nứa, Dền, Nồng, Đỏ, Miễu và Đống Cao. Câu Lậu cao hơn 50m là con trâu đầu đàn quay đầu lại vẫy gọi cả đàn ra sông Tích Giang uống nước.

Quần thể núi đá lẫn đất của vùng Thạch Thất như đối trọng với quần thể núi đá của vùng Quốc Oai ở phía Nam trước mặt, lại như cùng trong tổng thể với dải núi So, núi Sở... Phía sau được hình dung thành các con hổ, con ngựa, con rồng, con mộc, con hoả. Những núi này là sự chuyển tiếp của vùng đồng bằng ở thềm cao lên vùng trung du Ba Vì, để rồi nhập vào vùng núi đá vôi Hoà bình trùng điệp.

Gắn với núi cao là sông dài. Sông nội đồng có dòng Tích Giang từ chân núi Ba Vì chảy về, trườn lượn quanh co, lững lờ trôi chảy, khúc nào cũng như tụ phúc ban lộc cho xóm làng. Xa hơn một chút là sông Đáy vốn là đường giao thông thuỷ xuôi xuống xứ Nam. Và đi thêm một chút nữa là sông Hồng cuộn chảy tung sóng hào hùng.

Núi sông ở vùng châu thổ là sự điểm tô cho đồng ruộng, tạo thế đối đãi âm dương, hình thành những vùng địa linh, mà dấu son là một loạt chùa danh tiếng được gọi theo tên núi. Nếu các chùa Sở, chùa So, chùa Thày... có quy mô lớn thuộc loại "chùa trăm gian" lại mở ra hoà đồng với ngoại cảnh để như vô hạn, thì chùa Tây Phương lại khuôn trong mặt bằng đỉnh núi vừa phải, nổi lên ở vẻ đẹp kiêu sa cả về kiến trúc lẫn điêu khắc.

Núi Trâu - Câu Lậu vượt lên toàn vùng là đất thiêng, trong thời Bắc thuộc đã gắn với huyền thoại cung cấp đan sa cho Cát Hồng luyện thuốc trường sinh, và viên đô hộ sứ kiêm thày phù thuỷ Cao Biền phát hiện ra huyệt đế vương rồi tìm cách trấn yểm, sang kỷ nguyên độc lập dân tin là đất Phật cực lạc nên mang thêm tên nữa Tây Phương. Núi nhỏ nhưng từ chân lên đỉnh có tới 3 chùa: Đầu non phía Bắc là chùa Quan Âm (hay Quan Quận), vạch đường lên đỉnh cũng là về đất Thánh có chùa Am Thanh (hay Thanh Am) ở lưng chừng, và cuối cùng chùa Tây Phương ở trên đỉnh nên còn gọi là chùa Cao Sơn. Dân địa phương từ lâu vẫn truyền tụng: "Đệ nhất Cao Sơn, đệ nhị Thanh Am, đệ tam Quan Quận" nói lên sự đánh giá nghệ thuật, đồng thời cũng là con đường chúng sinh tìm đến Phật giáo để được giải thoát: Trong trần tục có Quan Âm cứu khổ, giúp chúng sinh hiểu kinh pháp có sư tăng lập am giảng đạo, giác ngộ rồi thành Phật ở Tây Phương vời vợi. Đường xưa lên chùa lượn theo sườn núi thoai thoải dễ đi, vòng qua am thanh mới lên Sùng Phúc, nay vẫn dùng nhưng khuất nẻo, chỉ những ai lắng tâm cầu Phật mới có duyên tìm được. Nhưng cũng từ lâu đã mở một con đường chạy thăớng từ chân núi chỗ bãi rộng có bóng đa cổ thụ soi gương đầm nước lên thăớng đỉnh núi, đường dốc, trước xếp đá thỏi to nhỏ ngang dọc xa gần khác nhau để du khách vui đùa khi trẩy hội và thay đổi nhịp chân, vậy mà đợt trùng tu năm 1971 đã xây lại "nuột nà", "hiện đại"!

