Võ Nguyên Giáp (sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911) là một nhà hoạt động chính trị và quân sự xuất sắc của Việt Nam thời kì hiện đại, là Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ một cử nhân luật, một giảng viên dạy sử, ông đã chỉ huy đội quân của mình đánh bại quân đội Pháp, đánh đuổi quân lực Mỹ và đánh sập chế độ Việt Nam Cộng hòa. Ông được xem như là huyền thoại quân sự của thế giới khi chỉ huy một đội quân nhỏ đánh thắng những đội quân lớn. Nếu như chiến thắng Điện Biên Phủ đã chấm dứt chủ nghĩa thực dân, đập tan huyền thoại bất khả chiến bại của phương Tây và thúc giục tinh thần chống thực dân trên toàn thế giới thì chiến thắng tại miền nam Việt Nam đã hạ gục sức mạnh "vô địch" của Hoa Kỳ. Ông từng giữ các chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi với cái tên thân thiết là (anh) Văn.
Tiểu sử
Thời niên thiếu
Võ Nguyên Giáp sinh ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho, con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân). Võ Quang Nghiêm là một nho sinh thi cử bất thành về làm hương sư và thầy thuốc Đông y, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, ông bị Pháp bắt, đưa về giam ở Huế và mất trong tù.
Năm 1925, Võ Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng Bình để vào Huế ôn thi vào trường Quốc học Huế (ông đỗ thứ hai sau Nguyễn Thúc Hào). Hai năm sau, ông bị đuổi học cùng với Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều), Phan Bôi sau khi tổ chức một cuộc bãi khóa. Ông về quê và được Nguyễn Chí Diểu giới thiệu tham gia Tân Việt Cách mạng đảng, một đảng theo chủ nghĩa dân tộc nhưng có màu sắc cộng sản thành lập năm 1924 ở miền Trung Việt Nam. Nguyễn Chí Diểu cũng giới thiệu Võ Nguyên Giáp vào làm việc ở Huế, tại nhà xuất bản Quan hải tùng thư do Đào Duy Anh sáng lập và ở báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng. Tại đây, Võ Nguyên Giáp bắt đầu học nghề làm báo, chuẩn bị cho giai đoạn hoạt động báo chí trong thời Mặt trận Bình dân Pháp.
Đầu tháng 10 năm 1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Nhà lao Thừa phủ (Huế), cùng với người yêu là Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là Võ Thuần Nho và các thầy giáo Đặng Thai Mai, Lê Viết Lượng...
Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut và đỗ. Ông nhận bằng cử nhân luật năm 1937 (Licence en Droit). Do bận rộn hoạt động Cách mạng, vào năm 1938, ông bỏ dở học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật sư
Năm 1934, ông lấy bà Nguyễn Thị Quang Thái (1915-1943), bạn học tại Quốc học Huế và là một đồng chí của ông (bà là em ruột của Nguyễn Thị Minh Khai). Năm 1943, bà Thái chết trong nhà ngục Hỏa Lò, Hà Nội.
Tham gia quân sự
Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Uỷ ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng.
Tháng 5 năm 1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại trường tư thục Thăng Long, Hà Nội do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà trường.
Ngày 3 tháng 5 năm 1940, Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng Phạm Văn Đồng lên Cao Bằng rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp Hồ Chí Minh. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong năm này và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt Nam Độc lập Đồng minh hội, một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho độc lập của Việt Nam. Ông tham gia gây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng.
Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, ông thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến khu Trần Hưng Đạo với 34 người, được trang bị 2 súng thập (một loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy. . Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Ngày 25 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyễn Giáp đã chỉ huy đội quân này lập chiến công đầu tiên là tập kích diệt gọn hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần.
Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Võ Nguyên Giáp trở thành uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó là ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Phó Bộ trưởng (nay gọi là Thứ trưởng) Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28 tháng 8 đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ.
Trong Chính phủ Liên hiệp, ông là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng (cho đến tháng 7 năm 1947 và từ tháng 7 năm 1948 trở đi).
Cũng trong năm 1946, ông kết hôn với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản, ông bắt đầu chỉ đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống lại sự trở lại của người Pháp (1945-1954) trên cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi là Tổng tư lệnh quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ.
