Ngày 1 tháng 9 năm 1939 sau khi gây ra vụ khiêu khích hèn hạ tại thị trấn Glây-vích trên biên giới Ba Lan, Phát xít Đức ồ ạt xâm lược nước này, sau đó liên tiếp xâm lược các nước: Đan Mạch, Na Uy, Bỉ, Hà Lan, Lúc-xăm-bua, Pháp, Nam Tư và Hy Lạp... trong đó có trang bị của các nước bị chúng chiếm đóng gồm: 92 sư đoàn Pháp, 22 sư đoàn Bỉ, 18 sư đoàn Hà Lan, 12 sư đoàn Anh và 6 sư đoàn Na Uy, lọt vào tay nước Đức phát xít, Hít-le đã dùng tiềm lực kinh tế của 11 nước châu Âu bị chúng chiếm đóng có diện tích gần 2 triệu km2 và hơn 129 triệu người, làm tiềm lực kinh tế, quân sự trang bị cho đội quân Đức.
Để chuẩn bị xâm lược Liên Xô, trong 2 năm 1940 - 1941 nền công nghiệp chiến tranh Đức được dành ưu tiên sản xuất máy bay và xe tăng: Sản lượng máy bay mỗi năm cung cấp 10.000 đến 12.000 chiếc (xe tăng năm 1940 đóng 1.400 hạng trung và 800 xe tăng hạng nhẹ, nhưng năm 1941 đã cung cấp 2.900 xe tăng hạng trung và 2.300 xe tăng hạng nhẹ và xe bọc thép). Sản xuất vũ khí từ năm 1934 đến năm 1940 tăng gấp 22 lần, tính đến tháng 5 năm 1941, ngành sản xuất vũ khí có tới trên 5 triệu người, gần 6.500 xí nghiệp nước ngoài bị chiếm đóng sản xuất phục vụ quân đội Đức. Kế hoạch 'Bác-ba-rô-xa' xâm lược Liên Xô, được chuẩn bị bí mật, kỹ càng do Hít-le ký duyệt ngày 18-12-1940 dưới tên gọi là 'Chỉ thị 21' đông tới 7.330.000 tên bao gồm 214 sư đoàn thiện chiến nhất có kinh nghiệm chiến tranh xâm lược khắp châu Âu và hơn 4.300 xe tăng, 47.200 đại bác và súng cối, 4.980 máy bay chiến đấu để ngay ngày đầu tiên của chiến tranh - Ngày 22 tháng 6 năm 1941, bất ngờ tràn vào lãnh thổ Liên Xô và đã tiến sâu vào khoảng 50 đến 60 km, sang ngày hôm sau, chúng tiến sâu tới 130 km và đến ngày 30 tháng 6 năm 1941, Hồng Quân, mặc dù đã đánh trả ngoan cường bọn xâm lược, nhưng do lực lượng quá chênh lệch bị đẩy lùi về bờ sông Tây Đvi-na và Đne-prơ. Thời kỳ đầu chiến tranh bọn Phát xít Đức nắm thế chủ động về chiến lược và tác chiến, chúng khống chế trên không và trội hơn Hồng Quân về xe tăng và pháo binh. Do đó đến mùa Hè 1942, chúng đã chiếm đóng các vùng kinh tế rộng lớn của Liên Xô (nơi trước chiến tranh có gần 80 triệu người sinh sống, cung cấp 1/3 sản lượng công nghiệp, 47% diện tích đất nông nghiệp và khoảng 1/2 đầu gia súc), Hồng Quân bị tổn thất lớn về người và vũ khí trong khi cỗ máy chiến tranh Đức trở thành khổng lồ nhờ huy động lực lượng tại những quốc gia châu Âu mà chúng đã chiếm đoạt dễ dàng như dẫn chứng ở trên.