Từ đường 21B liên huyện Quốc Oai - Thạch Thất vào chùa cũng là đường thôn Yên (An) sang xóm Tây Phương được trải nhựa thênh thang, đầu ngoài là đầm Liêu dạng hình chữ Âất (Z), đầu trong vượt qua kênh đào thủy nông sang đầm Cầu Đá bán nguyệt là nơi tụ thủy tích phúc. Phía trước núi đồi ôm bọc. Người xưa quan niệm đó là một địa cục hiếm hoi, dựng đền thờ Thần dựng chùa thờ Phật là đắc địa hơn cả.

Cạnh gốc đa bờ đầm Cầu Đá có một miếu nhỏ, trong có tấm bia Thạch kiều mộc quán bi kí dựng năm Cảnh Hưng 27 (1766) nói về cầu Hoa Phong ở Tây Phương do một bà cúng hậu mà dân địa phương còn nhớ với những tình cảm kính trọng. Theo tên bia, xa xưa nơi đây có cầu đá và quán gỗ, có thể là loại kiến trúc kết hợp "Thượng gia hạ kiều" bắc qua chỗ eo của đầm để sang chân núi lên chùa. Quán gỗ đầu xóm cùng với cây đa cổ thụ vừa là chỗ ngồi chơi hóng mát của người già với những chuyện quê, là chỗ bán nước và hàng vặt cho đời sống ngày thường của dân làng. Đây chính là một môi trường văn hoá tạo cho cây đời xanh tươi, thêm một thế đối trọng với cảnh thoát tục trên đỉnh núi. Cầu đá không còn nhưng đã trở thành tên đầm để còn mãi với thời gian.

Núi Câu Lậu là núi đất lẫn đá, tre-mai-vầu cùng một số cây hoang quanh năm xanh tốt um tùm, một số vạt bằng - nhất là hai bên đường lên chùa đã được dân khai thác dựng nhà làm vườn nhưng không làm mất vẻ hoang sơ tự nhiên của núi. Núi thấp nên chùa ở trên đỉnh nhưng không xa dân, thoát tục mà vẫn gần đời, đủ đảm bảo sinh hoạt đời thường của sư tăng và là chỗ dựa tinh thần của các Phật tử.

Từ chân núi lên chùa, trước chỉ là hẻm nhỏ như lối mòn đi vào các xóm ngõ, gần đây được xây Tam quan ngoại phỏng theo kiểu ở chùa Láng (Hà Nội) kết hợp thờ Phật với thờ Thần: Cơ bản là 4 cột hoa biểu vươn cao, vuông thành sắc cạnh, uy nghi chững chạc; phía trên có dầm ngang tạo ra khung cửa giữa cao hơn 4 mét và khung cửa hai bên cao hơn 3 mét, trên dầm cr 3 cửa đều úp bộ mái toả ra bốn phía với những đầu đao cánh hoa chênh vênh trên cao. Qua Tam quan ngoại phải leo hơn 230 bậc đá, dọc đường có vài chiếu nghỉ, cuối cùng dẫn đến cổng chùa cũng mới được xây lại theo kiểu tam quan: Cửa giữa treo biển Tây Phương Cổ tự, hai bên cánh gà trổ cửa vòm cuốn, bên trên có mái, nhưng các cửa bên chỉ mang tính tượng trưng không hợp với bậc lên xuống.

Đỉnh núi là một mặt bằng khá rộng, bao khuôn viên là hệ thống cây xanh tự nhiên mọc theo sườn núi. bình đồ toàn khu chùa trước 1945 và nay, khu Tam bảo và miếu Sơn thần vẫn giữ nguyên, nhưng các kiến trúc khác đã thay đổi. Theo bản vẽ trong Phật lục (1943) thì tháp mộ, nhà Tổ, điện Mẫu, tăng phòng và các nhà phụ đều ở bên phải khu Tam bảo; nhưng giờ đây tháp mộ xây lại ở phía bên trái còn các kiến trúc khác chuyên về phía sau khu Tam bảo. Sự thay đổi này biểu hiện tính linh hoạt, không cố chấp của Phật giáo, tạo cho tổng thể cân đối và nhất là giành khoảng rộng ở sườn bên để du khách tiến lui chiêm bái các toà chùa của khu Tam bảo mà thụ cảm cao nhất vẻ đẹp kiến trúc cùng trang trí ngoại thất. Vườn hoa vườn cảnh ở khu trước chùa, trừ những cây to ổn định, nếu trước kia có hai bồn hoa nhỏ ở hai bên, giành khoảng giữa làm đường chính đạo vào thăớng gian giữa tiền đường; thì giờ đây khoảng trống ấy phía ngoài là bồn hoa, phía trong là bể non bộ, du khách đi vòng sang hai bên cho lòng tĩnh tại. Trước miếu Sơn thần cũng thế.

Ngoài những bồn cây cảnh nhỏ, sân vườn quanh khu Tam bảo là cả một vườn cây vườn cảnh không rậm rạp huyền bí, không cao trội che trùm kiến trúc, mà vừa độ để cùng kiến trúc tôn nhau lên, thâaas thoáng song rõ ràng, đủ râm mát để vẽ hoa nắng trên sân vườn, có màu xanh tán lá bên màu nâu tường mà mái, có những cành cây vươn uốn tự nhiên bên những mép tường, cạnh cửa thăớng tắp và những diềm mái uốn nhẹ bên những hoa đao vút cong duyên dáng.

Hệ cây xanh ở chùa Tây Phương nếu kể đầy đủ phải tính từ chân núi lên đỉnh để rồi vào khuôn viên chùa. Mở đầu là cây đa cổ thụ ở bờ đầm Cầu Đá, nó xum xuê, vươn dài cành lá, buông rủ rễ thành thân phụ song hành chắc chắn. Cây đa vừa là hình ảnh của những làng quê văn hoá, vừa liên tưởng đến cây bồ đề mà đức Phật đã ngồi thiền tìm lẽ giải thoát cho kiếp đời khổ ải. Rồi quanh núi và bao lấy khuôn viên chùa là bạt ngàn tre - mai - vầu vươn thăớng nhưng lả lướt, lòng rỗng và trong trắng biểu hiện "tâm không" nhà Phật, cũng là cái bản thể tuyệt đối chung nhất của muôn loài. Trong sân vườn nhiều nhất là cây đại, thân cành mọc rất tự nhiên như sự giác ngộ vượt khỏi mọi sự giàng buộc, mùa đông lá rụng thì tua tủa sừng hươu nhú bọng nhung vươn lên nhận sinh lực của trời cha truyền cho đất mẹ,. mùa hạ thì rợp lá xanh điểm hoa trắng vàng ngan ngát hương thiêng, nó là cây chăm-pa của người Chàm và người Lào, xem như hình đất nước hồn dân tộc mà họ thờ trọng vọng. Đó đây còn một số cây mít với tên chữ là ba-la-mật hàm chứ một sự huyền bí thiêng liêng, ở tiếng Phạn có nghĩa là đến bờ giác ngộ, vì thế các tượng thờ đều phải tạc bằng gỗ mít. Lại cả cây sung có tên chữ là vô-ưu, biểu hiện sự thoát tục, bỏ được hết mọi ưu tư phiền muộn. Rồi thông reo mang theo sự thông hiểu tận cùng của trí tuệ, nó thanh cao, vượt lên mọi gian khó cuộc đời.

Cây xanh còn len lỏi vào không gian nội thất. Giữa các toà chùa Hạ - chùa Trung - chùa Thượng là những khoảng sân hẹp có bể nước với nhiều chậu cảnh, bồn hoa làm cái gạch nối tự nhiên, đóng mà vẫn mở, chan hoà nghệ thuật với cuộc đời.