Đại tướng đầu tiên
Không được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, không phải trải qua các cấp bậc quân hàm trong quân đội, Võ Nguyên Giáp thụ phong quân hàm Đại tướng vào ngày 28 tháng 5 năm 1948 theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1 năm 1948, Ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân Đội Quốc gia Việt Nam khi 37 tuổi. Sau này, trả lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng, Hồ Chí Minh đã nói: "người nào đánh thắng đại tá thì phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng thì phong thiếu tướng, đánh thắng trung tướng thì phong trung tướng, đánh thắng đại tướng thì phong đại tướng" . Cùng đợt thụ phong có Nguyễn Bình được phong Trung tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Tháng 8 năm 1948, ông là ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa mới được thành lập.
Từ tháng 8 năm 1945 Võ Nguyên Giáp là một trong 5 ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và trở thành ủy viên Bộ Chính trị (thay thế Ban Thường vụ Trung ương) Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951.
Võ Nguyên Giáp là tướng lão luyện về nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng của ông có tên gọi là Chiến tranh Nhân dân kế thừa quan điểm quân sự Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, tri thức quân sự thế giới, lý luận quân sự Mác-Lê và được đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân được liên tục cập nhật trong suốt thời gian cầm quân sau này.
Năm 1954, Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh và Đảng Lao động tin tưởng trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi ra trận, Hồ Chí Minh đã dặn dò: "Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ được thắng không được thua vì thua là hết vốn". Ông tự tin lên kế hoạch và chỉ huy 4 trong 6 sư đoàn bộ binh khi đó của Quân đội Nhân dân Việt Nam là 308, 304, 312, 316 và Đại đoàn sơn pháo 351 tấn công Điện Biên Phủ, đánh bại đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của Liên hiệp Pháp. Chiến thắng này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Pháp tại Đông Dương sau 83 năm và đã đưa Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới như là một danh nhân quân sự Việt Nam, một người hùng của Thế giới thứ ba, nơi có những người dân bị nô dịch đã xem Võ Nguyên Giáp là thần tượng để hạ quyết tâm lật đổ chế độ thực dân xây dựng nền độc lập của riêng mình.
Các chiến dịch đã tham gia
Tướng Giáp báo cáo kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ
Các chiến dịch ông đã tham gia với tư cách là Tư lệnh chiến dịch - Bí thư Đảng ủy trong kháng chiến chống Pháp:
* Chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947)
* Chiến dịch Biên giới (tháng 9 - 10, năm 1950)
* Chiến dịch Trung Du (tháng 12 năm 1950)
* Chiến dịch Đồng Bằng (tháng 5 năm 1951)
* Chiến dịch Đông Bắc (tháng ?? năm 1951)
* Chiến dịch Hòa Bình (tháng 12 năm 1951)
* Chiến dịch Tây Bắc (tháng 9 năm 1952)
* Chiến dịch Thượng Lào (tháng 4 năm 1953)
* Chiến dịch Điện Biên Phủ (tháng 3 - 5 năm 1954)
Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ mang đậm việc tạo thế, tổ chức hậu cần, thay đổi chiến thuật. Sau chiến dịch này, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, đặt dấu chấm hết cho sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam sau hơn 80 năm.
Chiến tranh chống Mỹ
Hình vẽ Võ Nguyên Giáp trên bìa tạp chí Time, ngày 15-5-1972
Từ năm 1954 đến năm 1976, Võ Nguyên Giáp tiếp tục giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Quốc phòng. Ông còn là Phó thủ tướng Chính phủ, sau là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (từ năm 1955 đến năm 1991).
Trong giai đoạn này, Võ Nguyên Giáp vẫn đảm nhiệm vị trí chỉ huy cao nhất của của quân đội và các quyền quyết định về các vấn đề quân sự vẫn tiếp tục chịu sự quản lý của Bộ Chính trị Đảng Lao Động đứng đầu là nhà lãnh đạo mới là Lê Duẩn từ Đại hội Đảng lần 3 năm 1960, một người đã tận mắt nhìn thấy tình cảnh của những người Cộng sản miền nam sau Hiệp định Geneve trong Phong trào Tố cộng-Diệt cộng do Ngô Đình Diệm phát động và thầm nguyện đem sức mạnh to lớn của Đảng Lao động để nhấn chìm chế độ Ngụy quyền phản động, thống nhất lãnh thổ của người Việt cho dù sẽ phải đối mặt với thế lực hùng mạnh bảo trợ cho chế độ này là Hợp Chủng quốc Hoa Kỳ.
Võ Nguyên Giáp đóng vai trò như vị tướng số 1 trong hàng ngũ tướng lĩnh danh tiếng của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông được quân đội và nhân dân gọi là Anh Cả và vai trò của ông trong nhiều nguồn tài liệu chính thức gần đây mới được tiết lộ cho thấy vẫn mang tính quyết định cục diện chiến trường miền nam xuyên suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ.
Mặc dù là người có thói quen viết hồi ức, nhưng cho đến nay, vẫn chưa có cuốn sách nào của ông xuất bản viết về giai đoạn từ năm 1954 đến trước năm 1972. Tuy nhiên, theo các thông tin chính thống gần đây cho biết:
Năm 1959, Võ Nguyên Giáp đã ủng hộ việc thành lập Đoàn 559 mở đường Trường Sơn đánh Mỹ.
Năm 1964, Võ Nguyên Giáp cũng ủng hộ và tự hào về quyết định cử Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn vào chiến trường Đông Nam Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam làm nên những chiến thắng Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Đồng Xoài ... tạo chuyển biến chiến trường và việc thành lập các Sư đoàn 5, 7, 9 khét tiếng.
Năm 1965, chia lửa với Nam Bộ, Hoàng Minh Thảo, người học trò của Võ Nguyên Giáp ở trường Thăng Long đã vào Mặt trận Tây Nguyên làm Phó Tư lệnh rồi Tư lệnh B3 thay Chu Huy Mân đến hết chiến tranh.
Năm 1968, trong khi Võ Nguyên Giáp đi khám bệnh ở nước ngoài thì Bộ Chính trị và Bộ Thống soái Tối cao tại Hà Nội phát động cuộc Tổng Tấn công và Nổi dậy Tết Mậu Thân với thiệt hại to lớn về nhân mạng.
Năm 1972, sau Chiến dịch Đường 9 Nam Lào, Lê Duẩn đã gay gắt chỉ trích ý định đưa quân vào Tây Nguyên của Võ Nguyên Giáp và ra lệnh phải đánh Quảng Trị sau một cuộc tranh luận gay gắt, căng thẳng. Chiến dịch Quảng Trị đã được triển khai trong hoàn cảnh mâu thuẫn lãnh đạo như vậy và không theo kịch bản của Võ Nguyên Giáp, không một sư đoàn nào trong 6 sư đoàn tham gia chiến dịch là 312, 308, 324, 325, 320, 341 vòng qua phía tây Huế mà tất cả dồn binh đánh trực diện từ phía bắc xuống Quân đoàn I Ngụy trên một địa hình nhỏ hẹp bên là núi bên là biển. Vì vậy, chiến dịch mới chịu tổn thất to lớn. Chỉ trên một diện tích 2km vuông, khoảng 1 vạn chiến sĩ quân giải phóng đã hy sinh do bom đạn Mỹ Ngụy chỉ phải nhằm vào khoảnh đất đó mà rót.
Cuốn hồi ức mang tên "Tổng Hành dinh trong Mùa xuân Đại thắng" do ông xuất bản lần đầu năm 2001 đã kể lại những hoạt động của ông vào giai đoạn cuối cuộc chiến tranh từ năm 1972-1975. Năm 1972, chính ông đã bố trí lực lượng đánh trả các cuộc tập kích đường không của không lực Mỹ suốt 12 ngày đêm. Năm 1975, chính ông đã tán thành ý kiến đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam để đánh đòn "điểm huyệt" vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng Hòa. Cũng chính ông chỉ huy Quân đội nhân dân Việt Nam tấn công vào Buôn Ma Thuột, thừa cơ thắng trận Buôn Ma Thuột ra lệnh cho Trung tướng Lê Trọng Tấn phải gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Cũng chính ông đề xuất với Bộ Chính trị ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong đó Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh, chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn. Mệnh lệnh nổi tiếng nhất của ông chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh là "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút, từng giờ, xốc tới, giải phóng miền nam, thống nhất đất nước".
Từ 30/4/1975 đến nay
Trong một thời gian ngắn từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 1 năm 1963 ông kiêm thêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước.
Năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật. Người thay thế ông ở Bộ Quốc phòng là Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng quân đội, một trong những cộng sự lâu năm nhất của ông.