Ngay từ năm đầu cuộc Chiến tranh Giữ nước Vĩ đại, trong trận bảo vệ Mát-xcơ-va (từ 30-9-1941 đến 20-4-1942) cao điểm là tháng 11 và 12 năm 1941, bọn Phát xít đã tập trung 74 sư đoàn thiện chiến (hơn 1,8 triệu quân), gần 14.500 đại bác, súng cối, 1.700 xe tăng và gần 1.400 máy bay tấn công ào ạt hòng nhanh chóng chiếm Mát-xcơ-va, mặc dù lực lượng ít hơn quân Đức (chỉ có 1,2 triệu người, 7.600 đại bác và súng cối, 900 xe tăng, 677 máy bay) Hồng Quân đã chặn đứng và đập nát đòn tiến công của kẻ thù, gây cho chúng tổn thất lớn buộc chúng phải dừng lại trước ngưỡng cửa thủ đô Mát-xcơ-va. Sau đó, trong thời gian phản công của mặt trận Ca-li-nin, mặt trận Tây và sườn phải mặt trận Tây-Nam, Hồng Quân trong điều kiện mùa đông giá lạnh đã đẩy lùi quân Đức cách xa Thủ Đô yêu quý của mình từ 100 đến 250km, tiêu diệt 11 sư đoàn xe tăng, 4 sư đoàn cơ giới và 23 sư đoàn bộ binh (chỉ tính riêng lục quân bọn Phát xít đã mất 168.000 tên) chôn vùi huyền thoại về 'Quân đội Đức vô địch' trên các cánh đồng ngoại thành Mát-xcơ-va và cũng từ đây tinh thần quân Phát xít giảm sút mạnh.
![]()
Không khuất phục trước kẻ xâm lược, bằng những nỗ lực phi thường, chỉ đến giữa năm 1942, nhân dân Liên Xô lúc đó đã vượt lên gian khổ, đau thương, hy sinh do bọn Phát xít gây ra, nhanh chóng khôi phục lại tiềm lực công nghiệp bị mất, vì vậy chỉ trong 2 năm 1942-1943 đã gửi ra mặt trận 44.600 xe chiến đấu, (trong khi đó nước Đức chỉ sản xuất được 18.200) cung cấp nhiều hơn quân Đức 20.000 máy bay. Tới tháng 1-1945 Hồng Quân đã được nhân dân Xô Viết cung cấp trội hơn địch gấp 3 lần về xe tăng và pháo tự hành, về máy bay gấp 7,3 lần.
Tướng G.K. Giu-cốp
Trận đánh lớn nhất trong năm 1942 là trận Xta-lin-grát (từ ngày 17-7-1942 đến ngày 2-2-1943) đã đập tan âm mưu của quân đội phát xít Đức hòng tiến tới sông Vôn-ga, chiếm các đầu mối giao thông nối liền trung tâm nước Nga với vùng Cáp-ca-dơ. Trong chiến đấu phòng ngự, Hồng Quân đã ngoan cường trước lực lượng to lớn của kẻ thù làm cho chúng bị kiệt sức và bị bao vây. Ngày 19-11-1942 thực hiện kế hoạch tiêu diệt đội quân Phát xít gần Xta-lin-grát, Hồng Quân, từ mờ sáng đã mở đầu bằng 80 phút dội pháo của gần 3.500 đại bác mở đường cho các hướng tiến công, kết quả 22 sư đoàn và 160 đơn vị độc lập của Tập đoàn quân dã chiến 6 và Tập đoàn quân xe tăng 4 Phát xít bị bao vây. Hồng Quân tiếp tục chiến đấu đến ngày 2-2-1943 làm cho Cụm quân Đức nằm trong vòng vây bị chia cắt thành: Cụm Bắc và Cụm Nam. Ngày 31-1-1943, Cụm Nam do thống chế Pao-lút chỉ huy đầu hàng. Tổng cộng trong trận Xta-lin-grát, quân Phát xít bị mất hơn 800.000 tên, gần 2.000 xe tăng, hơn 10.000 đại bác, xấp xỉ 3.000 máy bay quân sự các loại.