Ba toà chùa song hành tách bạch, toà trước và sau 5 gian, bố cục mặt bằng chữ Tam (º ) là một sáng tạo độc đáo, tuy trước đó đã có tiền để ở chùa Thày (Hà Tây) với chữ Nhất (- ) sau chữ Công (I). Nhưng đầu hồi các toà nhà thò thụt này lại được xây tường nối với nhau nên nhìn bên ngoài mang dạng chữ Công. Đây là một hướng đi đổi mới trong truyền thống. Nhìn chéo ở sườn bên, tường và mái chùa cứ lô xô, cái hữu hạn gợi ra sự động vui vô hạn. Cả ba chùa lại đều làm theo kiểu chồng diêm hai tầng tám mái, toà giữa rộng và cao hơn một chút, phá đi sự lặp lại đơn điệu mà vẫn thống nhất chặt chẽ, vừa tạo cảm giác nhẹ nhàng thanh thoát, vừa tạo sự đông vui nhộn nhịp. Cả một hệ thống hoa đao chen chúc vươn lên, tua tủa những đầu rồng, phụ hoạ vào là những cặp lân - rồng đón đầu nhau trên bờ giải như đấu trí đua tài. Các mảng mái mũi ngói nhấp nhô như sóng nước rập rờn xô đuổi, dàn ra cho đến cạnh mép gặp nhau được khuôn lại bằng những đường bờ nóc, bờ giải sắc cạnh song lại trổ hoa thủng như dải đăng ten sang trọng. Các lá mái lan nhô ra thì phía dưới mái lại thụt vào thẫm tối, đối lập để cùng nổi bật.

Phần mái động rộn thì phần tường lại tĩnh lặng, dựng đứng chững chạc. Ngược lại với các đường mũ tường và cạnh cửa được quét vữa trát vôi như những nẹp viền trắng làm khung ghìm giữ, cả mảng tường được xây gạch Bát tràng già đanh đỏ xẫm với những mạch vữa dày vuốt cong vỏ măng, tạo thành hệ thống vạch ngang song hành đưa tầm mắt mở rộng sang hai bên, bề thế, chắc chắn. Nét sáng tạo rất riêng là giữa các mảng tường vuông và chữ nhật lại được trổ một cửa tròn, là sự kết hợp âm - dương, quy - củ mang tính mẫu mực cả trong nghệ thuật và cuộc sống. Trong lòng cửa sổ được lồng 4 hình tròn tạo ra các vành khăn bằng nhau, cắt dọc cứ nửa đặc gắn với nửa rỗng, cái hư kết hợp với cái thực tạo thành một cấu trúc hoàn hảo, gắn với tư tưởng Phật giáo được gọi là cửa sổ sắc sắc - không không. Bó nền của cả khu Tam bảo là những khối đá ong đẽo gọt vuông thành sắc cạnh, mặt đanh nâu nhưng lỗ chỗ, đằm mà xốp.

Bản thân các mảng khối kiến trúc đã là sự trang trí, các phần gỗ lộ ra, từ khu đĩ - rốn nhện ở nóc hồi với diềm mái và đầu bẩy đều được trang trí những hình trạm nhất quán, nhẹ nhàng, tươi rói như băng hoa làm duyên. Ơở diện to nổi bật là ván gió khu đĩ của 2 toà ngoài và trong đều nhấn mạnh chiếc lá nhiều thuỳ, còn ở mặt giữa là mặt hổ phù. Những đề tài này sẽ được lặp lại nhiều lần ở nội thất.

Ra vào khu Tam bảo có hệ thống cửa bức bàn ở ba gian toà chùa ngoài phía trước, hoặc những cửa phụ ở hồi bên. Trong nội thất dù đóng kín cửa vẫn sáng thoáng, chăớng những nhờ hai sân hẹp mở ra khoảng trời nhỏ lấy ánh sáng và gió từ trên cao rọi xuống, còn nhờ hệ thống cửa sổ thông ngang với ngoài. Trong mỗi sân thiên tỉnh lại có một bể nước vừa là gương hắt sáng, vừa là chiếc máy điều hoà giữ cho trong chùa có một ôn độ cần thiết để bảo dưỡng bộ khung chùa và các hiện vật bằng gỗ, nhất là hệ tượng.