Năm 1983 ông được Hội đồng Bộ trưởng phân công kiêm thêm vai trò Chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch khi Ủy ban này được thành lập (cùng với một số Bộ trưởng các Bộ và Tổ chức khác làm phó).
Năm 1991, ông thôi chức ủy viên Trung ương, phó Thủ tướng, nghỉ hưu ở tuổi 80.
Đại tướng trong buổi gặp mặt tổng thống Brasil Luiz Inácio Lula da Silva, năm 2008
Ông đã được tặng thưởng Huân chương Sao Vàng (1992), 2 Huân chương Hồ Chí Minh,2 Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Chiến thắng hạng nhất.
Ngày 25 tháng 8 năm 2009, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mừng sinh nhật thượng thọ lần thứ 99. Đến thời điểm này (tháng 7 năm 2010) ông đã sắp bước sang tuổi 100. Ông là chính khách Việt Nam sống lâu nhất tính cho đến thời điểm này (cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng mất năm 2000, thọ 94 tuổi).
Thời gian gần đây tuy tuổi cao, sức yếu, nhưng ông vẫn quan tâm và đưa ra một số lời bình luận trên mặt báo về tình hình đất nước như có bài báo yêu cầu kiểm định và báo cáo Đại hội Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18, hay cuộc gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khâu nông sản. Vào ngày 1 tháng 11 năm 2007 ông gửi thư trong đó bày tỏ sự phản đối chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu. Ông cũng có bài viết thực trạng và kiến nghị 6 vấn đề "cơ bản và cấp bách" nhằm triển khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo dục và đào tạo của Việt Nam hiện nay.
Đánh giá
"Tướng Giáp hoàn toàn tận tụy với nhân dân và đất nước."
Ông Giáp đã xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam từ 34 người vào tháng 12 năm 1944 thành một đội quân với hơn một triệu người năm 1975. Ông đã chỉ huy quân đội tốt trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Tên tuổi ông gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ, với nỗi hổ thẹn của Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam, với học thuyết "Chiến tranh Nhân dân", với toàn bộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước.
Với hơn 50 năm tham gia hoạt động chính trị, trong đó có 30 năm là Tổng tư lệnh Quân đội, ông có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thông tin chính thống gần đây cho biết: "Tất cả các ý kiến của anh Văn đều được Bộ Chính trị tiếp thu và tán thành trong suốt thời kỳ chiến tranh". Thượng tướng Trần Văn Trà đã từng gọi Đại tướng Võ Nguyễn Giáp là tư lệnh của tư lệnh, chính uỷ của chính uỷ. Thượng tướng Giáo sư Hoàng Minh Thảo khi được hỏi về trình độ đánh trận của các tướng lĩnh Việt Nam đã trả lời: "Giỏi nhất đương nhiên là Đại tướng Võ Nguyên Giáp, rồi đến Đại tướng Lê Trọng Tấn, rồi đến Thượng tướng Nguyễn Hữu An...". Với quân đội, ông thực sự là tấm gương sáng cho các thế hệ tướng lĩnh về đạo đức, sự chuẩn mực, tài cầm quân, nghệ thuật chiến đấu, chiến thắng. Ông là hình ảnh rực sáng, là tượng đài sừng sững trong lòng cán bộ, chiến sĩ, những người đào hào trong chiến dịch Điện Biên Phủ, những người đã xẻ dọc Trường Sơn, đào địa đạo Củ Chi đánh Mĩ. Nếu dân gian có câu: "Người lính dũng cảm trong tay người tướng giỏi" thì khi có ông là Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, những người lính của đạo quân này vốn xuất thân từ nông dân đã trở thành những chiến sĩ kiên cường nhất, bất khuất nhất và bách chiến bách thắng. Nhiều tờ báo của Đảng, của Quân đội, cũng như của công chúng và các kênh truyền hình trong nhiều năm nay đã luôn nhắc đến ông như là một thiên tài quân sự kiệt suất của người Việt.
Trong thời gian gần đây, tại các lễ hội, mít tinh, giải thi đấu thể thao lớn nhỏ trong nhà, ngoài trời, nhiều nam nữ thanh niên đã mang ảnh chân dung của Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra vẫy cổ động. Điều này cho thấy, ông không chỉ là thần tượng của thế hệ kháng chiến chống giặc ngoại xâm trước đây mà còn là hình ảnh lẫm liệt trong lòng giới trẻ, thanh niên, trí thức ngày hôm nay. Thế hệ trẻ nhìn nhận lịch sử và ngưỡng mộ ông một cách tự nguyện và chân thành nhất.