Trận 'Vòng cung lửa Cuốc-xcơ' (từ ngày 5-7 đến ngày 23-8-1943) kéo dài gần 2 tháng diễn ra hết sức căng thẳng và ác liệt, được mệnh danh là trận đánh xe tăng lớn nhất, Hồng Quân đập tan sức tiến công và tiêu diệt 30 sư đoàn Đức (trong đó có 1.500 xe tăng, 3.000 đại bác, hơn 3.700 máy bay và gần 500.000 binh lính, sỹ quan). Chiến thắng của Hồng Quân trong trận Cuốc-xcơ là đòn báo trước thất bại không thể tránh khỏi của nước Đức phát xít đồng thời cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng chiến của các nước châu Âu đang bị phát xít Đức chiếm đóng.
Trận phòng thủ Lê-nin-grát (kéo dài từ ngày 10-7-1941 đến ngày 8-9-1944), trong suốt 900 ngày đêm không quên đó, trên bờ sông Nê-va, thành phố Lê-nin-grát đã tổ chức nhiêù trận đánh oanh liệt tiêu diệt và chặn đứng kẻ thù mạnh hơn gấp bội, dù bị bao vây thiếu thốn, hy sinh rất lớn lao nhưng đã giữ vững Thành Phố thân yêu và đập tan mọi mưu đồ thâm hiểm của kẻ thù Phát xít, thể hiện rất rõ tinh thần dũng cảm và ý trí quyết chiến quyết thắng của nhân dân Xô Viết quyết tâm bảo vệ Tổ quốc.
Các trận đánh lớn khác trong Chiến tranh Giữ nước Vĩ đại như: Trận vượt sông Đni-ép (từ ngày 25-8 đến ngày 23-12-1943), trận đánh trên vùng hữu ngạn U-crai-na (từ ngày 24-12-1943 đến ngày 17-4-1944), Chiến dịch tấn công Bê-lô-ru-xi-a (từ ngày 23-6 đến ngày 29-8-1944), chiến dịch I-a-xi-Ki-si-nhốp (từ ngày 20 đến ngày 29-8-1944), chiến dịch Vi-xla-Ô-đe (từ ngày 12-1 đến ngày 3-2-1945) và nhiều chiến dịch khác đã làm cho phát xít Đức liên tiếp thất bại.
Phối hợp cùng với Hồng Quân trên các chiến trường chính, phong trào Du kích xuất hiện ngay từ những ngày đầu quân đội Đức xâm lược lãnh thổ Liên Xô, cuối năm 1941 đã có hơn 2.000 đội Du kích với trên 90.000 chiến sỹ yêu nước chiến đấu trong các vùng bị Đức tạm chiến. Năm 1942, lực lượng Du kích đông tới 220.000 người và đến năm 1943 lên đến trên 550.000 người cầm súng chống quân xâm lược, tính tổng cộng trong những năm chiến tranh đã có trên 1.000.000 chiến sỹ Du kích. Lực lượng Du kích đánh phá bọn Phát xít suốt ngày đêm trong vùng địch hậu buộc quân Đức phải giữ riêng 10% quân số để đối phó. Hoạt động của các chiến sỹ Du kích đã ngăn chặn, cầm chân bọn Phát xít vì vậy chúng chỉ thu hồi được 7% sản lượng than vùng Đôn-bát, không quá 15% khai thác gỗ và gần 28% ngũ cốc (so với sản lượng trước chiến tranh). Nổi rõ là 'cuộc chiến tranh đường ray' đã phá hơn 200.000 thanh ray, đánh đổ hơn 21.000 đoàn tàu, phá huỷ hơn 17.000 đầu tầu và 171.000 toa tàu, đốt cháy đánh xập 12.000 cầu đường sắt và đường bộ tiêu diệt và bắt làm tù binh hàng nghìn binh lính, sỹ quan, viên chức Đức trong vùng địch hậu, làm cho chúng ăn không ngon ngủ không yên.
