PDA

View Full Version : kinh tế đối ngoại 1



LENGOCSON
27-04-2008, 10:48 PM
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây là một quá trình vận động quan trọng mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và buộc Việt Nam phải đối mặt với những áp lực điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý với những thách thức to lớn và tất yếu.

Cả nền kinh tế, các ngành sản xuất, các doanh nghiệp và các loại hàng hoá và dịch vụ Việt Nam đều phải đương đầu với sức ép cạnh tranh cực kỳ gay gắt. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại Việt Nam, một lĩnh vực hết sức đa dạng, thường xuyên biến động và là động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hội nhập hiện nay, đang chịu những tác động trực tiếp và hết sức to lớn của quá trình này. Vấn đề là cần có những giải pháp thích hợp để tăng tính nghi, vừa phát triển nhanh lĩnh vực kinh tế đối ngoại Việt Nam theo phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phục vụ có hiệu quả công cuộc công nghiệp hoá, hiện đạihoá để đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá vào năm 2020.

1. Quan niệm về lĩnh vực kinh tế đối ngoại.

Kinh tế đối ngoại là lĩnh vực kinh tế thể hiện phần tham gia của nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới và là phần phụ thuộc về kinh tế giữa các quốc gia hay “phần giao” của những giao dịch kinh tế giữa các nước. Đây là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa một quốc gia với phần còn lại của thế giới dựa trên cơ sở sự phát triển phân công lao động quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ, di chuyển lao động quốc tế, các quan hệ tiền tệ và tín dụng quốc tế và các dịch vụ quốc tế khác. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại có thể được xem xét từ bản chất kinh tế của quan hệ và giao dịch, ý chí điều chỉnh của Chính phủ thông qua chính sách, cơ chế và các công cụ và đội ngũ nhân lực thực hiện các quan hệ.

Sự phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển và sự phát triển các quan hệ kinh tế trong nước tạo đà cho sự phát triển của lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Việc phát triển mạnh của lĩnh vực kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế đất nước trở thành một mắt khâu quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu và do đó, sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu làm tăng giá trị nền kinh tế. Động lực phát triển kinh tế toàn cầu, lúc đó, sẽ trở thành động lực tăng trưởng trực tiếp của nền kinh tế.

2. Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại Việt Nam

2.1.Hoạt động xuất nhập khẩu.

Hoạt động xuất-nhập khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh và tốc độ tăng trưởng trung bình (15-20%) cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân GDP (7-8) kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế (xem bảng). Điều đó thể hiện mức độ hội nhập của nền kinhtế Việt Nam ngày càng lớn vào nền kinh tế thế giới và khẳng định xu hường hội nhập thông thể đảo ngược của Việt Nam mà trước hết và trực tiếp là lĩnh vực xuất-nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam đạt con số kỷ lục là 32,44 tỷ USD vào năm 2005 và cũng trong năm này, kim ngạch nhập khẩu đạt 36,98 tỷ USD. Việt Nam đã có quan hệ thương mại với khoảng 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là yếu tố khẳng định sự thành công của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Bên cạnh những thành công đạt được, hoạt động xuất-nhập khẩu vẫn bộc lộ những hạn chế. Trước hết, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu còn lạc hậu, chủ yếu là các mặt hàng dễ sản xuất, hàm lượng giá trị tăng thêm thấp và là mặt hàng sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và lao động giản đơn như dầu khí, hàng nông sản nhiệt đới, hàng dệt may…Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn như hồ tiêu, gạo, cà phê…có khả năng chi phối đến giá cả thế giới nhưng thiếu cơ chế thực hiện. Nhiều thị trường đã được mở ra đối với hàng hoá xuất-nhập khẩu của Việt Nam bao gồm cả thị trường châu Á, châu Âu, châu Mỹ và gần đây đã phât trểin quan hệ với thị trường châu Phi là thị trường có rất nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, một trong những khía cạnh quan trọng trong hoạt động xuất khẩu Việt Nam là tỷ trọng xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài khá lớn. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này đạt con số 18,5 tỷ USD chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Hơn nữa, 75% kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là các mặt hàng đã qua chế biến và chế biến sâu, hàm lượng giá trị tăng cao và khả năng cạnh tranh cao. Đồng thời, số liệu còn cho thấy mối quan hệ khá chặt chẽ giữa việc thu hút đầu tư nước ngoài với việc đẩy mạnh xuất khẩu ở Việt Nam hay kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào kết quả thu hút đầu tư nước ngoài.

Do tỷ trọng quá cao của khu vực đầu tư nước ngoài trong tổng kim ngạch xấut khẩu cả nước cho nên có thể đánh giá khả năng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước khá hạn chế. Các mặt hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu là các mặt hàng có giá trị gia tăng thấp mà thực chất là bán rẻ tài nguyên và lao động. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn gặp khá nhiều hạn chế về thông tin thị trường nước ngoài, kỹ năng đàm phán và chưa thật quen thuộc với những thông lệ quốc tế cho nên phải chịu những thua thiệt khi bị kiện (vụ kiện bán phá giá cá basa Việt Nam trên thị trường Mỹ và vụ kiện bán phá giá giày mũ da trên thị trường Liên minh châu Âu) hoặc chịu nhiều thiệt hạido gặp rủi ro khác. Sự hỗ tợ của nhà nước thời gian qua đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó khăn khi sự hỗ tợ này bị loại bỏ theo nguyên tắc WTO.

