LENGOCSON
27-04-2008, 10:48 PM
Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Đây là một quá trình vận động quan trọng mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội và buộc Việt Nam phải đối mặt với những áp lực điều chỉnh cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý với những thách thức to lớn và tất yếu.
Cả nền kinh tế, các ngành sản xuất, các doanh nghiệp và các loại hàng hoá và dịch vụ Việt Nam đều phải đương đầu với sức ép cạnh tranh cực kỳ gay gắt. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại Việt Nam, một lĩnh vực hết sức đa dạng, thường xuyên biến động và là động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hội nhập hiện nay, đang chịu những tác động trực tiếp và hết sức to lớn của quá trình này. Vấn đề là cần có những giải pháp thích hợp để tăng tính nghi, vừa phát triển nhanh lĩnh vực kinh tế đối ngoại Việt Nam theo phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phục vụ có hiệu quả công cuộc công nghiệp hoá, hiện đạihoá để đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá vào năm 2020.
1. Quan niệm về lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Kinh tế đối ngoại là lĩnh vực kinh tế thể hiện phần tham gia của nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới và là phần phụ thuộc về kinh tế giữa các quốc gia hay phần giao của những giao dịch kinh tế giữa các nước. Đây là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa một quốc gia với phần còn lại của thế giới dựa trên cơ sở sự phát triển phân công lao động quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ, di chuyển lao động quốc tế, các quan hệ tiền tệ và tín dụng quốc tế và các dịch vụ quốc tế khác. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại có thể được xem xét từ bản chất kinh tế của quan hệ và giao dịch, ý chí điều chỉnh của Chính phủ thông qua chính sách, cơ chế và các công cụ và đội ngũ nhân lực thực hiện các quan hệ.
Sự phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển và sự phát triển các quan hệ kinh tế trong nước tạo đà cho sự phát triển của lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Việc phát triển mạnh của lĩnh vực kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế đất nước trở thành một mắt khâu quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu và do đó, sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu làm tăng giá trị nền kinh tế. Động lực phát triển kinh tế toàn cầu, lúc đó, sẽ trở thành động lực tăng trưởng trực tiếp của nền kinh tế.
2. Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại Việt Nam
2.1.Hoạt động xuất nhập khẩu.
Hoạt động xuất-nhập khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh và tốc độ tăng trưởng trung bình (15-20%) cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân GDP (7-8) kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế (xem bảng). Điều đó thể hiện mức độ hội nhập của nền kinhtế Việt Nam ngày càng lớn vào nền kinh tế thế giới và khẳng định xu hường hội nhập thông thể đảo ngược của Việt Nam mà trước hết và trực tiếp là lĩnh vực xuất-nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam đạt con số kỷ lục là 32,44 tỷ USD vào năm 2005 và cũng trong năm này, kim ngạch nhập khẩu đạt 36,98 tỷ USD. Việt Nam đã có quan hệ thương mại với khoảng 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là yếu tố khẳng định sự thành công của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bên cạnh những thành công đạt được, hoạt động xuất-nhập khẩu vẫn bộc lộ những hạn chế. Trước hết, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu còn lạc hậu, chủ yếu là các mặt hàng dễ sản xuất, hàm lượng giá trị tăng thêm thấp và là mặt hàng sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và lao động giản đơn như dầu khí, hàng nông sản nhiệt đới, hàng dệt may Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn như hồ tiêu, gạo, cà phê có khả năng chi phối đến giá cả thế giới nhưng thiếu cơ chế thực hiện. Nhiều thị trường đã được mở ra đối với hàng hoá xuất-nhập khẩu của Việt Nam bao gồm cả thị trường châu Á, châu Âu, châu Mỹ và gần đây đã phât trểin quan hệ với thị trường châu Phi là thị trường có rất nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, một trong những khía cạnh quan trọng trong hoạt động xuất khẩu Việt Nam là tỷ trọng xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài khá lớn. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này đạt con số 18,5 tỷ USD chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Hơn nữa, 75% kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là các mặt hàng đã qua chế biến và chế biến sâu, hàm lượng giá trị tăng cao và khả năng cạnh tranh cao. Đồng thời, số liệu còn cho thấy mối quan hệ khá chặt chẽ giữa việc thu hút đầu tư nước ngoài với việc đẩy mạnh xuất khẩu ở Việt Nam hay kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào kết quả thu hút đầu tư nước ngoài.