Con đường người Chiến sỹ Hồng Quân tiêu diệt chủ nghĩa Phát xít trong chiến tranh thế giới lần thứ II là con đường dài đầy gian khổ hy sinh qua nhiều nước châu Âu, châu Á giải phóng cho nhiều dân tộc thoát khỏi thảm hoạ Phát xít: Lịch sử Thế giới không bao giờ quên hình ảnh nhân dân các nước: Ba Lan, Tiệp Khắc, Hung-ga-ri, Bun-ga-ri, Trung Quốc, Triều Tiên và các nước khác chào đón các chiến sỹ Hồng Quân đến giải phóng cho họ bởi vì đó không phải là các cuộc diễu binh, hơn 1 triệu công dân Xô Viết đã ngã xuống trong các trận đánh giải phóng hoàn toàn hoặc một phần 11 nước châu Âu và sau đó góp phần giải phóng Trung Quốc, Triều Tiên khỏi thảm hoạ Phát xít. Theo số liệu chưa đầy đủ, chỉ tính riêng trong các đội Du kích của phong trào kháng chiến ở các nước châu Âu đã có tới 40.000 công dân Xô Viết.
Trận công phá Béc-lin (từ ngày 16-4 đến ngày 9-5-1945) là trận đánh kết túc chiến tranh ở châu Âu, Hồng Quân đã nhanh chóng đè bẹp sự chống cự tuyệt vọng của các đơn vị thuộc cụm quân 'Vi-xla' và 'Trung tâm' có gần 1 triệu quân được trang bị: 10.400 đại bác, súng cối, 1.500 xe tăng và pháo tự hành, 3.300 máy bay chiến đấu. Tham gia chiến dịch giải phóng Béc-lin có: Phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 1 (Tư lệnh Nguyên soái Liên Xô Ghê-oóc-ghi Giu-cốp), phương diện quân Bê-lô-ru-xi-a 2 (Tư lệnh Nguyên soái Liên Xô Côn-xtan-tin Rô-cô-xốp-xki) và phương diện quân U-cra-i-na 1 (Tư lệnh Nguyên soái Liên Xô I-van Cô-nép), một phần lực lượng Hạm đội Ban-tích (Tư lệnh Đô đốc Vla-đi-mia Tơ-ri-bút), đội tàu sông Đni-ép, binh chủng Phòng không,v.v... Phía Hồng Quân có 2,5 triệu quân, gần 42.000 đại bác, súng cối, hơn 6.250 xe tăng và pháo tự hành, 7.500 máy bay chiến đấu. Với sức mạnh áp đảo và nghệ thuật chiến tranh giải phóng Xô Viết, chiến dịch Béc-lin, Hồng Quân đã đập tan 70 sư đoàn bộ binh, 23 sư đoàn xe tăng và cơ giới, phần lớn máy bay của không quân, bắt làm tù binh gần 480.000 tên, thu và phá huỷ toàn bộ đại bác và súng cối, xe tăng và pháo tự hành của quân đội Phát xít. Ngày 30-4-1945, hai chiến sỹ Xô Viết là: Mi-khai-in E-go-rốp và Me-li-tôn Can-ta-ri-a đã treo lá cờ Chiến Thắng trên nóc nhà quốc hội Đức, kết thúc chủ nghĩa Phát xít Đức.
Ngày 11-2-1945, tại hội nghị Crưm, ba cường quốc Đồng minh lúc bấy giờ là: Liên Xô, Mỹ, Anh đã ký một Hiệp định, trong đó nói rằng sau khi nước Đức phát xít đầu hàng và kết thúc chiến tranh ở châu Âu thì khoảng hai, ba tháng sau Liên Xô sẽ tham gia chiến tranh chống phát xít Nhật. Ngày 6 và 9-8-1945, máy bay Mỹ ném 2 quả bom nguyên tử xuống 2 thành phố của Nhật là Hi-rô-si-ma và Na-ga-xa-ki gây huỷ diệt chưa từng có trong lịch sử chiến tranh, làm chết rất nhiều người thường dân, tất nhiên cũng gây ảnh hưởng xấu tới quân đội Nhật, nhưng theo nhà sử học người Anh Gi.Éc-man nói: Quân đội Nhật vẫn còn sức chiến đấu và đầy quyết tâm chống cự lại. Bởi vì trong thực tế, đạo quân Quan Đông là lực lượng chủ yếu của Nhật đông gần 1 triệu tên có 2/3 số xe tăng, 1/2 số đại bác gồm các sư đoàn tuyển chọn của quân đội Nhật Hoàng vẫn toàn vẹn, đang chiếm đóng tại Mãn Châu Lý và Triều Tiên, tại biên giới Liên Xô và Mông Cổ quân Nhật đã xây dựng 17 vùng quân sự kiên cố.