Về xuất khẩu, có mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là xăng dầu, sắt thép, các loại nguyên liệu phục vụ sản xấut và hàng tiêu dùng…Kim ngacgh nhập khẩu của Việt Nam ngày càng tăng thể hiện Việt Nam là thị trường tiêu thụ lớn hàng hoá các nước. Khi giá cả những mặt hàng nhậpkhẩu này biến động trên thị trường thế giới dẫn đến tình trạng biến động giá cả của hàng loạt các hàng hoá khác được sản xuất trong nước dựa vào nguyên liệu nhập khẩu và tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Kim ngạch nhập khẩu cao là yếu tố mà Việt Nam có thể khai thác để cải thiện vị thế đàm phán của mình. Đây cũng là lý do mà các nước gây áp lực lớn buộc Việt Nam phải mở cửa lớn thị trường. Các số liệu ở bảng 1 còn cho thấy cán cân thương mại Việt Nam thường xuyên thâm hụt và đây là hiện tượng thường gặp đối với các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá cần nhậpkhẩu nhiều máy móc, thiết bị trong khi khả năng xuất khẩu hạn chế và điều kiện thương mại bất lợi (giá nhập khẩu cao và giá xuất khẩu thấp). Vấn đề là mức thâm hụt này, tuy vậy vẫn chưa dẫn đến việc điều chỉnh cơ bản tỷ giá hay phải có những thay đổi quan trọng khác trong chính sách kinh tế. Khi gia nhập WTO, việc giảm thuế nhậpkhẩu là cơ hội để Việt Nam nhập khẩu các hàng hoá rẻ ở các nước.

Các hoạt động xuất khẩu và nhậpkhẩu dịch vụ của Việt Nam vẫn chưa tướng xứng với tiềm năng của nền kinhtế mặc dù xu hướng chung là thương mại dịch vụ tăng mạnh.

2.2 .Hoạt động đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ.

Sau gần 20 năm mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã thu hút được một lượng vốn đầu tư đăng ký 51 tỷ USD và vốn đầu tư thựchiện khoảng 28 tỷ USD. Đối tác đầu tư khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có mặt tại Việt Nam. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mà đặc biệt là đầu tư trực tiếp có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây (xem bảng 1) do thực hiện những cải thiện quan trọng của môi trường đầu tư trong nước đã làm tăng mức hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài đặc biệt là việc loại bỏ dần các rào cản trong đầu tư như cam kết có liên quan đến Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs), Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt-Nhật, mở cửa thị trường, sự thay đổi trong chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư nướcn goài và những thay đổi trong quan hệ quốc tế trong khu vực…Bên cạnh đó, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định tránh đánh thuế trùng, hiệp định bảo hộ đầu tư với nhiều quốc gia đối tác quan trọng trong đầu tư của Việt Nam…Các hoạt động đầu tư nước ngoài đang dần dần có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và là khu vực đi tiên phong trong cạnh tranh quốc tế so với các lĩnh vực khác của kinh tế đối ngoại. Khả năng gia tăng của dòng vốn đầu tư trực tiếp này còn rất lớn trong thời gian tới vì những cơ hội thị trường đầu tư của Việt Nam còn rất lớn, nhiều hình thức đầu tư mới đã được pháp luật Việt Nam cho phép vận hành sáp nhập và mua lại (M & A), đầu tư gián tiếp, cho phép việc mua cổ phần, việc mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản, mạng lưới phân phối. Các phương thức tổ chức đầu tư như thành lập khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, thành phố mở cửa, khu công nghệ cao đang góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Một số công ty xuyên quốc gia và chi nhánh của chúng đã xuất hiện ở Việt Nam. Điều đặc biệt là Việt Nam đã có các quy định pháp luật rõ ràng về đầu tư nước ngoài- dấu hiệu khẳng định sự trưởng thành của các doanh nghiệp Việt Nam. Việt Nam đã tiếp nhận đáng kể nguồn vốn đầu tư, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các nhà đầu tư nước ngoài, phục vụ trực tiếp cho quá trình đổi mới kinh tế, giải quyết gần 1 triệu việc làm trực tiếp và thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, các nhà đàu tư lớn nhất vào Việt Nam chủ yếu đến từ các nước châu Á (Đài Loan, Xingapore và Nhật Bản là 3 nước đứng đầu về lượng vốn đầu tư vào Việt Nam) không phải là những nhà đầu tư có công nghệ nguồn và điều này cùng với việc các công ty xuyên quốc gia hạn chế chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là yếu tốt cản trở lớn khả năng đuổi kịp về công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam.

Pháp luật bảo vệc quyền sở hữu công nghiệp được hoàn thiện dần, nhiều hình thức chuyển giao công nghệ đã được áp dụng và có xu hướng thúc đẩy sự phát triển của thị trường công nghệ Việt Nam. Hình thức cấp giấy phép, nhượng quyền thương mại, đấu thầu quốc tế, các hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm và dịchvụ đang có xu hướng phát triển mạnh. Hoạt động chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được thực hiện. Các công nghệ lắp ráp, sửa chữa ô tô, xe máy,các sản phẩm cơ khí, điện tử…đang được chuyển giao sang phía Việt Nam. Tuy nhiên, có thể thấy đây là những công nghệ đơn giản, Việt Nam vẫn thiếu công nghệ nguồn và bí quyết công nghệ là yếu tố kiến tạo thế mạnh cốt lõi và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. Việc phát triển doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài làm giảm khả năng học hỏi và tiếp nhận bí quyết công nghệ. Tình trạng vi phạm bản quyền, nạn hàng giả, buôn lậu…cũng là yếu tố cản trở khá lớn hoạt động chuyển giao công nghệ..

Kinh tế đối ngoại chủ yếu bao gồm các hoạt động ngoại thương (xuất – nhập khẩu), hợp tác quốc tế về đầu tư và lao động, du lịch quốc tế và các dịch vụ thu ngoại tệ khác.

Ngày nay, kinh tế đối ngoại có vai trò đặc biệt trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của nước ta phụ thuộc một phần vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế đối ngoại.

1. Từ sau năm 1988, hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta dần dần được đổi mới

a) Hoạt động xuất – nhập khẩu gần đây có nhiều biến động do hoàn cảnh mới của tình hình quốc tế.

Trước đây, thị trường chủ yếu là Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Hiện nay, thị trường buôn bán ngày càng mở rộng theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Các bạn hàng lớn hiện nay là Xingapo, Nhật Bản, Hồng Công, Hàn Quốc…

Trong hoạt động xuất – nhập khẩu có những đổi mới về cơ chế quản lí. Đó là việc mở rộng quyền hoạt động kinh tế đối ngoại cho các ngành và các địa phương; xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung bao cấp và chuyển sang hạch toán kinh doanh; tăng cường sự quản lý thống nhất của Nhà nước bằng luật pháp. Vì vậy, hoạt động xuất nhập khẩu phát triển mạnh.

b) Việc hợp tác và đầu tư nước ngoài vào nước ta mới thật sự bắt đầu từ năm 1988

Tính đến hết năm 1999 đã có hơn 2800 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn trên 37,1 tỉ USD. Đó là kết quả khả quan trong những năm đầu thực hiện luật đầu tư.

c) Việc hợp tác quốc tế về lao động góp phần giải quyết vấn đề về việc làm, về đào tạo, nâng cao tay nghề cho hàng chục vạn người lao động và tăng nguồn ngoại tệ cho Nhà nước. Hoạt động du lịch quốc tế và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tuy có phát triển, nhưng phần lớn còn đang ở dạng tiềm năng.

2. Tuy nhiên, các hoạt động kinh tế đối ngoại vẫn còn có những tồn tại đáng kể

Trong một thời gian dài, giữa xuất và nhập khẩu có sự mất cân đối nghiêm trọng. Hàng nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất (80%), còn hàng xuất khẩu lại là các sản phẩm thô mới qua sơ chế (khoáng sản, nông – lâm - thuỷ sản). Các hoạt động khác còn bị hạn chế, hiệu quả chưa cao.

3. Trong điều kiện nền kinh tế mở, chiến lược kinh tế đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh tế - xã hội của đất nước

Về tiềm năng, nước ta có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại. Một số loại khoáng sản, nhất là dầu khí, đang thu hút sự chú ý của nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Các sản phẩm của nền nông nghiệp nhiệt đới, của ngành nuôi trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản và của một số ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có thể phát triển với quy mô lớn nhằm tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu. Tài nguyên thiên nhiên kết hợp với nguồn nhân lực, kinh tế, kỹ thuật ở trong và ngoài nước là những nguồn lực quan trọng để thực hiện chiến lược kinh tế đối ngoại.

Việc mở rộng xuất khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác trong thương mại sẽ trở thành mũi nhọn thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đối với vấn đề này, việc tạo nên các mặt hàng chủ lực và các thị trường trọng điểm có ý nghĩa hàng đầu.

Việc thực hiện có kết quả các chiến lược kinh tế đối ngoại còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nữa như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, vào hệ thống luật pháp, đội ngũ cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lí hiện làm công việc này.

Tuân_se7en
27-04-2008, 10:51 PM
Dài wa ông anh ơi em không đọc đc vì đọc xong mắt em sẽ đau mỏi mất:pudency::pudency:

LENGOCSON
27-04-2008, 10:55 PM
Nguồn http://ftu-forum.net/forums/showthread.php?t=7599
Năm 2007 đã trôi qua được nửa thời gian, Việt Nam đã là thành viên của WTO cũng chừng ấy thời gian, các nhà hoạch định chính sách thực hiện được những bước điều chỉnh, cải cách chính sách mới, theo hướng tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của WTO. Nửa đầu của năm 2007, đặc biệt là các chính sách về thuế đều có những chuyển động mạnh mẽ.

Cắt giảm thuế, giảm chi phí cho hoạt động xuất, nhập khẩu

Có tới 1.812 dòng thuế (trong biểu thuế nhập khẩu) được cắt giảm từ ngày 11/1/2007, với mức cắt giảm bình quân 44%, so với trước. Đến tháng 8, Chính phủ sẽ trình Quốc hội biểu khung thuế xuất khẩu, biểu khung thuế nhập khẩu ưu đãi để Quốc hội thông qua Nghị quyết về vấn đề này.

Thực hiện nguyên tắc minh bạch hoá, chúng ta đã chuyển sang sử dụng phương pháp quản lý rủi ro đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu, với việc áp dụng trị giá hải quan dùng làm căn cứ tính thuế. 2 năm qua, chúng ta đã bãi bỏ hoàn toàn việc áp đặt bảng giá tối thiểu, chuyển sang chế độ kiểm tra sau thông quan; doanh nghiệp tự tính, tự nộp thuế nhập khẩu. Đầu năm 2007, Chính phủ tiếp tục sửa đổi một số nội dung quan trọng của Nghị định 155/2005.

Nghị định bổ sung các quy định về quyền của các nhà nhập khẩu - được tự chứng minh rằng, tuy họ có mối quan hệ đặc biệt đối với nhà xuất khẩu (nước ngoài), nhưng không ảnh hưởng tới trị giá giao dịch. Nhà nhập khẩu được loại trừ ra khỏi trị giá tính thuế một số khoản, nếu đã được tính trong giá mua hàng nhập khẩu (chi phí liên quan đến các hoạt động do người mua thực hiện vì mục đích của người mua, như: quảng cáo, tiếp thị... hoặc khoản lãi suất theo thỏa thuận tài chính của người mua có liên quan đến việc mua hàng hóa nhập khẩu).

Trong trường hợp có lý do nghi ngờ (về giá khai báo) và cần tiếp tục kiểm tra một giao dịch nhập khẩu, cơ quan Hải quan chấp nhận yêu cầu của người khai hải quan, về thực hiện khoản bảo đảm để trả khoản thuế phát sinh (khi có kết quả kiểm tra sau), đồng thời tính thuế trên giá trị khai báo, để việc thông quan hàng hóa được thuận lợi. Quy định này cũng được áp dụng trong trường hợp cần thiết phải trì hoãn việc xác định trị giá tính thuế của hàng hóa, nhưng người khai hải quan vẫn được quyền nhận hàng, đưa ra khỏi phạm vi quản lấ của hải quan.

Đối với trường hợp xác định trị giá tính thuế theo trị giá tính toán, cơ quan Hải quan không được tiến hành các hoạt động kiểm tra ngoài nước nhập khẩu, trừ khi được sự đồng ấ của nhà sản xuất và được sự hỗ trợ của cơ quan có thẩm quyền, ở nước cần tiến hành kiểm tra.

Về phí, lệ phí hải quan đã được Bộ Tài chính sửa đổi căn bản (bãi bỏ nhiều loại phí; tính lại mức phí phù hợp với quy định của của WTO), giảm bớt nhiều thủ tục, tạo thuận lợi cho DN, giảm chi phí...

Thuế nội địa - Tiệm cận các chuẩn mực công bằng, bình đẳng, minh bạch

Các chuyên gia thuế của Bộ Tài chính cho biết, 2 sắc thuế gián thu quan trọng là thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đã được sửa đổi, bổ sung, đảm bảo không vi phạm các nguyên tắc và quy định của WTO. Tuy nhiên, Bộ Tài chính vẫn có những sửa đổi văn bản hướng dẫn dưới luật (trước mắt là Thông tư 32/2007/TT- BTC ngày 9/4/2007 hướng dẫn về thuế GTGT). Những sửa đổi này nhằm bảo đảm sự rõ ràng, minh bạch hơn, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người nộp thuế và giải quyết một cách khá triệt để những vướng mắc cụ thể mà thực tiễn đặt ra.

Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2007/NĐ - CP, ngày 14/2/2007 (thay thế Nghị định 164/2003 và 152/2004), hướng dẫn thi hành chi tiết Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN), áp dụng cho năm tính thuế 2007 trở đi. Theo các chuyên gia, những thay đổi này nhằm tạo thuận lợi tối đa cho DN, khuyến khích đầu tư, đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, hấp dẫn, tương thích và đồng bộ với những cam kết gia nhập WTO.

Những hướng dẫn mới về thuế TNDN giảm nhẹ điều kiện ưu đãi thuế. Theo chuyên gia Bộ Tài chính, trước đây, việc ưu đãi thuế TNDN theo pháp luật về đầu tư cần phải có 3 điều kiện (về ngành nghề, địa bàn và số lượng lao động sử dụng bình quân trong năm). Theo hướng dẫn mới, quy định bỏ điều kiện về số lượng lao động, để tạo thuận lợi cho DN dễ dàng đạt được ưu đãi, nhất là DN nhỏ và vừa, khi họ đầu tư vào lĩnh vực hoặc địa bàn cần thu hút. Những DN sử dụng trên 500 lao động thì được hưởng ưu đãi theo tiêu chuẩn lĩnh vực khuyến khích đầu tư. Dự án sử dụng lao động nhiều hơn (từ 5.000 người trở lên) sẽ được hưởng ưu đãi theo tiêu chuẩn lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư. Các quy định mới cũng đã bổ sung thêm những trường hợp đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu vào danh mục hưởng ưu đãi thuế.