Danh tiếng của ông không chỉ bó hẹp ở Việt Nam mà bạn bè năm châu bốn biển khi nhắc đến tên Võ Nguyên Giáp đều bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc, các dân tộc châu Phi và Mỹ La-tinh tin rằng chiến thắng Điện Biên Phủ do ông chỉ huy là khởi nguồn cho nền độc lập hôm nay của họ.
Nếu như tiêu chí chọn tướng của Hồ Chủ tịch là "Đánh thắng Đại tướng được phong Đại tướng" thì suốt cuộc đời mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã lần lượt đọ sức và đánh thắng 10 đại tướng của Pháp và Mỹ (4 Pháp và 6 Mỹ), chưa kể đến nhiều viên đại tướng của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Các tướng lĩnh Mỹ khi nhắc đến ông vẫn thường gọi ông là "Đại tướng 5 sao", William Westmoreland gọi ông là "Tướng huyền thoại" (Legendary Giap)... Trong Bách Khoa Toàn Thư của Mỹ và của nhiều nước, tên và hình ảnh của ông được ghi lại như là một trong những vĩ nhân quân sự hiển hách nhất.
Kỷ niệm 60 năm ngày phát hành số đầu tiên, Thời báo châu Á (Time Asia) đã ra số đặc biệt giới thiệu các "Anh hùng châu Á", gồm các nhân vật làm thay đổi cục diện châu lục trong những thập kỷ gần đây. Những nhân vật được giới thiệu gồm Mahatma Gandhi, Jawaharlal Nehru, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiền sư Thích Nhất Hạnh,...
Tiếp tùy viên quân sự các nước
Nhân kỷ niệm 55 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Đại tướng Giáp đã tiếp các tùy viên quân sự các nước tại Việt Nam. 26 tùy viên quân sự của 23 nước đến thăm Đại tướng Giáp ngày 4 tháng 5 2009, đến từ các nước từng giúp đỡ và ủng hộ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giành độc lập và thống nhất đất nước. Trong đó có tùy viên quân sự của Lào, Nga, Cuba và CHDCND Triều Tiên,… Tùy viên quân sự Mỹ tại Việt Nam cũng đến thăm đại tướng nhân dịp này. Các tùy viên quân sự bày tỏ vinh dự vì được gặp mặt Đại tướng, vị Tổng Tư lệnh đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, một nhà quân sự tài ba. Họ cũng rất ấn tượng đối với những tác phẩm về chiến thuật quân sự của Đại tướng.
Nói chuyện với các tùy viên quân sự, Đại tướng Giáp nhấn mạnh chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ của Việt Nam đã góp phần vào chiến thắng của nhiều nước khác trên thế giới. Vì thế, trong giai đoạn hiện nay, Đại tướng bày tỏ hy vọng các tùy viên quân sự sẽ góp sức mình trong công cuộc xây dựng mối quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và thế giới. Nhân cuộc gặp hiếm có này, các tùy viên quân sự xin chữ ký của Đại tướng vào những cuốn sách do Đại tướng viết, và tặng Đại tướng biểu tượng của Đoàn tùy viên quân sự nước ngoài tại Việt Nam.
Quan điểm khác
Vào đầu năm 2009, Võ Nguyên Giáp có nhiều góp ý về các sự kiện lớn của đất nước. Tiêu biểu là việc góp ý về dự án Boxit ở Tây Nguyên, không dưới 3 lần, ông đã viết thư yêu cầu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dừng dự án này, vì lí do an ninh quốc gia và vấn đề môi trường.
Vấn đề sức khỏe
Cuối năm 2009, tình trạng sức khỏe của Đại tướng Giáp biến chuyển theo chiều hướng không tốt, gia đình đưa ông vào bệnh viện 108 để chữa trị. Đến ngày 25/1/2010, tình hình sức khỏe của Đại tướng có dấu hiệu bình phục, chỉ phải thở oxy vào ban đêm
Võ Nguyên Giáp-một vị tướng huyền thoại
LTS: Đại tá Hồ Ngọc Sơn – tác giả của bài thơ Tình em đã được nhạc sỹ Huy Du phổ nhạc thành bài hát cùng tên có gửi đến tòa soạn VnMedia một bút ký viết về cuộc gặp gỡ cảm động của đại tướng Võ Nguyên Giáp với Thống chế Mê – ra, thống lĩnh chủ huy không quân và các lực lượng phòng không toàn Ấn Độ hồi tháng 2/1989.
Nhân dịp kỷ niệm 56 năm Ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, đại tá Hồ Ngọc Sơn muốn gửi câu chuyện cảm động này tới bạn đọc để cùng hồi ức lại những ngày hào hùng của dân tộc với chiến thắng lẫy lừng năm châu bốn bể Chiến thắng Điện Biên Phủ - chiến thắng của vị lãnh tụ tối cao của nhân dân Việt Nam Hồ Chí Minh và nhà quân sự Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp.
“Ngài là một vị tướng huyền thoại”
Đó là vào những ngày hạ tuần tháng 2/1989, Chính phủ Ấn Độ cử phái đoàn quân sự cấp cao sang thăm nước ta. Trưởng phái đoàn là Thống chế Mê – ra, thống lĩnh chủ huy không quân và các lực lượng phòng không toàn Ấn Độ.
Theo thông lệ ngoại giao, trước khi các phái đoàn quân sự cấp cao kết thúc chuyến thăm, sẽ có buổi tiếp kiến Chính phủ ta. Ngày ấy, đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao đang dự Hội nghị trù bị Asem II không thể về theo kế hoạch đã định. Chính phủ đã cử người thay thế nhưng Cục liên lạc Bộ Quốc phòng không muốn thông báo trước.
Chiều 22/2/1989, ngài Mê-ra có mặt sớm ở nhà khách Chính phủ. Ông lặng lẽ đăm chiêu đi lại trước tiền sảnh như đang nóng long chờ đợi một sự kiện quan trọng gì đó sắp xảy ra. Đúng 14 giờ, đoàn xe Chính phủ xuất hiện. Thoáng thấy Đại tướng Võ Nguyên Giáp (khi đó đang là Phó Thủ tướng) vừa ra khỏi xe, ông chạy ngay xuống các bậc tam cấp, bước nhanh đến tận xe, đón chào và ôm hôn Đại tướng với tất cả lòng quí trọng, mừng vui khôn xiết.
Không khí nhà khách Chính phủ đang trầm lắng bỗng vui vẻ hẳn lên. Ở tuổi 78, tóc bạc trắng nhưng Đại tướng vẫn rất minh mẫn, linh hoạt, trên gương mặt đôn hậu luôn nở nụ cười tươi, thân ái bắt tay phu nhân ngài Mê-ra và mọi người.
Vào cuộc tiếp kiến, thống chế Mê-ra bỗng kéo ghế ngồi sát cạnh Đại tướng. Không đợi Đại tướng nói trước, ông phát biểu như muốn bộ bạch hết tâm sự của mình. Ông không xưng hô Đại tướng với chức vụ Phó Thủ tướng mà bắt đầu bằng:
“Thưa ngài Tổng tư lệnh tôn kính. Mấy hôm nay tôi có linh tính được gặp ngài. Không cần phải dấu diếm gì cả, tôi rất thật lòng nói với ngài, một trong những mong muốn lớn nhất của tôi trong chuyên thăm này là ước ao được gặp ngài.
Năm 1954, gia nhập không quân, tôi được đọc cuốn Chiến thắng Điện Biên Phủ của ngài. Nó trở thành cuốn sách gối đầu giường của tôi. Tôi và các bạn tôi đã đọc nó rất say sưa, tranh luận sôi nổi nhiều vấn đề. Không một ai có thể hình dung và giải thích nổi nguyên nhân vì sao Điện Biên Phủ được tuyên bố là một trong những tập đoàn cứ điểm kiên cố nhất Đông Dương, một hệ thống phòng ngự bất khả xâm phạm, nhưng người Pháp đã thất thủ, Việt Nam đã chiến thắng và kết thúc chiến tranh. Cuối cùng thì chúng tôi chỉ biết hết lòng khâm phục Việt Nam. Lúc bấy giờ, dư luận xã hội rộng lớn ở Ấn Độ, nhất là trong quân đội, ở đâu cũng nhắc đến Việt Nam – Hồ Chí Minh – Điện Biên Phủ - Võ Nguyên Giáp… Ngày nay, trong các trường quân sự lớn ở Ấn Độ đều có tổ giáo viên chuyên nghiên cứu, giảng dạy Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ.
