PDA

View Full Version : Những đặc điểm của đô thị ở Việt Nam hiện nay



Love geo
03-07-2010, 08:14 PM
Những đặc điểm của đô thị ở Việt Nam hiện nay

ThS.Phan Anh Hồng –GV HVHCQG
1. Quá trình phát triển đô thị ở Việt Nam

Hệ thống đô thị của Việt Nam được hình thành và phát triển trải qua từng thời kỳ nhất định. Trải qua mỗi giai đoạn khác nhau hệ thống các đô thị mang những đặc điểm khác nhau.

Những năm đô hộ của phong kiến phương Bắc là thời kỳ hình thành các đô thị Việt Nam, các thế lực phương Bắc đã tập trung lực lượng kinh tế và quân sự dưới các hình thức sở (cấp tỉnh), lỵ (cấp huyện). Hoạt động thủ công nghiệp phát triển với những cảng sông để thiết lập các trạm dịch, các đầu mối giao lưu kinh tế như Luy Lâu (Thuận Thành - Bắc Ninh), Long Biên, Đại La (Hà Nội), Lạch Trường (Thanh Hóa). Cùng với các cảng sông là các đồn trú của quân đội, và các thương gia. Hoạt động buôn bán phát triển như cảng Hội An (Quảng Nam), Phố Hiến (Hưng Yên)... đã làm cho hình thức cư trú đô thị xuất hiện một cách nhanh chóng. Các đô thị như Huế, Đại La, và Thăng Long hình thành vào thời kỳ này.

Khi nước Đại Việt giành được tự chủ, trung tâm kinh tế, chính trị, quân sự của các triều đại phong kiến Đinh, Lý, Trần đã trải qua nhiều lần di chuyển do sự thay đổi của các triều đại. Các đô thị thương mại kiểu trạm dịch, cảng sông vẫn tiếp tục hình thành và phát triển cùng với sự hình thành các đồn biên phòng để bảo vệ nền tự chủ của dân tộc. Tiêu biểu cho các đô thị này là các đô thị Vĩnh Bình (Lạng Sơn), Vân Đồn (Quảng Ninh) thế kỷ XI - XIV; cảng thị như Phố Hiến (Hưng Yên), Hội An (Quảng Nam) vươn lên hoạt động nhộn nhịp phồn vinh với những đòi hỏi giao lưu, buôn bán ngày càng đông. Đến thế kỷ XVII các đô thị Việt Nam trong thời kỳ này là dựa vào các trung tâm hành chính, chính trị kết hợp với các đồn trú để tạo nên thành trì bảo vệ quyền lợi của các thế lực phong kiến. Ở thời kỳ này là sự xuất hiện của các đô thị - cảng mới như Hải Phòng và Đà Nẵng với sức trẻ đang trỗi dậy mạnh, và sự tiếp tục phát triển của các đô thị cổ có từ trước như Thăng Long, Nam Định, Quy Nhơn, Sài Gòn - Gia Định, Hà Tiên... Đặc biệt là sự phát triển vượt trội của Huế - kinh tế nhà Nguyễn, cũng như sự bắt đầu phát triển của các đô thị như Thanh Hóa, Hải Dương, Vinh... làm cho bức tranh khái quát về các đô thị Việt Nam vẫn phản ánh được dáng vẻ, nhịp độ phát triển của đô thị cổ Việt Nam của các thế kỷ trước đó[3, tr 15].

Đặc điểm chung của đô thị Việt Nam trong thời kỳ này chủ yếu gắn liền với mục đích hành chính - chính trị. Vì thế, phần "đô" xuất hiện trước, kéo theo nó là phần "thị" xuất hiện nhằm phục vụ trước tiên cho bản thân gia đình những vua chúa, quan lại, tầng lớp trên trong xã hội. Yếu tố "Đô" trong đô thị Việt Nam luôn gắn liền với "Thành", "Dinh", "Trấn" là những trung tâm cai trị của chính quyền nhà nước quân chủ, được xây dựng do ý trí chủ quan của lực lượng cầm quyền trong xã hội. Mặt khác, do nhu cầu phát triển kinh tế, cũng có các đô thị được hình thành - đây là nơi giao lưu của các luồng hàng trong quan hệ thương mại, nơi tập trung các cư dân buôn bán, tạo thành các "thị"; sau đó do nhu cầu quản lý, nhà nước phong kiến đặt các cơ sở kiểm soát, các nhiệm sở của mình, dần hình thành lên đô thị, chẳng hạn như Hội An (Quảng Nam) hay Vĩnh Bình (Lạng Sơn). Phần "đô" luôn điều hành, quản trị phần "thị". Các tầng lớp thị dân trong phần "thị" luôn bị chi phối bởi tầng lớp trên là các tầng lớp quan lại, quý tộc. Nhìn chung ở Việt Nam trong các giai đoạn đó, sự phát triển hay lụi tàn của các đô thị luôn gắn liền với sự thăng trầm của các triều đại phong kiến.

Dưới thời Pháp thuộc, người Pháp đã áp dụng chính sách chia để trị nên tổ chức mạng lưới đô thị hành chính cùng với các đồn trú rải đều trên khắp lãnh thổ nước ta. Các đô thị này thực hiện chức năng hành chính là chủ yếu, còn kinh tế kém phát triển. Sự nổi bật của thời kỳ này là hệ thống quản lý đô thị kiểu Pháp được hình thành. Nhà cửa và cơ sở hạ tầng được quy hoạch, đường sá được mở mang, môi trường được cải thiện. Các hoạt động thương mại và sản xuất đi vào chuyên môn hóa cao hơn. Các tầng lớp xã hội đô thị hình thành rõ nét như thương nhân, trí thức, viên chức.

Từ sau 1954, đất nước ta tạm thời chia làm 2 miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Sự phát triển kinh tế ở miền Bắc được tiến hành theo hướng "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, đồng thời phát triển công nghiệp nhẹ...". Các đô thị được xây dựng theo kiểu tầng bậc rải đều trên khắp lãnh thổ nhằm xóa bỏ dần sự cách biệt giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị, miền xuôi và miền ngược... Chiến lược phát triển đô thị là kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội và an ninh quốc phòng. Thời kỳ này tại các đô thị, hệ thống công trình phúc lợi công cộng tương đối hoàn chỉnh như trường học, bệnh viện, công viên, nhà máy sản xuất nước sạch, viện bảo tàng, nhà hát... Những thành phố mới được xây dựng trong thời kỳ chống Mỹ như Việt Trì, Thái Nguyên, Uông Bí...

Trong khi đó miền Nam đi theo một chiến lược đô thị khác. Các đô thị miền Nam hình thành nhanh chóng nhờ có sự viện trợ của Mỹ cùng với những căn cứ quân sự, các thị tứ hình thành cùng với các ấp chiến lược. Mục tiêu chủ yếu của các đô thị là phục vụ cho bộ máy quân sự của Mỹ. Khu công nghiệp duy nhất là khu công nghiệp Biên Hòa. Thành phố được đầu tư chủ yếu là Sài Gòn với đầy đủ các công trình phúc lợi. Các đô thị khác thực chất là các đô thị quân sự và hành chính.

Sau 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, hệ thống đô thị hai miền Nam - Bắc có những khác nhau về cấu trúc đô thị. Để phù hợp với tiến trình chung của cả nước, chúng ta phải tiến hành điều chỉnh từ sự phân bố các khu công nghiệp cho đến phân bố dân cư trên lãnh thổ nhằm đạt được sự phân bố lực lượng sản xuất hợp lý. Hệ thống đô thị hình thành, chức năng từng đô thị được xác định nhằm khai thác tiềm năng của từng đô thị. Đánh giá chung là hệ thống đô thị của ta rải đều trên khắp lãnh thổ với đủ các loại hình: đô thị công nghiệp, đô thị cảng, đô thị hành chính, đô thị du lịch, đô thị tổng hợp, song quy mô còn nhỏ bé.

Hiện nay, mạng lưới đô thị cả nước được hình thành và phát triển trên cơ sở các đô thị trung tâm, gồm 5 thành phố trung tâm cấp quốc gia như: Thủ đô Hà Nội, các thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ; 14 thành phố trung tâm cấp vùng như: các thành phố Mỹ Tho, Biên Hoà, Vũng Tầu, Nha Trang, Đà Lạt, Buôn Mê Thuột, Quy Nhơn, Huế, Vinh, Thanh Hóa, Nam Định, Hạ Long, Việt Trì, Thái Nguyên; các thành phố, thị xã tỉnh lỵ khác; các đô thị trung tâm cấp huyện, bao gồm các thị trấn huyện lỵ và các thị xã là vùng trung tâm chuyên ngành của tỉnh và các đô thị trung tâm cấp tiểu vùng, bao gồm các thị trấn là trung tâm các cụm khu dân cư nông thôn hoặc là các đô thị vệ tinh trong các vùng ảnh hưởng của đô thị lớn.

Các đô thị trung tâm các cấp được phân bố hợp lý trên 10 vùng đô thị hoá đặc trưng của cả nước là: vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và đồng bằng sông Hồng; vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ và Đông Nam bộ; vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và Trung Trung Bộ; vùng đồng bằng sông Cửu Long; vùng Nam Trung Bộ (Bình Định - Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận); vùng Tây Nguyên; vùng Bắc trung bộ (Thanh Hoá - Nghệ An - Hà Tĩnh); vùng Cao Bằng – Bắc Cạn – Thái Nguyên - Lạng Sơn - Bắc Giang - Bắc Ninh; vùng Lào Cai, Yên Bái - Hà Giang - Tuyên Quang - Vĩnh Phú và vùng Tây Bắc [3, tr 18].

2. Những đặc điểm của đô thị ở Việt Nam hiện nay

Trong những năm gần đây tốc độ đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra ngày càng nhanh hơn, mạnh hơn. Hệ thống các đô thị không chỉ tăng về số lượng mà xu hướng liên kết giữa các đô thị để mở rộng phạm vi hoạt động, giải quyết những vấn đề phát triển kinh tế - xã hội mà trước hết là các hoạt động thương mại, dịch vụ, bảo vệ môi trường, tổ chức cung ứng dịch vụ công... cũng đanh phát triển mạnh. Sự khẳng định hệ thống đô thị trong văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước; sự tồn tại phát triển thực tế của Hiệp hội đô thị Việt Nam là những minh chứng trong số rất nhiều những minh chứng sống động cho xu hướng liên kết này. Kể từ những đô thị đầu tiên ra đời cho đến nay, các đô thị đã và đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong hệ thống các đơn vị hành chính ở nước ta. Nhiều đô thị không chỉ nổi tiếng về sự cổ kính hay nét văn hóa thanh lịch đã được ghi nhận trong sử sách bởi những đường nét độc đáo của kiến trúc hay hàm chứa trong nó di sản văn hóa thế giới mà còn nổi tiếng bởi nơi đó đã được chọn làm nơi tổ chức những hội nghị quốc tế quan trọng, nơi diễn ra những hoạt động văn hóa, thể thao sôi động của khu vực và châu lục. Đô thị Việt Nam mang những đặc điểm chính sau đây:

Một là, các đô thị là trung tâm chính trị, trung tâm kinh tế, hoặc trung tâm văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, đầu mối giao thông quan trọng... của cả nước, của khu vực, của một tỉnh, một huyện. Đô thị cũng là nơi tập trung các cơ quan nhà nước từ trung ương xuống địa phương, là đầu mối của nhiều cấp, nhiều ngành quản lý đồng thời tồn tại nhưng thiếu sự phối hợp trong hoạt động quản lý nhà nước và chưa đáp ứng được yêu cầu và phương thức quản lý hành chính đô thị.

Hai là, đô thị là nơi tập trung dân cư đông đúc hơn so với khu vực nông thôn và dân đô thị là dân tứ xứ được tụ tập từ nhiều vùng, miền khác nhau vì những mục tiêu khác nhau, có cuộc sống khá độc lập với nhau, điều này khác với nông thôn.