Nghị định mới sử dụng các khái niệm danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi đầu tư, danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư, danh mục địa bàn có điều kiện (kinh tế xã hội) khó khăn và danh mục địa bàn có điều kiện đặc biệt khó khăn, thay cho các danh mục A, B, C; đồng thời thống nhất sử dụng các danh mục này khi xác định các ưu đãi thuế khác. Các sửa đổi làm tăng tính hấp dẫn, tính khả thi của các mức ưu đãi thuế. Theo đó, ưu đãi cho dự án thành lập mới cơ sở kinh doanh tại địa bàn có điều kiện đặc biệt khó khăn được nâng lên bằng với mức ưu đãi mà dự án đầu tư vào lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư đang được hưởng và áp dụng thống nhất với cá loại hình DN, không phân biệt DN trong nước, nước ngoài. Các chuyên gia này cho rằng, thực tế 10 năm qua, các dự án đầu tư vào vùng đặc biệt khó khăn chủ yếu là do các DN trong nước. Sửa theo hướng này sẽ có tác động mạnh đến thu hút đầu tư vào các vùng, miền cần định hướng phát triển, vừa tạo thêm cơ hội hỗ trợ cho các DN trong nước một cách hợp pháp.

Việc ưu đãi thuế đối với các khu công nghiệp, khu kinh tế và các trường hợp đặc biệt khuyến khích đầu tư vẫn được ưu đãi như trước, nhưng cách làm sẽ được minh bạch hơn. Những trường hợp này được đưa ngay vào danh mục ưu đãi đương nhiên, như các DN đáp ứng điều kiện về lĩnh vực và địa bàn ưu đãi đầu tư. Các trường hợp thật đặc biệt, vẫn được áp dụng như cũ.

Các vấn đề ưu đãi của Luật thuế TNDN liên quan đến hoạt động xuất khẩu, trái với quy định của WTO cũng được bãi bỏ và sắp xếp lại cho phù hợp. Các khoản ưu đãi mang tính chất trợ cấp xuất khẩu (ưu đãi bổ sung về thuế TNDN gắn với thành tích xuất khẩu, hoặc khuyến khích sử dụng trong nước...) đều được bãi bỏ. Nghị định quy định cụ thể việc bảo lưu trong thời hạn 5 năm, đối với các DN chế xuất đang hưởng ưu đãi thuế gắn với điều kiện xuất khẩu (trừ dệt may); đồng thời chuyển những dự án thuộc diện này sang áp dụng ưu đãi thuế theo tiêu chuẩn ưu đãi về lĩnh vực, địa bàn.

Một số vấn đề khác (ví dụ các khoản chi phí hợp lý được phép trừ, khi xác định doanh thu chịu thuế, theo hướng tiếp cận chuẩn mực quốc tế) sẽ được thông tư hướng dẫn Nghị định này, quy định một cách cụ thể hơn. Các khoản phí, lệ phí nội địa cũng đã được sửa đổi cơ bản. Cũng theo kế hoạch, trong năm 2007, các dự án Luật về thuế đã, đang và sẽ tiếp tục được khởi động nghiên cứu, trình Quốc hội như: Luật thuế Thu nhập cá nhân; Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp, Pháp lệnh thuế nhà đất; nguyên cứu về thuế tài sản; Luật phí và lệ phí

LENGOCSON
27-04-2008, 11:03 PM
Nguồn http://ftu-forum.net/forums/showthread.php?t=7422
“Việt Nam đang là hiện tượng mới"

Ông Trần Tuấn Anh, Tổng lãnh sự Việt Nam tại Francisco (Mỹ) nói về triển vọng quan hệ kinh tế Việt - Mỹ trong thời gian tới.

Thưa ông, hiện giới đầu tư Mỹ đánh giá như thế nào về môi trường đầu tư ở Việt Nam, đặc biệt là những cơ hội làm ăn với Việt Nam?

Điều rõ ràng cho thấy nước ta là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã không chỉ mở ra cho thương nhân Việt Nam mà cả các doanh nghiệp của nước ngoài nói chung và nước Mỹ nói riêng những cơ hội rất lớn. Đúng như Tổng thống Bush từng nói: “Nếu tôi còn trẻ mà mong muốn kiếm tiền thì Việt Nam sẽ là nơi tôi đến để kinh doanh”. Đây cũng là nhận định chung của doanh nhân người Mỹ và doanh nhân người Mỹ gốc Việt.

Tôi nhận thấy rằng các doanh nghiệp Mỹ rất quan tâm đến Việt Nam. Việt Nam là hiện tượng mới của người dân sở tại.

Ông có thể nói cụ thể hơn là các doanh nhân và nhà đầu tư Mỹ quan tâm những vấn đề gì?

Họ rất muốn tìm hiểu những chính sách và cơ hội cụ thể ở Việt Nam; đặc biệt là sau khi chúng ta vào WTO và PNTR được thông qua.

Những thông tin cụ thể thì các nhà đầu tư Mỹ có thể tìm được nhiều nguồn, tuy nhiên họ cũng muốn có những thông tin chính thức của chúng ta thông qua quan hệ của Đại sứ quán. Hơn nữa, các doanh nghiệp và nhà đầu tư Mỹ cần một sự tích cực từ phía các cơ quan công quyền của chúng ta và có sự hỗ trợ cụ thể cho họ.

Hiện nay chúng ta đã thực hiện Hiệp định Thương mại Song phương Việt - Mỹ (BTA) được 6 năm. Theo ông, chúng ta rút ra những kinh nghiệm, bài học gì từ việc thực hiện hiệp định này cho các doanh nghiệp làm ăn với Mỹ và xa hơn là thúc đẩy hơn nữa quá trình hội nhập?

Tôi nghĩ rằng việc chúng ta đã có BTA với Mỹ trong thời gian trước khi chúng ta vào WTO, đó là kinh nghiệm thực tiễn rất tốt cho chúng ta trong việc tìm hiểu và thực hiện luật chơi chung và những yêu cầu pháp lý quốc tế. Thực tế trong thời gian qua, nhờ có BTA, chúng ta đã có sự tăng trưởng rất tích cực và nhanh chóng trong thương mại Việt - Mỹ và đặc biệt trong khai thác tiềm năng xuất khẩu của chúng ta sang thị trường Mỹ.

Nhưng tôi không chỉ muốn nói đến quan hệ một chiều về xuất khẩu của chúng ta sang thị trường Mỹ mà tôi muốn nhấn mạnh đến sự tăng trưởng sẽ có tính bền vững hơn về quan hệ thương mại Việt - Mỹ cũng như quan hệ kinh tế nói chung giữa hai nước trong thời gian tới. Từ BTA, chúng ta rút ra được một kinh nghiệm là, trước tiên các doanh nghiệp và các thực thể của nền kinh tế nước ta phải tự tìm hiểu và ý thức được tất cả những cơ hội và thách thức đặt ra cho chúng ta.

Tất nhiên trong quá trình này, các doanh nghiệp Việt Nam không thể tự làm, họ cần có sự hỗ trợ của khu vực công, tức là của cơ quan công quyền trong việc hướng dẫn để cung cấp thông tin, tạo sự hiểu biết sâu rộng trong toàn thể xã hội cũng như trong cộng đồng doanh nghiệp, cũng như có những thông tin định hướng, sự hỗ trợ cần thiết cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận khai thác tiềm năng thuận lợi ở thị trường đó.

Ông đã ở Mỹ một thời gian khá dài, vậy ông đánh giá thế nào về tiềm năng của thị trường Mỹ?

Thị trường Mỹ được xác định là một thị trường chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Tôi cho rằng thị trường Mỹ có tiềm năng rất lớn và không thể thiếu được, đáp ứng nhu cầu của chúng ta về nguồn vốn cho các nhu cầu xây dựng và phát triển.

Thứ hai, thị trường Mỹ là một nguồn có thể nói là tiềm năng lớn bởi đây là thị trường có công nghệ nguồn, công nghệ hàng đầu thế giới như: công nghệ nano, công nghệ về sinh dược, công nghệ về sinh học, công nghệ cao về thông tin, công nghệ cao về y tế... đều xuất phát tại thị trường Mỹ và phát triển nhanh và mạnh.

Thứ ba, thị trường Mỹ cũng là địa bàn chiến lược của chúng ta về mặt thị trường, bởi sự tăng trưởng nhanh chóng của những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này. Đây cũng là thị trường có tiềm năng rất lớn giúp chúng ta về đào tạo nhân lực và phát triển về khoa học giáo dục.

Không những thế, tăng trưởng du lịch, không chỉ về số lượng mà còn cả về chất lượng của khách du lịch tại thị trường này cho chúng ta thấy rằng du lịch Việt Nam sẽ cần đến thị trường này như một thị trường cơ bản, để tạo đà cho sự phát triển một sự tăng tốc đối với du lịch Việt Nam.

Cuối cùng, tôi muốn nhấn đến vai trò của cộng đồng người Việt trong các mối quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ trong mối quan hệ song phương, cả về chính trị, văn hoá, xã hội...

Tổng lãnh sự Việt Nam tại Francisco (Mỹ) có thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước như thế nào để các doanh nghiệp Việt Nam có thể dễ dàng hợp tác với các đối tác Mỹ, doanh nghiệp Mỹ?

Chúng tôi đã chuẩn bị một số chương trình hỗ trợ các ngành, doanh nghiệp trong nước, cũng như các đối tác, doanh nghiệp Mỹ muốn làm ăn ở Việt Nam.

Trước mắt, chúng tôi sẽ phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp, những thông tin manh tính định hướng và cả những thông tin cụ thể để thông qua VCCI các doanh nghiệp Mỹ và doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với nhau.

Thứ hai là chúng tôi đang tìm kiếm các kênh quan hệ từ cộng đồng doanh nghiệp là Việt kiều Mỹ; tổ chức tập hợp các doanh nghiệp này lại thành hiệp hội, ví dụ như hiệp hội các nhà đầu tư người Mỹ gốc Việt...

LENGOCSON
27-04-2008, 11:41 PM
xin lỗi bạn đừng chửi bậy tạo diễn đàn của chúng tôi.
Tôi đúng là kô biết gì về kinh tế nên mới phải học.
Nếu kô có lòng thì cũng đừng chửi tôi thậm tệ đến vậy.
Bạn đến từ 1 trường ở Yên Thủy.Sao người Yên Thủy lại có những kẻ vô học như bạn cơ chứ.Đúng là ...Hiệp gà ơi vào mà xem đồng hương mày nói lời hay ý đẹp này;))

Tuân_se7en
27-04-2008, 11:43 PM
oài ăn nói ngông cuồng wa không thể chấp nhận đc:choler::choler:

hiep_nth401
28-04-2008, 12:19 AM
xin lỗi bạn đừng chửi bậy tạo diễn đàn của chúng tôi.
Tôi đúng là kô biết gì về kinh tế nên mới phải học.
Nếu kô có lòng thì cũng đừng chửi tôi thậm tệ đến vậy.
Bạn đến từ 1 trường ở Yên Thủy.Sao người Yên Thủy lại có những kẻ vô học như bạn cơ chứ.Đúng là ...Hiệp gà ơi vào mà xem đồng hương mày nói lời hay ý đẹp này;))

Chuyện là thế này,trc đây 30p có 1 thằng nó vừa lên đây nói bậy và chửi nhà doanh nghiệp tương lai.