Do tỷ trọng quá cao của khu vực đầu tư nước ngoài trong tổng kim ngạch xấut khẩu cả nước cho nên có thể đánh giá khả năng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước khá hạn chế. Các mặt hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu là các mặt hàng có giá trị gia tăng thấp mà thực chất là bán rẻ tài nguyên và lao động. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn gặp khá nhiều hạn chế về thông tin thị trường nước ngoài, kỹ năng đàm phán và chưa thật quen thuộc với những thông lệ quốc tế cho nên phải chịu những thua thiệt khi bị kiện (vụ kiện bán phá giá cá basa Việt Nam trên thị trường Mỹ và vụ kiện bán phá giá giày mũ da trên thị trường Liên minh châu Âu) hoặc chịu nhiều thiệt hạido gặp rủi ro khác. Sự hỗ tợ của nhà nước thời gian qua đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó khăn khi sự hỗ tợ này bị loại bỏ theo nguyên tắc WTO.
Về xuất khẩu, có mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là xăng dầu, sắt thép, các loại nguyên liệu phục vụ sản xấut và hàng tiêu dùng Kim ngacgh nhập khẩu của Việt Nam ngày càng tăng thể hiện Việt Nam là thị trường tiêu thụ lớn hàng hoá các nước. Khi giá cả những mặt hàng nhậpkhẩu này biến động trên thị trường thế giới dẫn đến tình trạng biến động giá cả của hàng loạt các hàng hoá khác được sản xuất trong nước dựa vào nguyên liệu nhập khẩu và tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Kim ngạch nhập khẩu cao là yếu tố mà Việt Nam có thể khai thác để cải thiện vị thế đàm phán của mình. Đây cũng là lý do mà các nước gây áp lực lớn buộc Việt Nam phải mở cửa lớn thị trường. Các số liệu ở bảng 1 còn cho thấy cán cân thương mại Việt Nam thường xuyên thâm hụt và đây là hiện tượng thường gặp đối với các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá cần nhậpkhẩu nhiều máy móc, thiết bị trong khi khả năng xuất khẩu hạn chế và điều kiện thương mại bất lợi (giá nhập khẩu cao và giá xuất khẩu thấp). Vấn đề là mức thâm hụt này, tuy vậy vẫn chưa dẫn đến việc điều chỉnh cơ bản tỷ giá hay phải có những thay đổi quan trọng khác trong chính sách kinh tế. Khi gia nhập WTO, việc giảm thuế nhậpkhẩu là cơ hội để Việt Nam nhập khẩu các hàng hoá rẻ ở các nước.
Các hoạt động xuất khẩu và nhậpkhẩu dịch vụ của Việt Nam vẫn chưa tướng xứng với tiềm năng của nền kinhtế mặc dù xu hướng chung là thương mại dịch vụ tăng mạnh.
2.2 .Hoạt động đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ.
Sau gần 20 năm mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã thu hút được một lượng vốn đầu tư đăng ký 51 tỷ USD và vốn đầu tư thựchiện khoảng 28 tỷ USD. Đối tác đầu tư khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có mặt tại Việt Nam. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mà đặc biệt là đầu tư trực tiếp có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây (xem bảng 1) do thực hiện những cải thiện quan trọng của môi trường đầu tư trong nước đã làm tăng mức hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài đặc biệt là việc loại bỏ dần các rào cản trong đầu tư như cam kết có liên quan đến Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs), Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt-Nhật, mở cửa thị trường, sự thay đổi trong chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư nướcn goài và những thay đổi trong quan hệ quốc tế trong khu vực Bên cạnh đó, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định tránh đánh thuế trùng, hiệp định bảo hộ đầu tư với nhiều quốc gia đối tác quan trọng trong đầu tư của Việt Nam Các hoạt động đầu tư nước ngoài đang dần dần có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và là khu vực đi tiên phong trong cạnh tranh quốc tế so với các lĩnh vực khác của kinh tế đối ngoại. Khả năng gia tăng của dòng vốn đầu tư trực tiếp này còn rất lớn trong thời gian tới vì những cơ hội thị trường đầu tư của Việt Nam còn rất lớn, nhiều hình thức đầu tư mới đã được pháp luật Việt Nam cho phép vận hành sáp nhập và mua lại (M & A), đầu tư gián tiếp, cho phép việc mua cổ phần, việc mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản, mạng lưới phân phối. Các phương thức tổ chức đầu tư như thành lập khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, thành phố mở cửa, khu công nghệ cao đang góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Một số công ty xuyên quốc gia và chi nhánh của chúng đã xuất hiện ở Việt Nam. Điều đặc biệt là Việt Nam đã có các quy định pháp luật rõ ràng về đầu tư nước ngoài- dấu hiệu khẳng định sự trưởng thành của các doanh nghiệp Việt Nam. Việt Nam đã tiếp nhận đáng kể nguồn vốn đầu tư, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các nhà đầu tư nước ngoài, phục vụ trực tiếp cho quá trình đổi mới kinh tế, giải quyết gần 1 triệu việc làm trực tiếp và thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, các nhà đàu tư lớn nhất vào Việt Nam chủ yếu đến từ các nước châu Á (Đài Loan, Xingapore và Nhật Bản là 3 nước đứng đầu về lượng vốn đầu tư vào Việt Nam) không phải là những nhà đầu tư có công nghệ nguồn và điều này cùng với việc các công ty xuyên quốc gia hạn chế chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là yếu tốt cản trở lớn khả năng đuổi kịp về công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam.
