Source:http://www.math.buffalo.edu/~longle/...s/DayhocMy.htm

DẠY VÀ HỌC Ở MỸ: ĐÔI ĐIỀU TẢN MẠN
Lê Hoàng Long

Dạy:

Việc dạy và học ở bên này mà so với Việt Nam thì có khá nhiều khác biệt. Trước hết nói về cách ăn mặc. Sinh viên thì không nói rồi, đủ các dạng các kiểu, cũng chẳng khác gì sinh viên bên mình lắm, nhưng mấy ông giáo sư, cũng như thành phần trợ giảng thì thoải mái hơn nhiều. Ở mình, người đứng trên bục giảng thường phải mặc quần tây, áo sơ-mi, bỏ áo vào quần, mang giày có quai hậu, không được mang giày thể thao (dĩ nhiên là trừ thầy cô dạy Thể Dục). Còn ở Mỹ thì miễn sao đừng quá lố thôi, chứ muốn mặc gì thì mặc. Chuyện ông giáo sư mang giày thể thao, mặc quần jean với áo thun vào lớp là chuyện bình thuờng. Những hôm mùa hè trời nóng, có không ít giáo sư mặc quần dài lưng lửng tới đầu gối để lên lớp giảng bài. Dĩ nhiên là lực lượng trợ giảng cũng chẳng khác gì. Có người chỉ toàn mang “giày không có quai hậu” để đến lớp, bất kể thời tiết; sinh viên cũng như bạn bè thấy vậy cũng chẳng có ý kiến gì, chỉ vào mùa Đông thì thỉnh thoảng lại hỏi :”Mày không lạnh sao?”

Khác biệt lớn nhất là mối quan hệ giữa người đứng lớp và sinh viên. Ở mình, cái khoảng cách giữa các thầy cô đứng lớp và sinh viên là khá lớn, nhiều khi thầy trò làm việc với nhau trong cả thời gian dài mà quan hệ vẫn rất xã giao. Còn ở bên này thì cảnh một sinh viên ngồi tán phét với một ông giáo sư là chuyện rất bình thường. Sinh viên mình thường rất ngại khi tiếp xúc với các thầy cô, chứ sinh viên bên Mỹ cảm thấy rất thoải mái khi nói chuyện với những người đứng lớp. Với trợ giảng thì cũng không nói làm gì, vì lực lượng trợ giảng thường là trẻ, dễ gần. Sinh viên Việt Nam mình cũng chẳng ngán gì trợ giảng, có khi lại còn trêu chọc. Nhưng sinh viên bên Mỹ cũng không ngại nói chuyện với các giáo sư. Thành phần không cảm thấy thoải mái khi trao đổi với các ông giáo sư thường là dân châu Á, có lẽ vì đã quen với nếp cư xử theo truyền thống phương Đông. Sinh viên có thể hỏi bài các giáo sư mà mình chưa học bao giờ, thậm chí chưa từng nói chuyện trước đó. Có một điều hay là tuy khá dễ dàng thân thiện với các giáo sư như vậy, nhưng sinh viên vẫn giữ sự tôn trọng các giáo sư rất đúng mực, chứ không như ở VN, thường thì hễ thân thân một chút là rất hay “dễ ngươi”.

Học:

Trong lớp học thì sinh viên Mỹ cũng như sinh viên Việt Nam thôi, nghĩa là cũng ngồi nói chuyện riêng, tụm năm tụm ba xì xào to nhỏ. Nói chung, làm trợ giảng ở đây so sánh với làm trợ giảng ở Việt Nam thì cũng không nhiều khác biệt lắm. Cũng đến giờ thì bước vào lớp, mở quyển sách ra và hỏi bọn sinh viên muốn mình hướng dẫn bài nào. Nếu sinh viên có thắc mắc thì sẽ hỏi, còn không thì mình chọn bài nào quan trọng và cơ bản thì ghi lên bảng rồi hướng dẫn. Nếu làm trợ giảng cho ông giáo sư nào có khả năng sư phạm cao, giảng lý thuyết tốt thì mình hướng dẫn được nhiều bài tập hơn vì có thể đi lướt qua mà không cần phải nhắc lại lý thuyết. Còn không thì phải dùng giờ bài tập để giảng lại những gì ông ấy nói trên lớp. Dĩ nhiên làm như vậy thì cũng không thể nói được hết tất cả những gì ông giáo sư đã giảng, vì mỗi tuần, trợ giảng chỉ có 50 phút cho mỗi lớp, còn ông giáo sư có đến 150 phút để giảng bài.

Khi mình hướng dẫn, nói một hồi, quay xuống mà thấy bọn sinh viên gật gù là biết “chúng nó” hiểu, còn nếu chỉ thấy toàn là những cặp mắt nai vàng ngơ ngác thì phải tự biết là mình sẽ phải nói lại một lần nữa cho dễ hiểu hơn, cái này thì giống hệt như bên Việt Nam. Có hơi chút xíu khác biệt thôi, là khi mình hỏi: “Có hiểu bài không?” thì sinh viên bên này thể hiện thái độ rõ hơn, với tỉ lệ cao hơn. Chẳng hạn nếu không hiểu thì mấy đứa ngồi trong lớp sẽ lắc đầu nhè nhẹ, hoặc nói “No!” nho nhỏ trong họng (khó mà nghe được nhưng nhìn cái miệng thì biết J), còn không thì cũng nhăn mặt nhíu mày ra vẻ đang suy nghĩ dữ dội lắm nhưng vẫn chưa thấy được chân lý. Còn sinh viên Việt Nam thì đa số là trưng ra một khuôn mặt bất động dù hiểu hay là không, hoặc ngó lơ chỗ khác. Nói chung là làm trợ giảng bên này thì mức độ trao đổi thông tin với sinh viên có vẻ là cao hơn so với làm trợ giảng ở Việt Nam.