Tam bảo được dựng trên khu đất rộng hơn 18m và sâu hơn 25m. Hai toà ngoài và trong đều cao 6m, lòng (giữa hai dãy cột quân) rộng hơn 5m, trong khi đó toà giữa cao 7m lòng rộng 5m8, hết nền thêm 2m, đều theo kiểu chồng diêm có cấu trúc các bộ vì giống nhau là sự kết hợp chặt chẽ của các đường ngang (xà, giường, câu đầu, đầu bẩy) với cột dọc, xác định các trục tung và hoành rõ ràng, đối lập để tạo cảm giác chắc khoẻ và mạnh mẽ. Không có kẻ, đddaaf bẩy cũng nằm ngang mà trước đó mới xuất hiện rè rặt ở các cột góc Thượng điện chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), thì giờ đây được khăớng định rứt khoát nó nâng bộ mái lên cao hơn. Ngang chuyển sang dọc không cứng nhờ cái nghé ở đuôi kẻ được gọt cong gần như cung phần tư đường tròn. Cấu trúc cổ diêm ngoài nhìn vào gợi nhà hai tầng, song nội thất thông từ nền đến mái cao thoáng, cột cái vươn cao đỡ thăớng mái trên, cột quân chỉ đỡ mái dưới, thêm cột trốn ở trên xà đùi (nối đầu cột quân với bụng cột cái) để đỡ phần dưới mái trên. Như vậy trên thực tế mỗi vì có tới 6 cột, nhưng từng "tầng" thì chỉ có 4 cột, do đó kết cấu rất chắc mà không vướng, không gian nội thất đảm bảo cả hai phần cao và rộng, đáp ứng cho việc bày tượng không bị che khuất và treo cờ phướn không vướng. Các cột cái và cột quân dựng trên nền nhà dựng trên nền nhà đều được kê trên chân tảng đá không chỉ có hình tròn ở trong hình vuông, mà quanh hình tròn còn ngả xoè ra hai lớp cánh sen, khăớng định sự phát triển ở đất Phật thanh tao. Các cột quân dựng trên xà đùi cũng thông qua cái đấu tròn mang hình bông sen nở hoặc cả hồ sen. Đầu các cột trước khi đỡ hoành đều được đội cái đấu tròn chạm bông sen. Các con giường ở vì nóc chồng nhau và chồng lên câu đầu cũng đều thông qua những cái đấu chạm bông sen. Hệ thống hoa sen ở chùa Tây Phương rất phong phú, khăớng định tính chất đất Phật.

Xà nóc là chiếc hoành cao nhất, còn tàu đao là chiếc hoành dưới cùng, không kể những hoành mái trên chiếu rọi xuống mái dưới trùng nhau, thì ở mỗi hệ thống mái trước hoặc sau của toà ngoài và toà trong có 9 hoành ứng với điềm Sinh, còn ở toà giữa có 10 hoành ứng với điềm bệnh (trong chu kỳ đời người: Sinh - Bệnh - Lão - Tử). Hệ thống rui trên hoành được gắn thanh ngang vào mộng thành các ô vuông, tạo ra cả một mảng phên liên kết chặt chẽ đỡ mái ngói, mỗi ô ngói lót được nhuộm một màu xanh - đỏ - trắng - vàng như lá cờ nhà Phật, là nét riêng chỉ có ở chùa Tây Phương.

Hoành nằm ngang rất dài theo chiều mặt của chùa nên phải nối ở trên các vì, do đó giường đỡ hoành ở chỗ chắp được thông qua cái dép hoành có dạng con thuyền để vừa che khuất vết chắp, vừa tăng diện tiếp xúc đảm bảo độ bền vững. Riêng đầu bẩy do nằm ngang xa hoành nên đỡ thông qua cái dép hoành kép. Bụng dép hoành soi gờ kéo ra ăn nhập vào hoành, tạo sự chuyển giường dọc sang hoành ngang rất tự nhiên. Các đấu hoa sen và dép hoành ngoài giá trị chịu lực còn là hình thức trang trí. Các con giường, xà, câu đầu và đầu bẩy cơ bản được bào trơn, xoi gờ, chạy chỉ, ở phần đầu còn được chạm các guột mây và bó lá. Riêng ở nếp giữa thay hoa lá bằng rồng và hổ phù, rồng ở đầu bẩy chui qua cộtcó đuôi phía trong xoắn gắn liền mảng nghé với xà. Những bộ phận chịu lực được các trang trí trên phủ lên đã trở nên nhẹ nhõm và tươi mát. Phần chạm theo bố cục của nghệ thuật trang trí chính là các giải hồi văn trên các ván không chịu lực: Diềm lá sòi chuyển tiếp hàng mũi ngói giọt nước xuống tàu đao, trong mỗi lá sòi ở toà ngoài và toà trong là một chiếc lá nhiều thùy còn ở mặt giữa là mặt hổ phù; ván nong xà hạ nối các cột quân chạm hệ thống 3 tầng đấu chạc toả ngang, xen kẽ là hình chiếc lá nhiều thùy với mây xoắn biểu thị sự phong đăng phồn thịnh ở toà ngoài và toà trong, hoặc rồng và phượng ở toà giữa. Nếu rồng phượng biểu hiện tầng trời thì chiếc lá nhiều thùy tựa lá đu đủ, lá thầu dầu hay còn gợi lá ngô đồng dễ gây sự liên tưởng cuộc sống cộng đồng đầy đủ và giàu sang.