Thực hiện sự cam kết với các nước Đồng minh và thực hiện nhiệm vụ giải phóng các dân tộc châu Á đang bị phát xít Nhật chiếm đóng, Hồng Quân huy động lực lượng 1,5 triệu người, có 26.000 đại bác và súng cối, gần 5.500 xe tăng và pháo tự hành và gần 4.000 máy bay chiến đấu đã triển khai 11 tập đoàn quân binh chủng hỗn hợp, 2 đội quân tác chiến, 1 tập đoàn quân xe tăng, 3 tập đoàn quân không quân, 4 quân đoàn không quân độc lập và các lực lượng của hạm đội Thái Bình Dương, đội tàu chiến trên sông A-mua, các đội Biên phòng. Tất cả các đơn vị tập trung tại Viễn Đông được chia thành 3 phương diện quân là: Ngoại Bai-can, Viến Đông1 và Viễn Đông 2. Các chiến sỹ quân đội Mông Cổ cùng các chiến sỹ yêu nước chống phát xít Nhật xâm lược tại các nước Trung Quốc, Triều tiên, Việt Nam và nhiều nước châu Á khác tích cực tham gia chiến đấu chống kẻ thù chung. Ngày 9-8-1945, quân đội Xô Viết tấn công Mãn Châu Lý, đổ bộ vào nam Xa-kha-lin và quần đảo Cu-rin, mặc dù vấp phải sự chống cự quyết liệt, tuyệt vọng của phát xít Nhật, song Hồng Quân đã đánh bại đội quân Quan Đông, bắt làm tù binh gần 600 tên (trong đó có 148 tướng tá) thu rất nhiều chiến lợi phẩm, giải phóng vùng đông-bắc Trung Quốc, bán đảo Liễu Đông, Nam Xa-kha-lin, quần đảo Cu-rin và Bắc Triều Tiên tới vĩ tuyến 38. Việc Hồng Quân đánh bại đội quân Quan Đông của phát xít Nhật có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, chính thủ tướng Nhật Xút-du-ki lúc đó phải thừa nhận đã đẩy Nhật Bản vào tình hình hoàn toàn không có lối thoát và do đó Nhật Bản không thể tiếp tục chiến tranh được nữa. Hoạt động chiến đấu có kết quả của Hồng Quân tại châu Á đã tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam và nhiều nước châu Á khác lúc đó bị Nhật chiếm đóng. Ngày 2-9-1945, trong khi bộ trưởng ngoại giao Nhật Ma-mo-rơ và tổng tham mưu trưởng quân đội Nhật I-o-xít-di-rô U-met-du ký giấy đầu hàng không điều kiện, tại Hà Nội- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt nam Dân chủ Cộng hoà. Ngày 12-10-1945, những người Pha- thét Lào cũng tuyên bố thành lập nước Lào tự do.
Thời gian đã qua đi 60 năm, nhiều biến thiên của lịch sử đã diễn ra trên thế giới này, song những tội ác của chủ nghĩa phát xít vẫn bị loài người tiến bộ lên án, chính vì vậy công lao vĩ đại của các chiến sỹ Hồng quân Xô Viết cứu loài người thoát khỏi thảm hoạ phát xít sẽ còn sống mãi mãi trong lòng nhân dân Thế giới.
TINH THẦN VỆ QUỐC VĨ ĐẠI
2.Ngày 9/5 :ngày kỉ niệm chiến thắng chủ nghĩa phát xít
Vị lãnh tụ vĩ đại Lênin
Chiến thắng chủ nghĩa phát-xít là một sự kiện lịch sử to lớn của thế kỷ 20, là chiến công chung của toàn thể nhân loại yêu tự do, của tất cả các lực lượng hoà bình dân chủ. Trong đó, quân đội và nhân dân Liên Xô là người đóng vai trò quyết định trong chiến thắng vĩ đại này. Thế nhưng, một số thế lực ở phương Tây thời gian qua đã xuyên tạc vai trò thực tế và những đóng góp mang tính quyết định của Liên Xô trong việc đánh thắng phát-xít Đức. Họ tìm cách thổi phồng tầm quan trọng của các hoạt động quân sự của các lực lượng vũ trang Mỹ và Anh trong cuộc chiến tranh thế giới thứ 2. Sự thật là vào thời điểm năm 1944, chỉ một mặt trận Xô - Đức đã lớn gấp bốn lần so với tất cả các mặt trận mà đồng minh Anh và Mỹ chiến đấu cộng lại. Tại mặt trận Xô - Đức, quân Đức đã tập trung 4,5 triệu quân và có 6,5 triệu quân Xô Viết chiến đấu. Và chỉ riêng ở mặt trận này, quân Đức đã mất 70% số quân và 75% tổng số các thiết bị quân sự mà chúng huy động trong cuộc chiến trang thế giới thứ hai. Trong khi tại mặt trận Tây Âu, Anh và Mỹ chỉ có 1,5 triệu quân và quân Đức có 650.000 quân. Với thắng lợi của Liên Xô tại mặt trận Xô - Đức, quân đội và nhân dân Xô Viết đã tiêu diệt được những lực lượng quân sự khổng lồ của bọn phát-xít xâm lược, làm thay đổi cục diện chiến tranh, góp phần thắng lợi cho các lực lượng chống phát-xít. Chiến công này không chỉ bảo vệ đất nước của quê hương Cách mạng Tháng Mười mà còn cứu cả thế giới khỏi ách nô dịch của bọn Hít-le. Để đạt được thắng lợi vĩ đại đó, nhân dân và quân đội Xô Viết đã phải chấp nhận những tổn thất, hy sinh to lớn nhất, 27 triệu người chết, 30 triệu người bị thương, hàng nghìn thành phố, thị trấn bị tàn phá, hàng chục nghìn làng xóm bị tiêu huỷ.
Một số lực lượng khác không phủ nhận thắng lợi và công lao to lớn của Liên Xô trong chiến thắng chủ nghĩa phát-xít Đức, nhưng lại coi thắng lợi đó là kết quả của những sai lầm về kế hoạch tác chiến của Hít-le, hoặc nhờ có viện trợ vũ khí, lương thực của Anh, Mỹ cho Liên Xô. Thực ra đó cũng chỉ là một cách phủ nhận và xuyên tạc vai trò của Liên Xô và các lực lượng hoà bình, dân chủ trong việc đánh tan chủ nghĩa phát-xít Đức. Sự thật là ý đồ của Hít-le, sau khi đã chiếm hầu hết các nước châu Âu, bất ngờ tiến công Liên Xô, nhằm nhanh chóng chiếm đóng nước này tạo đà bắt cả thế giới phải sống dưới ách của chủ nghĩa phát-xít. Thế nhưng, với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, Đảng Cộng sản, Chính phủ, quân đội và nhân dân Xô Viết đã quyết tâm thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng của mình là bảo vệ Tổ quốc và cứu nhân loại khỏi ách phát-xít. Chính quyết tâm cao cùng tình đoàn kết giữa các dân tộc trong đất nước Xô Viết, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Liên Xô và tài năng kiệt suất trong chỉ huy quân sự của đội ngũ các nhà quân sự Xô Viết là những nhân tố quyết định mang lại chiến thắng phát xít. Anh-Mỹ, với tư cách là những nước đồng minh trên mặt trận chống chủ nghĩa phát-xít Đức, có viện trợ vũ khí cho quân đội Xô Viết. Số viện trợ này lúc đó là rất cần thiết và quí giá trong khi Liên Xô gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Nhưng số vũ khí đó chỉ chiếm 4% lượng vũ khí do Liên Xô sản xuất. Số viện trợ này rất ít ỏi so với sự đóng góp của Liên Xô nhằm giảm bớt sự hy sinh, mất mát của các nước đồng minh trong chiến tranh và điều quan trọng là hồng quân Liên Xô đã chặn đứng quân đội phát-xít Đức, trước khi Liên Xô nhận được những chuyến hàng viện trợ từ Mỹ và Anh. Cho nên không phải ngẫu nhiên mà Thủ tướng Anh, thời kỳ đó là ông Churchill, trong thư gửi Stalin đã khẳng định rằng chính quân đội Liên Xô đã rút ruột bộ máy chiến tranh Đức.