Thưa toàn thể đồng bào trong cả HVT thân mến.Hôm nay tôi xin thành thật xin lỗi với toàn thể mọi người vì hành vi chởi bậy của 1 thằng ất ơ nào đó đến từ Yên Thủy.(mày dại lắm ko quote bài nó vào,chắc chắn người đọc sẽ chả hiểu gì )
Tôi nhận thấy rằng thằng kia chắc ko phải dân YT,và nếu có học YT thật thì chắc là nó là dân ngụ cư ;))
Dân gốc YT là những con người rất lịch sự,đáng kính và đã tạo nên 1 chút gì đó thương hiệu trên trường quốc tế(chú cứ hỏi các em lớp 11 hay 12 chắc phải tới trên 30-40% biết tới anh đức toán 0407 chẳng hạn)
:still_dreaming: 1 ví dụ hoành tráng nữa mà đơn giản là bác M.COM admin thân mến nhà ta là made in Yenthuy đấy chứ.

Yên thủy,1 cái tên thật tự hào:big_smile:

Vip_ha_thanh
28-04-2008, 03:43 PM
kinh tế đối ngoại.............
cũng hay hay.....................
nhưng không chất lượng bằng hvnh..........của tui hehehehe..................
:big_smile:

LENGOCSON
28-04-2008, 08:34 PM
kinh tế đối ngoại.............
cũng hay hay.....................
nhưng không chất lượng bằng hvnh..........của tui hehehehe..................
:big_smile:
Hoan hô 1 anh em học khối Kinh tế.
Mong người anh em giúp chúng tôi phát triển cái box tưởng chừng như buồn chán này nhá:D

minhsphuc12
28-04-2008, 09:14 PM
Anh Sơn ơi , dẫn vài link về kinh tế đối ngoại lên đi .
Dân FTU có khác , PR cũng vô đối :haha:

hiep_nth401
28-04-2008, 11:50 PM
kinh tế đối ngoại.............
cũng hay hay.....................
nhưng không chất lượng bằng hvnh..........của tui hehehehe..................
:big_smile:

Cái này....... =))
cái này .......=))
tinh thần lạc quan và tự sướng rất cao.
Ah mà cũng đúng,đây công nhận là bên NH nhiều em xinh hơn bên NT(chất lượng ở chỗ đấy đấy),nhưng thử hỏi số thằng tận bên BK lận lội sang xem "duyên dáng ngân hàng" có bằng nửa số thằng xem "duyên dáng NT" ko ;)) đấy là NT còn xa BK đấy.và SL gái NH gần gấp đôi gái NT đấy.

Chú Phúc không cần hỏi nhiều,cứ nhìn vào những thành phần hoành tráng (như hà đực đại ca) hay đơn cử như anh Tuấn BÚC (tuấn sách) là chú đủ hiểu rồi chứ.Toàn nguyên khí quốc gia cả đấy nhể.


kí tên: Hiệp SUPER BILLION:boss:

LENGOCSON
29-04-2008, 03:32 AM
Cái này....... =))
cái này .......=))
tinh thần lạc quan và tự sướng rất cao.
Ah mà cũng đúng,đây công nhận là bên NH nhiều em xinh hơn bên NT(chất lượng ở chỗ đấy đấy),nhưng thử hỏi số thằng tận bên BK lận lội sang xem "duyên dáng ngân hàng" có bằng nửa số thằng xem "duyên dáng NT" ko ;)) đấy là NT còn xa BK đấy.và SL gái NH gần gấp đôi gái NT đấy.:
Thằng này có "chỉ số AQ" quá cao quá cao:))
Mày kém bạn 1 lời thì kô chịu đc àh.Marketer như "Shit" ấy hô hô...
Kệ đi,sông có khúc người có lúc chứ,làm sao mà toàn diện đc chứ


Chú Phúc không cần hỏi nhiều,cứ nhìn vào những thành phần hoành tráng (như hà đực đại ca) hay đơn cử như anh Tuấn BÚC (tuấn sách) là chú đủ hiểu rồi chứ.Toàn nguyên khí quốc gia cả đấy nhể.
kí tên: Hiệp SUPER BILLION:boss:
Chú Phúc đâu có đề nghị đến 3 cái chuyện đôi có "trường anh trường tôi" đâu mờ.Chú ấy quan tâm tới cái nội dung tao mang tới thôi.Đùng là......=))=))

Vip_ha_thanh
29-04-2008, 09:49 AM
Cái này....... =))
cái này .......=))
tinh thần lạc quan và tự sướng rất cao.
Ah mà cũng đúng,đây công nhận là bên NH nhiều em xinh hơn bên NT(chất lượng ở chỗ đấy đấy),nhưng thử hỏi số thằng tận bên BK lận lội sang xem "duyên dáng ngân hàng" có bằng nửa số thằng xem "duyên dáng NT" ko ;)) đấy là NT còn xa BK đấy.và SL gái NH gần gấp đôi gái NT đấy.

Chú Phúc không cần hỏi nhiều,cứ nhìn vào những thành phần hoành tráng (như hà đực đại ca) hay đơn cử như anh Tuấn BÚC (tuấn sách) là chú đủ hiểu rồi chứ.Toàn nguyên khí quốc gia cả đấy nhể.


kí tên: Hiệp SUPER BILLION:boss:


nhưng anh nói cho chú em bít...............
gái NT thì chết gục trước con trai NH thì vô số.............
nhưng trai NH thì chẳng thèm...........
anh mày đã từng wa đó chơi..........
vì cậu của anh là giảng viên ở đó.................
gái NT có tiếng nhưng trai NT thì chẳng có tiếng thơm gì cả mà chỉ có tiếng xấu thoai..................:big_smile:
trai NT tuổi gì...............

shinicom
29-04-2008, 09:54 AM
Cái này....... =))
cái này .......=))
tinh thần lạc quan và tự sướng rất cao.
Ah mà cũng đúng,đây công nhận là bên NH nhiều em xinh hơn bên NT(chất lượng ở chỗ đấy đấy),nhưng thử hỏi số thằng tận bên BK lận lội sang xem "duyên dáng ngân hàng" có bằng nửa số thằng xem "duyên dáng NT" ko ;)) đấy là NT còn xa BK đấy.và SL gái NH gần gấp đôi gái NT đấy.

Chú Phúc không cần hỏi nhiều,cứ nhìn vào những thành phần hoành tráng (như hà đực đại ca) hay đơn cử như anh Tuấn BÚC (tuấn sách) là chú đủ hiểu rồi chứ.Toàn nguyên khí quốc gia cả đấy nhể.


kí tên: Hiệp SUPER BILLION:boss:


Dạ, tinh thần lạc quan và tự sướng của bạn cũng rất cao , cao chả kém bạn ấy đâu :choler::choler::choler:

hiep_nth401
07-06-2008, 06:41 PM
Dạ, tinh thần lạc quan và tự sướng của bạn cũng rất cao , cao chả kém bạn ấy đâu :choler::choler::choler:

Tinh thần là 1 phần của kiến trúc thượng tầng,nó được sinh ra bởi kiến trúc thượng tầng và có quan hệ biện chứng sâu sắc với nó.(hiểu được thì ta nói chuyện tiếp ;)) )
Và tinh thần tồn tại 1 cách vững chắc khi nó có 1 cơ sở hạ tầng vững chắc.MÌnh nghĩ rằng niềm tin của mình vững chắc đấy.

@sơn :Lớp trẻ hiện nay còn rất nhiều thành phần không nhận thức được thế giới khách quan mày ạ.=))

winterleaf
09-06-2008, 10:59 AM
Hoan hô 1 anh em học khối Kinh tế.
Mong người anh em giúp chúng tôi phát triển cái box tưởng chừng như buồn chán này nhá:D
ơ buồn chán j tự nhiên sáng nay dậy lại có hứng với chuyên mục này, vào tán fét tí nhiu cái bổ ích đấy chứ ^^

LENGOCSON
09-06-2008, 02:22 PM
Tự nhiên cái ngành của mình bị mọi người vào làm lung tung beng lên
Có người đọc là hay rùi.Nên mình biết tại sao SV KT Ngoại Thương lại có giá vì họ phải đọc mấy cái người ta tưởng ngu ngu:)):))
Khi mới vào trường,Tớ chả biết vì sao SV khoa mình có thể chõ mũi vào đủ loại từ Xuất nhập khẩu...tài chính ngân hành rùi thương mại điện tử :))
Sau 1 năm đã rút ra là vì chúng tớ mỗi thứ biết 1 tí và ra trường nơi nào mà có lẫm lỡ tuyển SV Ngoại Thương thì vui lòng đi mà đào tạo lại:))Nói đúng chứ anh em FTU chả được cái nước gì ngoài cái nhiệt tình,cái gì cũng thích chõ mũi:))
Iu mọi người nhiều lắm nha.
@all : Đừng xét đoán trường nào hơn trường nào mà hãy cũng cầu thị với 1 tinh thần học hỏi.Chúng ta cùng là anh em học KT<:-P ra mà,tư tưởng phải tiến bộ thì đời mới kha được phải kô mọi người>:D<

He he ai chưa phục thì đọc chữ kí mình nhé
[I]
Sao chỉ có thể là mình anh thắng hoặc mình tôi thắng
Sao cả 2 chúng ta không cùng thắng[/B]

Mr.Zero
09-06-2008, 05:02 PM
ĐỌc xong chẳng thấy nó thú vị cái gì cả, tại sao cư sphair xét gái trường nào "sinh" hơn khi mà cái chủ đề nhạt toẹt đấy đã đi vào dĩ vãng từ lâu. vl....... nghe ngứa quá...
Kinh tế là cái muôn thuở, chả thế mà khoa kinh tế ngoại thương là ngành chủ chốt, trụ cột của cả trường, hâm mộ...heò, giá mình đc như thế...

Sally Fuu
17-12-2008, 08:41 AM
hôm ney vào đọc topic ney mới thấy mình chẳng biết gì
ngày mới thi vào chỉ nghĩ thi trường nào đỉnh đỉnh là ok>ko ti được thì ở nhà
đến bây giờ vào trường cũng chẳng buồn tìm hiểu mình học cái gì
thì ra ngành của mình là cãi nhau thế ney đêy
thanks