Ba là, dân cư phi nông nghiệp chiếm tỷ lệ không lớn lắm;

Bốn là, đô thị là nơi tập trung các cơ sở hạ tầng vật chất quan trọng, như giao thông, liên lạc, viễn thông, điện nước, công trình xây dựng... Tuy nhiên, so với sự phát triển của đô thị hiện đại trên thế giới thì cơ sở hạ tầng của nhiều thành phố, thị xã vẫn chưa ngang tầm với các đô thị trên thế giới.

Năm là, lối sống đô thị là lối sống hợp cư, luôn biến động, hầu như không có sự liên kết về huyết thống, tập quán, truyền thống... luôn tôn trọng những chuẩn mực có tính pháp lý hơn là những quy tắc có tính cộng đồng.

Sáu là, người dân đô thị có trình độ chuyên môn cao hơn nông thôn;

Bẩy là, phân chia địa giới hành chính trong các đô thị không có ý nghĩa lớn đối với dân cư, người dân có thể ở một nơi làm việc ở nơi khác.

Tám là, bên cạnh đó, đô thị cũng là nơi phát sinh nhiều vấn đề xã hội, thất nghiệp, tình trạng tội phạm hình sự, tệ nạn xã hội và hàng loạt vấn đề xã hội khác luôn nảy sinh, luôn quá tải của các trường học, bệnh viện, giao thông đô thị...

Từ những đặc điểm chính nêu trên, mỗi đô thị ở Việt Nam dù nhỏ hay lớn đều là một đơn vị hành chính lãnh thổ thống nhất, không thể chia cắt về mặt lãnh thổ, kết cấu hạ tầng và các hoạt động kinh tế - xã hội trên địa bàn mỗi đô thị. Đặc điểm này quy định nội dung, phương thức quản lý nhà nước ở đô thị và do đó chi phối trực tiếp mô hình tổ chức chính quyền đô thị theo hướng tập trung, thống nhất, không được phân cắt thành nhiều tầng, cấp khác nhau; quản lý điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội phải thống nhất, xuyên suốt, nhanh nhạy, có hiệu lực cao.

Hơn nữa, chất lượng dịch vụ ở đô thị thường tốt hơn ở nông thôn; dân cư đô thị được hợp thành từ nhiều vùng, miền khác nhau, không có sự gắn kết chặt chẽ theo dòng tộc, cộng đồng tự quản như ở nông thôn; trong sinh hoạt và làm ăn hàng ngày, họ không bị giới hạn khép kín theo phạm vi đơn vị hành chính quận, phường. Do đó chính quyền đô thị phải thể hiện được ý chí, nguyện vọng và quyền quyết định các vấn đề kinh tế - xã hội trên phạm vi toàn đô thị.

Mặt khác, ở tại các đô thị vẫn có sự đan xen giữa khu vực đã đô thị hóa với các khu vực ngoại vi (đang được đô thị hóa) vẫn còn mang nhiều nét, nhiều yếu tố nông thôn (về kết cấu hạ tầng, kiến trúc xây dựng, hoạt động kinh tế xã hội, cách sinh hoạt, lối sống...), hoặc là các đơn vị hành chính nông thôn trực thuộc. Nên tại các đô thị cần phải phân biệt sự khác nhau về mô hình tổ chức và phương thức quản lý của bộ máy chính quyền đô thị ở những khu vực này.

Trong những năm gần đây, nhìn chung số lượng đô thị ở Việt Nam tăng nhanh ở tất cả các loại đô thị, nhất là các thành phố thuộc tỉnh và thị trấn. Tuy nhiên các tiêu chí về quy mô đô thị, kinh tế xã hội, cơ cấu kinh tế, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật,... chưa đạt được các tiêu chí xếp loại về đô thị. Với tốc độ tăng dân số, đặc biệt là dân số tăng cơ học lớn đã làm cho hệ thống giao thông công cộng, điện nước, điện thoại trở lên bất cập, tình trạng ô nhiễm tại các đô thị diễn ra ngày một nghiêm trọng. Cùng một loại đô thị thì diện tích của các loại đô thị là rất khác nhau. Nhiều loại đô thị loại thấp có diện tích lớn gấp nhiều lần các đô thị ở loại cao, không chỉ ở loại liền kề mà thậm chí cả với các đô thị loại cao hơn...