Thậm chí thời gian gần đây, tại một số nước từng nằm trong Liên bang Xô viết trước đây lại công khai lên án chế độ Xô Viết, cho rằng, chiến thắng chủ nghĩa phát-xít Đức đối với họ không phải là một sự giải phóng, mà chỉ là sự thay thế một ách chiếm đóng khác, ám chỉ nhà nước Xô Viết cũ. Thế nhưng, họ đã cố tình quên rằng, nếu không có chiến thắng phát-xít thì tất cả các dân tộc châu Âu, kể cả họ, đã bị tiêu diệt bởi chế độ phát-xít tàn bạo. Cho nên, chính các nhà sử học của nhiều nước phương Tây đã nhận định rằng, không chỉ bảo vệ Tổ quốc mình, Liên Xô còn cứu cả châu Âu khỏi thảm hoạ phát-xít, khỏi nguy cơ bị tiêu diệt, theo đầy đủ các nghĩa của nó. Còn đương kim Tổng thống Mỹ Bush đã nói với Tổng thống Putin trong dịp kỷ niệm 60 năm quân đồng minh đổ bộ lên Noóc-măng-đi rằng, nếu không có nước Nga, sẽ chẳng có tự do và phồn vinh cho nhân loại ngày hôm nay.
Kỷ niệm ngày chiến thắng chủ nghĩa phát-xít không phải là dịp để tính toán công lao của các bên trong chiến thắng, mà là dịp để tưởng niệm những người con ưu tú của tất cả các dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đã ngã xuống để bảo vệ nhân loại khỏi chủ nghĩa phát-xít, để tôn vinh lòng quả cảm và sự hy sinh to lớn của nhân dân các nước, trong đó có Liên Xô trong cuộc chiến bảo vệ hoà bình cho nhân loại. Cùng với đó, là dịp để nhân loại tiến bộ khẳng định lại một lần nữa rằng, những sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng, đồng thời cảnh giác với chủ nghĩa phát-xít mới mà biểu hiện là sự tôn sùng tư tưởng Hít-le.
Và nhân loại vẫn phải tiếp tục chống lại các ác, chống lại mọi hình thức có thể dẫn đến một chủ nghĩa phát-xít mới./.
Các bài viết cùng chuyên mục:
- Hoc sinh gioi quoc gia lich su
- Hình ảnh về chiến tranh VIỆT NAM [1959-1973]
- 1975 Fall of Saigon - Những hình ảnh ít...
- Các bạn hãy lắng nghe tổ tiên ta kể lại
- Bác hồ đọc tuyên ngôn độc lập
- Đại tướng Võ Nguyên Giáp
- TS Lê Mạnh Thát và phát hiện lịch sử chấn...
- TS Lê Mạnh Thát và những phát hiện lịch sử...
- Sự tích Sơn Tinh-Thủy Tinh.(ý định đọc giải...
- Bạn Thích nhân vật lịch sử nào của Việt Nam
Đánh dấu