Thi:

Chuyện học trong lớp thì có nhiều điểm tương đồng chứ chuyện thi cử thì nhiều khác biệt lắm. Một trong những điểm khác biệt lớn là việc thi một lần duy nhất trong học kỳ ở Việt Nam so với việc thi nhiều kỳ nhỏ (Mid-term) trong một học kỳ ở Mỹ. Bên Mỹ hiếm khi thấy môn học nào chỉ có một kỳ thi cuối học kỳ duy nhất. Tệ lắm thì cũng phải có một kỳ thi giữa học kỳ. Ngoài ra còn có quiz, là bài kiểm làm trong thời gian ngắn, từ 10 đến 30 phút. Tất cả đều được tính vào điểm tổng kết của môn học. Điều này làm giảm mức độ may rủi trong việc tính điểm, vì ai lỡ xui xẻo làm không tốt một bài thi thì vẫn còn cơ hội để gỡ lại, cũng như người nào hên mà “rùa” được một bài thì những bài sau cũng sẽ thể hiện ra sức học thật. Điều này cũng làm giảm việc học tủ, làm giảm việc cả học kỳ không ngó ngàng gì đến môn học, chỉ è đầu è cổ ra học lấy học để trong vài ngày trước khi thi. Dĩ nhiên, nhờ như vậy mà giảm cả việc quay cóp, vì nếu chỉ học vài ngày trước khi thi thì làm sao mà thấm cho được, chỉ có quay cóp là chắc ăn. Chuyện quay cóp cũng là một điểm khác biệt lớn giữa sinh viên bên này với ở Việt Nam. Sinh viên bên này ý thức tốt hơn nhiều. Dĩ nhiên cũng có trường hợp xem bài nhau, nhưng quay cóp theo kiểu đem cả quyển sách vào phòng thi rồi ngồi lên, hoặc theo cách làm giàu cho mấy cửa hàng photocopy thì không có. Nguyên nhân quan trọng nhất là việc xử phạt rất nghiêm túc. Nếu bị phát hiện gian lận (kể cả quay cóp lẫn đạo văn, trích dẫn không ghi nguồn gốc ...) thì chỉ có nước xách cặp rời khỏi trường với một vết nhơ trong hồ sơ học bạ. Còn ở Việt Nam, nhỡ giám thị có bắt được quả tang thì cũng chỉ tịch thu tài liệu, hoặc “hình phạt” nặng hơn thì tịch thu bài làm rồi phát cho tờ giấy thi mới để làm lại, vì: “Thôi cũng tội nghiệp, mình không nên ác thế...” Rồi sinh viên bên này nếu không biết làm bài là nộp bài đi ra, chứ không ở lì trong phòng thi để xem có “viện binh” hay không. Sinh viên mình thường hay tranh thủ khều bên này, móc bên kia để chép được bao nhiêu đỡ bấy nhiêu, có khi người chẳng quen biết gì mà cũng níu hỏi cho bằng được.

Đánh giá:

Đến cuối học kỳ thì sinh viên ở bên này được làm “evaluation”, nghĩa là đánh giá những người đã đứng lớp. Trợ giảng thì được xem những gì sinh viên ghi trong bản đánh giá, nhưng Giáo sư thì không. Đến ngày đánh giá, ông Giáo sư sẽ phát bản đánh giá cho sinh viên, và đề nghị một người trong lớp tình nguyện làm nhiệm vụ thu lại và nộp về cho trường. Kết quả đánh giá thì dĩ nhiên là người đứng lớp sẽ được biết sau khi có tổng kết, nhưng sinh viên cũng có quyền được biết, chỉ cầm làm đơn xin xem. Việc đánh giá như thế này trước đây có trường Bùi Thị Xuân đã thử nghiệm, nhưng bị phản ứng dữ quá nên thôi. Chính ra thì đây là một điều cũng nên làm, vì có như vậy mới thật sự đánh giá được khả năng của người đứng lớp. Dĩ nhiên là không thể nào tránh khỏi chuyện có một vài sinh viên không thích môn học hoặc không thích người đứng lớp vì nhiều nguyên nhân, nhưng nếu loại bỏ đi những thành phần cực đoan thì người ta cũng có thể có cái nhìn tương đối khách quan về người đứng lớp. Có điều văn hoá phương Đông dường như khó mà chấp nhận việc học trò được quyền đánh giá thầy cô như vậy.

Nhìn chung, việc dạy và học ở Mỹ khá thoáng và thoải mái, tuy vậy nhưng vẫn ở trong những khuôn khổ chặt chẽ. Chính vì thế, môi trường học tập ở Mỹ luôn cởi mở, tích cực, và đó chính là chiếc chìa khóa để phát huy năng lực sáng tạo của sinh viên.
Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

Các bài viết cùng chuyên mục: