Chào các bạn,

ChuyenHVT.net thành lập 2005 - Nơi lưu trữ rất nhiều kỉ niệm của các thế hệ học sinh trong hơn 15 năm qua. Tuy chúng mình đã dừng hoạt động được nhiều năm rồi. Và hiện nay diễn đàn chỉ đăng nhập và post bài từ các tài khoản cũ (không cho phép các tài khoản mới đăng ký mới hoạc động). Nhưng chúng mình mong ChuyenHVT.net sẽ là nơi lưu giữ một phần kỉ niệm thanh xuân đẹp nhất của các bạn.


M.

Kết quả 1 đến 9 của 9

Chủ đề: Tên gọi Việt Nam qua các thời kỳ

Hybrid View

  1. #1
    Thành viên chính thức [HU]-Vượng Vui Vẻ's Avatar
    Ngày tham gia
    18-11-2007
    Tuổi
    34
    Bài viết
    20
    Cảm ơn
    1
    Đã được cảm ơn 9 lần ở 4 bài viết

    Mặc định Tên gọi Việt Nam qua các thời kỳ

    Tên nước Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
    Xích Quỷ: Thời Kinh Dương Vương vào năm 2879 TCN
    Mà theo mình tìm hiểu.Theo Ngọc phả và truyền thuyết cho biết thì Kinh Dương Vương là cháu 4 đời của Viêm đế Thần Nông, vì không thích làm vua ở đất kinh Tương( vùng hồ Động Đình – Trung Quốc ) nên mới du ngoạn đến Phương Nam để chọn đất đóng đô ở Ngàn Hống và đặt quốc hiệu là Việt Thường

    Văn Lang: Thời Hùng Vương

    Âu Lạc: Thời An Dương Vương

    (thuộc)Nam Việt: Bắc thuộc thời nhà Triệu

    Nam Việt gồm lãnh thổ Âu Lạc, Quảng Đông, Quảng Tây)

    (thuộc)Giao Chỉ: Bắc thuộc thời Hán

    Giao Chỉ bộ gồm miền bắc Việt Nam, Quảng Đông, Quảng Tây)

    Giao Châu: Bắc thuộc từ thời nhà Đông Ngô đến nhà Đường

    Vạn Xuân: Giai đoạn độc lập dưới thời nhà Tiền Lý năm (542 - 602)

    An Nam Đô hộ phủ: Bắc thuộc thời Đường (618-866)

    Tỉnh Hải Quân: tiếp tục trong thời thuộc Đường qua thời Tự chủ tới hết thời nhà Ngô (866-967)

    Đại Cồ Việt: 968 - 1054 thời nhà Đinh - Tiền Lê và đầu thời Nhà Lý

    Đại Việt: 1054 - 1400 thời nhà Lý-nhà Trần

    Thời vua Lý Anh Tông, năm 1164 nhà Tống công nhận một quốc gia độc lập, tên An Nam Quốc

    Đại Ngu: 1400-1407 ("Ngu" nghĩa là "hoà bình") thời Nhà Hồ

    Đại Việt: 1428 - 1802 thời Nhà Hậu Lê - Nhà Tây Sơn và 03 năm đầu thời nhà Nguyễn

    Việt Nam: Nhà Nguyễn từ năm 1804 - 1839

    Đại Nam: Nhà Nguyễn từ năm 1839 - 1887

    Từ năm 1887, Pháp chia Việt Nam ra làm 3 xứ tương đương với 3 vương quốc là Tonkin(Bắc kỳ), Annam(Trung kỳ), Cochinchine (Nam kỳ), cả 3 đều nằm trong liên bang Đông Dương

    Đế quốc Việt Nam: từ Tháng 04/1945 - 08/1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim

    Quốc gia Việt Nam: từ 1949 - 1955 với quốc trưởng Bảo Đại do Pháp dựng lên

    Việt Nam Cộng hòa: tồn tại từ 1955 đến 30/04/1975 tại miền Nam

    Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: từ 2 tháng 9 năm 1945 đến 2 tháng 7 năm 1976

    Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: từ ngày 02/07/1976 đến nay.

    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

    Các bài viết cùng chuyên mục:


  2. Đã có 3 người nói lời cảm ơn.


  3. #2
    Thành viên chính thức concrete's Avatar
    Ngày tham gia
    12-10-2008
    Tuổi
    36
    Bài viết
    80
    Cảm ơn
    116
    Đã được cảm ơn 45 lần ở 16 bài viết

    Mặc định

    David có quả nick độc thế! @vuong_thai: vsvsvsvsvvvvvvsfbsbsb
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

  4. #3
    Thành viên gắn bó thanh_ai's Avatar
    Ngày tham gia
    13-10-2007
    Bài viết
    1,151
    Cảm ơn
    31
    Đã được cảm ơn 54 lần ở 41 bài viết

    Mặc định

    đúng thằng em mình có khác.học hành dạo này cũng hoành tráng phết
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

  5. #4
    Thành viên cống hiến loveactually's Avatar
    Ngày tham gia
    29-12-2005
    Tuổi
    39
    Bài viết
    3,844
    Cảm ơn
    261
    Đã được cảm ơn 2,067 lần ở 700 bài viết

    Mặc định

    Lịch Sử Tên Nước Việt Nam
    Trước và trong thời Hai Bà Trưng, tiên tổ của người Việt Nam hôm nay gọi đất nước mình là gì? Đó là một câu hỏi khó. Tuy vậy, tôi cũng tạm nêu ra từ “Âu Lạc”, trong đó Âu là Đất, Lạc là Nước. Từ ghép “Âu Lạc” mang nghĩa là đất nước hay xứ sở [1]. So sánh hơi khập khiễng thì tổ chức xã hội Âu Lạc khi ấy không khác mấy vùng đồng bào thiểu số Tây Nguyên cách đây trên dưới 100 năm. Nếu người Pháp từng kí âm “Đạ Lạch” thành Đà Lạt (nghĩa gốc là nước của người Lạch, xứ sở của người Lạch) thì người Hán cũng đã kí âm “Đất nước” thành “Âu Lạc”. Chúng ta chỉ hình dung được: dường như Âu Lạc - Đất Nước có qui mô lớn hơn Đà Lạt - Nước Lạch.
    Từ Âu Lạc xuất hiện lần đầu tiên trong Sử kí của Tư Mã Thiên. Song nó hàm nghĩa rất rộng, đó là một khu vực bao la gồm Quảng Tây, Quảng Đông và miền bắc Việt Nam ngày nay. Vương quốc Âu Lạc nửa hư nửa thực gắn với An Dương Vương hầu như chỉ là sự ghép nối vụng về các mảnh sử liệu rời rạc có sau Sử kí.
    Trên một góc nhìn nào đấy thì nước Nam Việt của Triệu Đà cũng có thể mang tên bản địa là Âu Lạc. Sử kí viết về nước Nam Việt, nhưng luôn nêu rõ dân là dân Việt, tuồng như trong thông nghĩa Bách Việt (hàng trăm / nhiều tộc Việt khác nhau phía nam Trường Giang).
    Vậy chủ nhân của mảnh đất Việt Nam hôm nay có phải người Việt không, hay Việt chỉ là một từ ngoại lai mà lịch sử trót dùng.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

  6. Những người đã cảm ơn :


  7. #5
    Thành viên cống hiến loveactually's Avatar
    Ngày tham gia
    29-12-2005
    Tuổi
    39
    Bài viết
    3,844
    Cảm ơn
    261
    Đã được cảm ơn 2,067 lần ở 700 bài viết

    Mặc định

    1. Nước Việt thời Xuân Thu – Chiến quốc.
    Theo Việt vương Câu Tiễn thế gia (Sử kí thiên 41 [2]): Việt vương Câu Tiễn là hậu duệ vua Hạ Vũ. Con thứ vua Thiếu Khang đời Hạ được phong đất Cối Kê để thờ cúng vua Hạ Vũ. Họ khai hoang lập ấp, cắt tóc xâm mình, trải qua hai mươi đời thì đến Doãn Thường. Doãn Thường đánh nhau với vua ngô là Hạp Lư. Doãn Thường chết, Câu Tiễn được lập làm Việt vương.
    Các chú giải của đoạn Sử kí trên:
    1. Sách Chính Nghĩa, trích lại từ Ngô Việt xuân thu (viết vào năm 232 đến 300): Vua Hạ Vũ đi khắp thiên hạ, đến Đại Việt, lên Mao Sơn họp quần thần bốn phương phong thưởng, rồi mất và được an táng tại đó. Đến thời Thiếu Khang, vua sợ không ai tế tự tôn miếu, bèn phong con thứ là Ư Việt hiệu Vô Dư đất ấy.
    2. Sách Cối Kê kí viết rằng: Con thứ của vua Thiếu Khang hiệu là Ư Việt, do đó tên nước Ư Việt xuất phát từ tên hiệu ấy.
    3. Sách Chính Nghĩa viết: Sách Xuân Thu Công Dương truyện gọi Ư Việt là do vùng đất ấy chưa thông với Trung Quốc. Thông rồi thì gọi là Việt.
    4. Sách Xuân Thu Tả truyện cho rằng Việt là tiếng nói của người bản địa (Cối Kê) có âm như thế, dùng từ Việt để ghi lại.
    5. Sách Thích Danh của Lưu Hi (219 SCN): Việt mang nghĩa vượt, vì là nước man di khác vòng lễ nghĩa Hoa Hạ.
    Sau khi Câu Tiễn diệt Ngô, quân Việt vượt sông Hoài cùng các nước Tề và Tấn hội ở Từ Châu, cung tiến vật phẩm cho triều Chu. Chu Nguyên Vương phong Câu Tiễn là Bá, trông coi các chư hầu vùng Giang Nam.
    Đến đời Việt vương Vô Cương, Sở Uy Vương diệt nước Việt. Con cháu Câu Tiễn cũng như giới quí tộc Việt lưu lạc khắp miền Giang Nam, xưng tiểu vương hoặc quân trưởng và thần phục vua Sở.
    Đến Tần mạt, hai quân trưởng vùng đất Mân là Dao và Vô Chư giúp Hán cao tổ đánh quân Tần. Năm 202 TCN Vô Chư được phong Mân Việt Vương cai quản vùng phía nam đất Mân (Quận Mân Trung thời Tần). Năm 192 TCN Dao lại được nhà Hán phong làm Đông Âu vương, cai quản vùng phía bắc đất Mân, ở lưu vực sông Âu.
    Trong Sử Kí của Tư Mã Thiên, Ư Việt (於越) còn được viết là Vu Việt (于越 – Hóa thực liệt truyện SK 129).
    Sách Thuyết văn giải tự : Vu = Ư dã (là Ư vậy).
    2. Dân Âu Việt là ai?
    Cũng Sử Kí (Triệu Thế gia SK 43 [3]) ghi nhận: 夫翦发文身,错臂左衽, 瓯越之民也 / Phu tiễn phát văn thân, thác tí tả nhẫm, Âu Việt chi dân dã / Như người Âu Việt, đàn ông cắt tóc, vẽ mình, đặt vạt áo về bên tay trái.
    Sách đời sau chú đoạn Sử Kí trên khá nhiều, với mục đích trả lời câu hỏi “Âu Việt chi dân” là ai:
    - Sách Ẩn nói theo Lưu Thị thì người Châu Nhai, Đạm Nhĩ (Đảo Hải Nam ngày nay) là người Âu nên có từ Âu Việt.
    - Sách Chính Nghĩa cho rằng họ là người Nam Việt của Triệu Đà.
    Xét trên đặc trưng văn hóa được Sử Kí ghi nhận thì người Âu Việt, người Ư Việt hay Vu Việt gần như là một. Để chứng minh Ư = Vu = Âu, cần phải có một công trình ngôn ngữ học truy nguyên các ngữ âm Hán cổ, cũng như cách kí âm phương ngữ bằng Hán tự của người Trung Quốc xưa.
    Chữ Âu ở đây rất quan trọng, nó có liên quan mật thiết với cổ sử Việt Nam, vì một trong những thuật ngữ mù mờ nhất trong cổ sử Việt Nam là từ Âu Lạc. Sử Kí đã dùng những chữ Âu sau:
    1. Đông Âu: Xứ sở của Đông Âu vương tên Dao. Từ này xuất hiện trong các thiên: Hiếu Vũ Bản Kỉ SK 12, SK 114, SK 22, SK 30.
    2. Âu Lạc : Nói chung toàn khu vực Nam Việt, kể cả Mân Việt / SK 20, SK 113.
    3. Người Đông Âu ở bên bờ sông Âu / SK 114, SK 22.
    4. Âu Việt : Người Âu Việt / SK 43.
    5. Âu nhân : người Đông Âu / SK 130.
    6. Âu Thoát : Tên một vùng đất của Hung Nô phía bắc / SK 114.
    Theo Thuyết Văn giải tự, Âu = :小盆也從瓦區聲 / Tiểu bồn dã tòng Ngõa Khu thanh (Cái bồn nhỏ, bộ Ngõa, âm như chữ Khu). Chữ Âu ghép bởi chữ Khu (Khang Hi: vực dã) là vùng đất và chữ Ngõa là ngói, đồ gốm.
    Xin đề nghị một liên tưởng dân dã:
    U = nhô lên = đồi, núi ~ vú (nguồn sống nhô lên từ ngực phụ nữ) = rú (âm Việt cổ chỉ núi, trong từ rừng rú).
    Vú em = dưỡng mẫu
    U = mẹ
    Bu = mẹ già
    Khu (đất) ~ u = mẹ.
    Khu = vực = đất
    Ý Đất trong chữ Âu có thể xuất phát từ âm Khu. Ta có thể có mối tương quan giữa các âm như sau: Ư = Vu = Khu = Âu = U = Bu = Mẹ = Đất = Rú (Núi = Non).
    Như vậy, hoàn toàn tồn tại khả năng người Trung Quốc đã dùng Hán tự để kí âm phương ngữ vùng Giang Nam để nói về nước Ư Việt thời Xuân Thu – Chiến quốc. Từ nước Việt bên giòng Trường Giang ấy mà liên hệ ngôn ngữ với nước Việt Nam hôm nay là rất khó thuyết phục, tuy nhiên đặc trưng văn hóa cắt tóc xâm mình tương đồng là không thể phủ nhận. Có chăng một cuộc di cư lớn, kéo dài hàng trăm năm của cư dân và quí tộc Ư Việt sau khi nước Việt bị nước Sở sáp nhập? Nếu hậu duệ Câu Tiễn từng được ghi nhận chạy loạn xuống Mân Việt (địa bàn tỉnh Phúc Kiến ngày nay), thì không có lí do gì không có những nhánh khác đi xa hơn như đến Quảng Đông, đảo Hải Nam, bờ biển Hợp Phố (Quảng Tây) và đồng bằng sông Hồng.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

  8. #6
    Moderator thử việc fantastic's Avatar
    Ngày tham gia
    16-05-2008
    Tuổi
    33
    Bài viết
    1,294
    Cảm ơn
    215
    Đã được cảm ơn 323 lần ở 152 bài viết

    Mặc định

    cái này anh copy paste trên wikipedia à
    @loveactually
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

  9. #7
    Thành viên cống hiến loveactually's Avatar
    Ngày tham gia
    29-12-2005
    Tuổi
    39
    Bài viết
    3,844
    Cảm ơn
    261
    Đã được cảm ơn 2,067 lần ở 700 bài viết

    Mặc định

    Chú lên wikki search thử xem có jống ko ? mà chú chưa đọc nên phát biểu vậy!
    Lần sau đọc kỹ nhé! tài liệu này của Viện Sử Học!

    Chỉ nội câu mở đầu cũng đã thấy tâm huyết của người viết!

    Trước và trong thời Hai Bà Trưng, tiên tổ của người Việt Nam hôm nay gọi đất nước mình là gì? Đó là một câu hỏi khó. Tuy vậy, tôi cũng tạm nêu ra từ “Âu Lạc”, trong đó Âu là Đất, Lạc là Nước
    3. Âu Lạc – Lạc Việt
    Khi hai dân tộc, hai nền văn hóa vì những biến động lịch sử vô tình hòa vào nhau, kết hợp làm một, nó sẽ để lại dấu tích trong ngôn ngữ. Đó sẽ là những tổ hợp từ sinh ra trên cơ sở phối hợp hai từ đồng nghĩa của hai nền văn hóa riêng biệt. Từ mới nọ tất nhiên phải đồng nghĩa với hai từ cũ. Ví dụ:
    Chó = Má = Chó má (Thái + Việt)
    Chia = Ly = Chia ly (Việt + Hán)
    Vậy phải chăng Âu Lạc chính là hợp từ sinh ra bởi Âu và Lạc. Nếu câu chuyện này thuyết phục, thì ta có thể truy ngược được nghĩa Âu.
    Tại hội nghị nghiên cứu thời kì Hùng Vương năm 1971, trong tham luận “Thử tìm nguồn gốc ngữ nghĩa của từ tố Lạc”, Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đã giải thích Lạc nghĩa là nước. Hai ông cũng liên hệ được Lạc với Nác (tức nước) theo phương ngữ miền trung Việt Nam. Bằng các phương pháp truy nguyên ngữ âm học, các chuyên gia ngôn ngữ học Việt Nam hiện nay đã đi đến kết luận chữ Giang trong Trường Giang là Hán tự kí âm phương ngữ. Thật vậy, chữ Giang ghép bởi chữ Thủy (mang nghĩa nước, sông) và chữ Công (kí âm). Công có họ hàng với Krông, tức là dòng sông, dòng suối trong ngôn ngữ của cộng đồng người Đông Nam Á cổ và hiện vẫn tồn tại trong ngôn ngữ Tây Nguyên. Trường hợp tên gọi Mêkông [4] (tiếng Thái, tức là mẹ của các dòng sông, dòng suối) cũng vậy. Ngày nay ở Tây Nguyên nhóm từ Đạ / Đak / Krông đều chỉ nước, sông, suối.
    Theo tôi từ Lạc không đơn thuần chỉ là nước mà nó đôi khi còn được sử dụng với nghĩa Xứ Sở với các dẫn chứng liên hệ như Negeri (tiếng của người Mianagkabau ở Malaysia), Nưgar (tiếng của người Chiêm Thành).
    Như vậy, khi xâu chuỗi các nghiên cứu trên lại với nhau ta có một nhóm từ tố mang nghĩa rất giống nhau là : Đạ / Đak / Krông / Lạc / Nác / Nước / Nưgar / Negeri.
    Giả định Âu Lạc = Đất nước đến đây đã trở nên không hề hoang tưởng. Thậm chí nó có thể mở ra cách giải nghĩa một từ có liên đới là Lạc Việt: tên gọi này thể hiện sự kết hợp hai chủng tộc là bản địa (Lạc) với con dân cũ của nước Việt di cư xuống. Ở góc độ nào đó, nó là sự rút gọn của Lạc – Âu Việt.
    4. Nam Việt
    Mở đầu thiên Nam Việt liệt truyện (Sử kí 113 [5]) đã thấy Tư Mã Thiên dùng từ Việt với hàm í dân Việt: 秦时已并天下,略定杨越 置桂林, 南海、象郡, 以谪 徙民,与越杂处十三岁 / Tần thời dĩ tính thiên hạ, lược định Dương Việt trí Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận, dĩ trích tỉ dân, dữ Việt tạp xứ thập tam tuế. Nghĩa là: Nhà Tần, sau khi chiếm cả thiên hạ bèn lấy đất Dương Việt chia thành quận Quế Lâm, quận Nam Hải và quận Tượng, bắt những người bị tội đày xuống sống chung với người Việt, việc diễn ra đã được 13 năm. Về tổng thể, thời Tây Hán sách sử Trung Quốc đều thống nhất cho rằng chủ nhân nước Nam Việt là người Việt.
    Chữ Việt trong tiếng Hán: . Thuyết Văn tự giải của Hứa Thận thời Đông Hán định nghĩa: 度也從走戉聲 / Độ dã tòng tẩu việt thanh (Nghĩa là vượt qua, bộ tẩu, âm như chữ Việt là chiếc rìu đá). Một chữ Việt khác đồng âm, đồng nghĩa nhưng dị tự vẫn hay được các bản in xưa nay dùng là .
    Trong ghi chép của Tư Mã Thiên, con người bản địa nước Nam Việt do Triệu Đà dựng lên là người Việt. Tuy vậy, dường như chữ Việt này được rút từ từ ghép Bách Việt, chứ không dính dáng gì đến nước Việt thời Chiến Quốc trước đó. Bách Việt không phiếm chỉ một dân tộc, một đất nước. Nó gần như là một khái niệm và mang nặng hàm nghĩa văn hóa. Phổ quát nhất và thường được lập đi lập lại là đặc trưng “văn thân, đoạn phát / xăm mình, cắt tóc”. Theo Đông Việt liệt truyện (SK 114) [6] và Việt vương Câu Tiễn thế gia(SK 41) [7], vùng Mân Việt (Phúc Kiến) phía đông bắc Nam Việt là đất nước dưới quyền cai trị của hậu duệ Việt vương Câu Tiễn. Năn 202 TCN nhà Hán phong Vô Chư làm Mân Việt Vương, năm 192 TCN nhà Hán lại cắt một phần phía bắc Mân Việt phong cho quân trưởng Dao làm Việt vương (theo SK 41) hoặc Đông Âu vương (theo SK 114).
    Thật khó khăn nếu muốn giải nghĩa Triệu Đà lấy tên Nam Việt với hàm í gì. Xét theo ngữ pháp tiếng Hán ta có Nam Việt = Đất nước phía nam nước Việt. Do đó người Việt ở nước Nam Việt có lẽ là người Bách Việt hơn là người Việt đồng chủng với cư dân Mân Việt? Điều này sẽ bị mấy câu văn vần của Thái sử công ở cuối thiên SK 113 phủ nhận, khi mô tả sự kiện Mân Việt đánh nhau với Nam Việt : Âu Lạc tương công, Nam Việt động dao / (Người, xứ) Âu Lạc đánh nhau, (Nước) Nam Việt xáo động. Hơn nữa, tục cắt tóc xăm mình cũng rất thịnh hành ở nước Việt của Câu Tiễn. Có không khả năng giai cấp lãnh đạo Mân Việt là người Việt (con cháu Câu Tiễn), trong khi đại bộ phận nhân dân là người Lạc?
    5. Việt nam :Sau khi diệt Nam Việt, có một cách đoạn nhiều trăm năm cái tên Nam Việt không được cả người Hán lẫn người Âu Lạc cũ dùng tới. Sau đây là biên niên và tên gọi Việt Nam [8] ngày nay theo dòng lịch sử:
    Hán: quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam
    Tam quốc (thuộc Ngô) trở đi : Giao Châu
    Đường : An Nam
    Tống : An Nam, như việc phong Đinh Bộ Lĩnh làm An Nam quận vương. Năm 1017 nhà Tống phong Lý Công Uẩn Nam Bình Vương. Năm 1164 nhà Tống lại dùng danh xưng An Nam Quốc Vương cho vua Lý.
    Minh: An Nam, năm 1428 Lê Lợi thay Trần Cao và được nhà Minh phong làm An Nam quốc vương, sau đến nhà Mạc được phong An Nam đô thống sứ.
    Thanh: An Nam, như đã phong cho vua Quang Trung là An Nam Quốc vương.
    Đến năm 1802, lần đầu tiên bắc triều mới chấp nhận để chữ Việt vào quốc danh để thành Việt Nam.
    Tai sao bắc triều tránh dùng chữ Việt, có những lí do sau:
    - Sợ nhầm lẫn với nước Nam Việt thời Tây Hán hoặc nước Việt thời chiến quốc.
    - Chữ Việt nhắc đến một quốc gia độc lập và tự chủ, trong khi bắc triều luôn muốn áp đặt đô hộ trực tiếp hoặc thống thuộc gián tiếp mảnh đất phương nam này như một thuộc quốc.
    - Chia để trị là một đối sách mà các nước đế quốc ưa dùng. Quá trình Hán hóa các dân tộc thiểu số ở Hoa Nam bắt buộc phải thủ tiêu thuật ngữ Bách Việt. Hán hóa chính là xâm lăng văn hóa, thôn tính văn hóa, bước tiếp theo của vũ lực quân sự.
    - Sau khi nước Việt thời chiến quốc và nước Nam Việt của Triệu Đà đã bị gộp vào Hán tộc, bắc triều gọi các nước phương nam là Nam cũng có thể xác nhận cách nhìn nhận phi Hán trong văn hóa, con người cũng như cương vực của khu vực này.
    Ngược lại với bắc triều, các phong trào giành độc lập cũng như các vương triều của cư dân Việt Nam xưa có xu hướng chuộng chữ Việt:
    Năm 544 Lý Bí tự xưng Nam Việt đế, đặt tên nước là Vạn Xuân.
    Năm 549 Triệu Quang Phục xưng là Việt Vương.
    Năm 939 Ngô Quyền mở nước Đại Việt.
    Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh đặt tên nước là Đại Cồ Việt.
    Năm 1054 Lý Thánh Tông đổi quốc hiệu là Đại Việt.
    Năm 1400 Hồ Quí Ly lấy tên Đại Ngu.
    Năm 1427 Lê Lợi dùng lại tên Đại Việt.
    Năm 1802 Nguyễn Ánh lấy tên nước là Nam Việt nhưng Thanh triều đổi thành Việt Nam.
    Năm 1838 vua Minh Mạng dùng lại tên Đại Nam.
    Năm 1945 chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định tên nước là Việt Nam.
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

  10. #8
    Thành viên gắn bó thanh_ai's Avatar
    Ngày tham gia
    13-10-2007
    Bài viết
    1,151
    Cảm ơn
    31
    Đã được cảm ơn 54 lần ở 41 bài viết

    Mặc định

    toàn úp từ bktt lên.chả bùn đọc nữa.viết kái gì bổ ích tí đi
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

  11. #9
    Thành viên tích cực totenkopf's Avatar
    Ngày tham gia
    08-12-2007
    Tuổi
    39
    Bài viết
    182
    Cảm ơn
    23
    Đã được cảm ơn 110 lần ở 64 bài viết

    Mặc định

    Trích dẫn Gửi bởi thanh_ai Xem bài viết
    toàn úp từ bktt lên.chả bùn đọc nữa.viết kái gì bổ ích tí đi

    Ặc,,,,,,,,,,, loạt bài này của bác Trương Thái Du về quá trình hình thành quốc hiệu Vn, bạn tìm đc trên bktt thì tài vô đối
    Vụ này ae trên nhiều diễn đàn chém nhau sứt đầu mẻ trán, bạn Vinh quẳng vào đây có lẽ ko hợp, bởi lẽ nó mang tính hàn lâm quá.
    Có điều mình thấy nhiều nhà nghiên cứu thích đánh đồng mình với dân Bách Việt cổ, cái này theo mình là nhầm..... Có lẽ họ (mấy cha nghiên cứu lịch sử đó), choáng ngợp trước quá khứ huy hoàng của Bách Việt cổ. Văn minh lúa nc vùng nam Trường Giang là 1 phần quan trọng kết hợp với văn minh du mục của trung nguyên cổ cấu thành lên văn minh Hoa Hạ. Có lẽ vì vậy mà các nhà nghiên cứu thích ghép cái quá khứ đó cho dân mình, mặc dù ta chỉ là 1 phần nhỏ của đất Bách Việt. Bằng chứng thì mình dek biết nhiều, chỉ biết là cái trống đồng mà ta tự hào, tụi khựa cũng bới được hàng đống khắp Lưỡng Quảng và Phúc Kiến........

    Theo mình thì từ "Việt" trong quốc hiệu của ta phần nào xuất phát từ lý do chính trị muốn tự coi là lực lượng kế thừa của Bách Việt, như vậy phần nào cân bằng so với chính quyền khổng lồ phương bắc, giống như vua tàu xưng là thiên tử thì vua Nhật xưng là thiên hoàng .
    Mà mình nghĩ quan trọng là đều nói chung 1 thứ tiếng, để ý nhiều đến gốc gác mệt lắm. Nhiều nhà sử học chửi Triệu Đà, nhưng đều tâng nhà Trần, trong khi tổ 4 đời của vua Trần Thái Tông cũng là khựa zin.....

    Rất tâm đắc với loveact, rất hy vọng có lúc đc trà đá chém gió cùng cậu.....
    Nguồn từ: http://chuyenhvt.net

  12. Những người đã cảm ơn :


Thông tin về chủ đề này

Users Browsing this Thread

Có 1 người đang xem chủ đề. (0 thành viên và 1 khách)

Đánh dấu

Quyền viết bài

  • Bạn Không thể gửi Chủ đề mới
  • Bạn Không thể Gửi trả lời
  • Bạn Không thể Gửi file đính kèm
  • Bạn Không thể Sửa bài viết của mình
  •