Khi Việt Nam đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng không quân trên bầu trời Thủ Đô của ngài, tôi thực sự kinh ngạc và vô cùng khâm phục. Tôi cho đây là một kỳ tích có một không hai của những trận không chiến trong thế kỷ 20. Từ chiến thắng này, nhiều tướng lĩnh Ấn Độ chúng tôi đều nhất mực khẳng định chắc rằng thắng lợi hoàn toàn của Việt Nam chỉ còn vấn đề là thời gian. Và điều đó đã trở thành hiện thực với ngày toàn thắng 30/4/1975.
Tôi cho rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là một cuộc chiến tranh xâm lược cục bộ khu vực lớn nhất trong thế kỷ 20. Thắng lợi của cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chắc chắn sẽ được lịch sử thế giới ca ngợi là một cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do vĩ đại nhất của nhân loại. Chiến thắng Điện Biên Phủ, trận “Điện Biên Phủ trên không” và chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng là những chiến tích rực rỡ nhất của lịch sử quân sự thế giới. Vì vậy, tôi nghĩ rằng ngài là một vị tướng ở châu Á chúng tôi không chỉ là người chỉ huy chiến thuật xuất sắc nhất, mà còn là một nhà cầm quân chiến lược tài ba lỗi lạc nhất. Ngài là một vị tướng huyền thoại…”
Trong suốt thời gian nói chuyện, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhiều lần đập tay nhè nhẹ vào cánh tay ngài Mê-ra như muốn nhắc đừng ca ngợi nhiều về Đại tướng. Đến lượt mình, Đại tướng từ tốn nói: “Thưa ngài Thống chê Mê-ra, trong lịch sử giữ nước và dựng nước của Việt Nam từ ngàn xưa cho đến nay, đối với Ấn Độ luôn là lịch sử của tình bang giao đoàn kết hữu nghị. Hai nước chúng ta luôn là bạn của nhau, Nhân dịp này, nhờ ngài chuyển lòng biết ơn chân thành của nhân dân và Chính phủ Việt Nam đến nhân dân và Chính phủ Ấn Độ đã ủng hộ, giúp đỡ quí báu cho Việt Nam trong kháng chiến cũng như trong hoà bình xây dựng đất nước hiện nay.
Còn về các tướng lĩnh của chúng ta, cho dù có tài giỏi đến đâu, nhưng nếu không có một tập thể lãnh đạo đúng đắn sáng suốt, không có một dân tộc anh hùng và một quân đội anh hùng, thì cũng không thể làm nên công lao, thành tích như mong muốn và chiến thắng kẻ thù…”
Thống chế Mê-ra gật đầu với vẻ tâm đắc.
“Nhân dân là nguồn sức mạnh vô địch”
Cuộc trò chuyện lại tiếp tục, với giọng nhỏ nhẹ, Đại tướng chuyển về câu chuyện: “Cảm tưởng của ngài trong chuyến thăm này như thế nào?”
Ngài Mê-ra đáp: “Vâng, tốt lắm! Tôi rút được nhiều bài học kinh nghiệm rất bổ ích và có nhiều ấn tượng sâu sắc. Ví như, tôi đã xem bức ảnh máy bay chụp lại khoảnh khắc ngài Trần Hanh (nguyên Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng - chiến tích trong cuộc đời binh nghiệp của ông gắn liền với trận không chiến ngày 4/4/1965 lịch sử trên bầu trời Hàm Rồng, Thanh Hóa) quyết bắn rơi chiếc máy bay Mỹ đầu tiên. Ngài Trần Hanh nói rõ thêm rằng sau khi phi đội nghi binh đánh lừa được địch và yểm trợ tốt cho nhau, ngài đã chớp thời cơ lao vút máy bay vượt quá cả giới hạn cho phép, bắn cháy mục tiêu vào giây đúng lúc nhất, rồi vượt ngay ra khỏi vòng thoát hiểm và trở về căn cứ mặt đất an toàn, không để xảy ra một sai sót nào về kỹ thuật. Đây là cách đánh không có trong giáo trình. Câu chuyện của ngài Trần Hanh đã giúp tôi rút ra kết luận: Chỉ có chí khí anh hùng và tài trí sáng tạo như Việt Nam thì uy lực và tính ưu việt của trang thiết bị và vũ khí hiện đại của Liên Xô mới đạt hiệu quả cao.
Tôi đã ra tận đường băng đối thoại trực tiếp với một phi công trẻ trực chiến, Giữa trời nắng nóng và điều kiện đảm bảo sinh hoạt còn rất đơn sơ và hạn chế. Song anh ta vẫn rất tươi vui, hồn nhiên. Và tôi nghĩ, với tinh thần xả thân vì Tổ quốc như thế, với ý chí, nghị lực chịu đựng gian khổ cao như thế, với ý thức kỷ luật và sẵn sàng chiến đấu tốt như thế, kẻ thù tất bị thất bại là lẽ đương nhiên. Là một người chỉ huy không quân, tôi thèm khát có được một đội ngũ phi công tuyệt vời như Việt Nam.
Tôi đặc biệt quan tâm tìm hiểu là tổ chức chiến đấu như thế nào để tiêu diệt được nhiều máy bay, bắt sống nhiều phi công trong một trận không chiến đã nhận được nhiều lý giải sáng tỏ. Điều làm tôi hứng thú nhất, chiêm nghiệm nhất đó là tổ chức lưới lửa phòng không dày đặc, nhiều tầng, nhiều lớp giăng khắp làng mạc, ruộng đồng, trên các tầng cao nhà máy, công sở, khắp núi đồi, bến sông, cầu phà. Tất cả các thứ quân, các nông dân, công nhân, viên chức cho đến các cụ già, phụ nữ cũng đều bắn máy bay ở tầng thấp, tầng trung, tầng cao với chí khí “Nhằm thẳng quân thù mà bắn!”. Quả thật đây là một hệ thống tổ chức chiến đấu phòng không độc đáo có một không hai trên thế giới.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp lắng nghe rất chăm chú và đáp lời cũng rất ngắn gọn: “Thắng lợi mang tính thời đại của Việt Nam là do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Song có những nguyên nhân quan trọng nhất. Trước hết, nó bắt nguồn từ truyền thống văn hoá “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” của Việt Nam. Không sức mạnh nào của kẻ thù có thể khuất phục được lòng yêu nước nồng nàn, ý chí chống ngoại xâm kiên cường, bền bỉ, tinh thần tự tôn dân tộc thiêng liêng cao cả của người Việt Nam.
Ngày nay, thời đại Hồ Chí Minh đã thiết lập nên một thể chế chính trị thật sự vì dân, do dân và của dân. Đó là nền tảng để tiến hành cuộc chiến tranh toàn dân. Toàn dân là chiến sỹ, ai cũng nhận rõ phải đoàn kết triệu người như một đứng lên chống quân xâm lược vì hạnh phúc của chính mình. Việt Nam có câu “Nước mất thì nhà tan. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh…” Chúng tôi luôn coi nhân dân là nguồn sức mạnh vô địch.
Hơn nữa, mưu trí, sự sáng tạo của nhân dân, quân đội trong chiến đấu vô cùng to lớn, linh hoạt. Nhờ đó, Chiến tranh nhân dân Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật quân sự, làm vô hiệu hoá và thất bại hoàn toàn chiến lược tốc chiến tốc thắng của kẻ địch…”
Kết thúc cuộc tiếp kiến, Thống chế Mê-ra nắm chặt tay Đại tướng hồi lâu, tràn đầy kính mến và lưu luyến như không muốn rời xa. Ông nói lời cuối cùng: “Giờ đây, đã được gặp ngài rồi mà tôi vẫn giữ nguyên trong ý niệm rằng ngài sẽ mãi là một vị tướng của huyền thoại”.
Theo Vnmedia.vn và vi.wikipedia
Các bài viết cùng chuyên mục:
- Hoc sinh gioi quoc gia lich su
- Hình ảnh về chiến tranh VIỆT NAM [1959-1973]
- 1975 Fall of Saigon - Những hình ảnh ít...
- Các bạn hãy lắng nghe tổ tiên ta kể lại
- Bác hồ đọc tuyên ngôn độc lập
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp
- TS Lê Mạnh Thát và phát hiện lịch sử chấn...
- TS Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử...
- Sự tích Sơn Tinh-Thủy Tinh.(ý định đọc giải...
- Bạn Thích nhân vật lịch sử nào của Việt Nam
Đánh dấu