Cắt dọc khu Tam bảo, 3 toà nhà lòng rộng khác nhau được tách ra bởi khoảng sân rộng chừng 2m trũng xuống một chút, phá đi sự phăớng lặng đơn điệu. Cắt ngang, các gian chùa rộng hẹp khác nhau, từ giữa ra là 3m51, 3m35 rồi 2m87 đã tập trung được sự bài trí vào tâm.

Từ bố cục mặt bằng 3 toà nhà, mỗi toà nhà có 2 tầng mái, mỗi tầng có 4 lá mái... có người đã nghĩ đến một vũ trụ luận Tam tài (Thiên - Địa - Nhân) với sự phát triển Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, sinh Bát quái rồi biến hoá vô cùng. Nếu điều suy luận này tin được thì kiến trúc chùa Tây Phương đã lồng được ý nghĩa triết học vào trong giá trị nghệ thuật để càng đẩy cao tính nhân văn.

Chùa Tây Phương là chùa lớn có lịch sử lâu đời, song cả chùa chỉ có một tháp mộ sư, hiện mới được xây lại ở vườn cạnh hồi bên trái khu Tam bảo, mang tên Phương viên bảo tháp. Tháp bình diện vuông, trên phần nền cao là 3 tầng thu nhỏ dần ngăn cách bởi các hàng mái có góc đao uốn cong lên. ở tầng 1 có bia dựng năm Khải Định 9 (1924). Lòng tháp có sá lị thiền sư Thanh Ngọc và di hài các thiền sư khác nhau là cụ Thanh Túc rồi cụ Phúc Hải. Tháp và tường hoa bao quanh đều được xây khá muộn (cụ Hải Tịch năm 1971). Không có tư liệu gì - kể cả trí nhớ của nhân dân về các thiền sư trước cụ Ngọc (cụ Ngọc về đây trụ trì năm 1893), thậm chí sau khi cụ Túc tịch, một thời gian dài do các ông thống trong làng quản lý, mãi sau mới có cụ Hải về. Tháp mới, song nhờ gắn với cây xanh vươn cành xoè tán ra để cùng hoà nhập đã nhân lên cả vẻ đẹp và thời gian. Cũng cần biết cây tháp mộ này tuy xây sau 1971 nhưng tiền thân của nó đã có trước năm 1943, vốn ở sát hồi toà chùa giữa khu Tam bảo.

Trong toàn cảnh chùa cũng cần lưu ý miếu Sơn thâaaf, tuy lối kiến trúc thuộc lần sửa chữa năm 1933 nhưng ở đó có một chiều sâu văn hoá. Nếu ở nhiều chùa, tượng Đức Ông không thể thiếu, là sự kết hợp của nhân vật Cấp Cô Độc trong Phật thoại với thổ thần của dân gian, thì ở chùa Tây Phương, Thổ thần chính là Sơn thần tự tại, không cần nhận thêm chức danh nhà Phật, với hai tấm biển thờ còn treo khăớng định cả chiều sâu lịch sử và uy thế lẫm liệt. Dân gian gọi miếu này là Đền Trình càng củng cố thêm sức mạnh tín ngưỡng bản địa. Miếu 4 gian xây dọc, giành gian ngoài làm sảnh sắp lễ và ba gian trong thờ cúng, tạo chiều sâu hun hút linh thiêng, hồi sau là tường hậu xây tường bít đốc nhưng hồi trước có mái phụ tạo hoa đao uốn cong lại gợi kiến trúc truyền thống. Sự tồn tại của miếu Sơn thần - đền Trình cũng là một nét độc đáo của chùa Tây Phương.

loveactually
04-03-2009, 10:15 AM