Người Kho ở Tánh Linh (Bình Thuận) theo chế độ mẫu hệ. Đến tuổi trưởng thành, con gái đi bắt chồng, con trai khi cưới vợ là theo về ở rể.
Ông KGiá (buôn Tà Lốp, xã La Ngâu, huyện Tánh Linh) được vợ bắt từ năm 1957. Nhà vợ sắm đủ lễ vật để bắt chồng theo đúng tục lệ của buôn làng gồm 25 lá khăn, một con trâu biết cày, một con heo hai người khiêng, một con gà trống và bốn ché rượu cần.
Vợ chết, chồng phải về nhà cũ
Họ có với nhau năm gái và ba trai. Đến năm 2003, vợ ông qua đời, lúc đó ông đã 72 tuổi. Đứa con út của ông cũng đã hơn 20 tuổi. Sau lễ mở cửa mả bảy ngày cho vợ, ông KGiá thu xếp trả lại toàn bộ tài sản mà hai vợ chồng làm ra trong hơn 40 năm cho bên vợ trước khi về lại nhà mình. Ông không được đưa bất kỳ đứa con nào đi theo.
Trước lúc ông về lại nhà, hai đứa cháu gái gọi ông bằng cậu đến nhà vợ ông bày lễ vật xin đón cậu. Lễ vật gồm một chai rượu trắng, hai trứng gà luộc chín, hai chén cơm và một chén nước. Tất cả đặt trước bàn thờ trong nhà vợ ông để người ra đi nói vài lời tạ từ với người đã khuất.
Ông KGiá nhìn sững sờ lên bàn thờ trống trơ. Mấy chục năm mải mê nương rẫy, ông chưa đưa vợ về xuôi chụp cho vợ tấm ảnh. Nước mắt lăn dài trên má người đàn ông đã bao nhiêu năm lăn lộn với núi rừng để tìm cái ăn nuôi vợ, nuôi con. Ông biết rằng tập tục của buôn làng như vậy, muốn làm khác cũng không được. Và dù đã cố nén lòng, ông cũng chỉ nói được một câu: Thôi bà ở lại, tôi đi đây!.
Mặt trời đã lên trên đỉnh núi bên hông nhà. Ông bước ra sân nhưng vẫn cố ngoái lại nhìn ngôi nhà thân thương của mình. Con cháu ông đứa nào đứa nấy đều nước mắt ngắn dài nhìn theo bước chân người cha, người ông của mình. Họ đã nhiều lần chứng kiến những cuộc tiễn đưa theo tập tục người Kho nhưng khi chuyện đó xảy đến với chính gia đình họ thì sự đau xót lại quá lớn.
Chị Bờ Đam Thị Hem, sinh năm 1960, con gái lớn của ông KGiá, kể: Ba tôi về nhà bà con ở, tụi tôi thấy thương và nhớ cha lắm. Tôi thấy tục lệ này có gì đó quá vô lý. Vì vậy mấy ngày sau, tụi tôi lại đến nhà bà con đưa ông về nhà nuôi, không cho ông ở đó nữa vì ông quá già rồi, mà nhà bà con tôi cũng nghèo.
Ông KGiá về sống với các con ông được hai năm thì bà Bờ Đam Mẵng (55 tuổi, chồng chết) đưa lễ vật đến nhà bắt ông KGiá về làm chồng. Lễ cưới gồm 30 lá khăn, một con heo khoảng 50 kg, một con gà trống và ba ché rượu cần. Các con ông đều đồng ý cho bà Mẵng bắt cha mình bởi từ khi mẹ qua đời, họ chỉ lo cho cha cái ăn, cái uống... còn cái buồn, cái vui thì không lo được.
Chúng tôi đến thăm ông KGiá vào một ngày giữa tháng 8. Ông đang ngồi một mình với chiếc kèn bầu dưới cái chòi đựng lúa của nhà vợ mới là bà Mẵng. Thỉnh thoảng ông đưa kèn lên môi thổi. Trong cơn mưa chiều của rừng núi âm u, tiếng kèn của ông nghe thật buồn. Ông nói: Tôi sống với bà Mẵng không khổ nhưng vẫn nhớ mẹ của con Hem. Già rồi, chỉ muốn sống sum vầy với con cái. Thế nhưng tục lệ của cha ông thì không thể làm khác được!.
Những đứa trẻ mồ côi
Anh Đặng Công Khanh, Phó Chủ tịch xã La Ngâu, nói: Nhiều năm công tác tại địa phương này, điều tôi day dứt chính là nhiều đứa trẻ mồ côi cả cha lẫn mẹ trong khi người cha vẫn còn sống.
Anh dẫn tôi đến nhà chị KThị Mẫm. Chị ốm yếu và xanh xao, tưởng tuổi ngoài 60. Ít ai ngờ năm nay chị chưa quá 50 tuổi. Năm ngoái chị có đứa em bị bệnh nặng và qua đời. Em rể là Hoàng Văn Thỉnh (lúc đó mới 22 tuổi) phải trở về với bà con của mình ở tỉnh Lâm Đồng, để lại cho chị đứa con gái tên Bờ Đam Nhã mới ba tháng tuổi. Vợ chồng chị Mẫm phải nuôi tám đứa con trong điều kiện nghèo khổ. Nuôi thêm cháu, chị vẫn phải dành tiền mua sữa cho cháu uống thay sữa mẹ.
Hồi mẹ của con Bờ Đam Nhã chết, nhà tui còn một đứa em gái 15 tuổi. Nó không chịu bắt thằng Thỉnh làm chồng nên thằng Thỉnh phải về nhà ở Lâm Đồng - chị Mẫm nói. Nhìn ngôi nhà tềnh toàng, rách nát của vợ chồng chị Mẫm, đồng thời nghe kể là hằng ngày cháu Bờ Đam Nhã dù mới bảy tuổi nhưng vẫn vào rừng bẻ măng phụ vào bữa ăn của gia đình, tôi không khỏi chạnh lòng. Trường hợp của cháu Bờ Đam Nhã chỉ là một trong nhiều trường hợp mồ côi mẹ ở xã La Ngâu không được quyền ở với cha.
[IMG][/IMG]
Bờ Đam Nhã (bìa trái) và các cháu người Kho ở xã La Ngâu.
Anh Hà Văn Dinh - Chủ tịch UBND xã này cho biết: Hiện nay tại xã có bảy trường hợp vợ chết. Trong đó, năm người phải bỏ con lại để về ở với bà con của mình. Tôi không dám cho tập tục người Kho của mình khi vợ chết, chồng phải trở về nhà cũ để ở là lạc hậu. Nhưng nếu vì tập tục này mà để cho các cháu mồ côi cha trong khi cha vẫn còn sống là không công bằng - anh Dinh nói. Cũng theo anh thì đời sống mẫu hệ của người dân Kho ở đây hiện đang có những thay đổi. Ngày càng có nhiều người không theo tập tục cũ. Đa phần người Kho đều muốn khi người vợ chết, người chồng vẫn được phép ở lại với con cái.
Anh Nguyễn Văn Thiểu, người Kho, Bí thư chi bộ thôn Tà Cụ, thị trấn Lạc Tánh, huyện Tánh Linh, cho biết: Tại thôn Tà Cụ, chủ yếu là đồng bào Kho sinh sống rất hòa thuận. Họ đều theo tập tục bắt chồng và người chồng phải trở về với bà con của mình mỗi khi người vợ chết. Anh nhận thấy tập tục này không còn phù hợp với cuộc sống hiện nay, vì vậy đã vận động bà con không nên theo nữa. Nhiều người nghe anh, thôi về nhà bà con để ở mỗi khi vợ chết.
Anh Mang Sơn (sinh năm 1975) là một thí dụ điển hình. Tháng 3-2008, vợ anh qua đời, bỏ lại cho anh bốn đứa con. Đứa lớn 12 tuổi và đứa nhỏ mới tám tháng tuổi. Theo lời khuyên của anh Thiểu, anh Mang Sơn không về nhà theo tập tục, vẫn ở lại nuôi con. Sau đó, có một chị dân tộc ở xã kế bên đến ngỏ ý bắt anh làm chồng. Vậy là anh Sơn phải để các con lại cho bà ngoại nuôi. Nhà ngoại nghèo vẫn chấp nhận nuôi bốn đứa cháu. Cả bốn cháu đều lớn lên trong sự nghèo khổ của ngoại.
Thấy thương hoàn cảnh của bà cháu, anh Thiểu đề nghị Ủy ban thị trấn cấp cho các con anh Sơn một căn nhà tình thương. Qua công tác nắm tình hình ở cơ sở, Hội phụ nữ Công an huyện Tánh Linh phát hiện hoàn cảnh các con anh Sơn. Dù Hội phụ nữ Công an huyện chỉ có năm chị nhưng mỗi tháng mỗi chị đều trích tiền lương 20.000 đồng cấp cho các cháu 10 kg gạo, một hộp sữa, 1 kg đường cát. Việc tặng quà đó vẫn được thực hiện đúng, đủ hơn một năm nay. Đây cũng chính là những tấm lòng đáng trân trọng khi biết các chị chưa hẳn khá giả nhưng vẫn dành dụm để chia sẻ cho nhau những khó khăn trong cuộc sống cộng đồng.
Thay đổi một tập tục là điều không dễ dàng. Nhưng hủ tục đã đẩy những đứa trẻ thơ ngây vào cảnh mồ côi cả cha lẫn mẹ ngay sau khi mẹ mất. Việc cải tiến phong tục là cần thiết để những đứa trẻ kia được lớn lên trong tình yêu thương, chăm sóc của cha, để những người già không phải trở nên bơ vơ khi vợ qua đời, khi mà con cái họ còn đề huề và có khả năng lẫn mong muốn được phụng dưỡng...
Các bài viết cùng chuyên mục:
Đánh dấu