Pháp luật bảo vệc quyền sở hữu công nghiệp được hoàn thiện dần, nhiều hình thức chuyển giao công nghệ đã được áp dụng và có xu hướng thúc đẩy sự phát triển của thị trường công nghệ Việt Nam. Hình thức cấp giấy phép, nhượng quyền thương mại, đấu thầu quốc tế, các hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm và dịchvụ đang có xu hướng phát triển mạnh. Hoạt động chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được thực hiện. Các công nghệ lắp ráp, sửa chữa ô tô, xe máy,các sản phẩm cơ khí, điện tử đang được chuyển giao sang phía Việt Nam. Tuy nhiên, có thể thấy đây là những công nghệ đơn giản, Việt Nam vẫn thiếu công nghệ nguồn và bí quyết công nghệ là yếu tố kiến tạo thế mạnh cốt lõi và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. Việc phát triển doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài làm giảm khả năng học hỏi và tiếp nhận bí quyết công nghệ. Tình trạng vi phạm bản quyền, nạn hàng giả, buôn lậu cũng là yếu tố cản trở khá lớn hoạt động chuyển giao công nghệ..
Kinh tế đối ngoại chủ yếu bao gồm các hoạt động ngoại thương (xuất – nhập khẩu), hợp tác quốc tế về đầu tư và lao động, du lịch quốc tế và các dịch vụ thu ngoại tệ khác.
Ngày nay, kinh tế đối ngoại có vai trò đặc biệt trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của nước ta phụ thuộc một phần vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế đối ngoại.
1. Từ sau năm 1988, hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta dần dần được đổi mới
a) Hoạt động xuất – nhập khẩu gần đây có nhiều biến động do hoàn cảnh mới của tình hình quốc tế.
Trước đây, thị trường chủ yếu là Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Hiện nay, thị trường buôn bán ngày càng mở rộng theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Các bạn hàng lớn hiện nay là Xingapo, Nhật Bản, Hồng Công, Hàn Quốc…
Trong hoạt động xuất – nhập khẩu có những đổi mới về cơ chế quản lí. Đó là việc mở rộng quyền hoạt động kinh tế đối ngoại cho các ngành và các địa phương; xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung bao cấp và chuyển sang hạch toán kinh doanh; tăng cường sự quản lý thống nhất của Nhà nước bằng luật pháp. Vì vậy, hoạt động xuất nhập khẩu phát triển mạnh.
b) Việc hợp tác và đầu tư nước ngoài vào nước ta mới thật sự bắt đầu từ năm 1988
Tính đến hết năm 1999 đã có hơn 2800 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn trên 37,1 tỉ USD. Đó là kết quả khả quan trong những năm đầu thực hiện luật đầu tư.
c) Việc hợp tác quốc tế về lao động góp phần giải quyết vấn đề về việc làm, về đào tạo, nâng cao tay nghề cho hàng chục vạn người lao động và tăng nguồn ngoại tệ cho Nhà nước. Hoạt động du lịch quốc tế và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tuy có phát triển, nhưng phần lớn còn đang ở dạng tiềm năng.
2. Tuy nhiên, các hoạt động kinh tế đối ngoại vẫn còn có những tồn tại đáng kể
Trong một thời gian dài, giữa xuất và nhập khẩu có sự mất cân đối nghiêm trọng. Hàng nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất (80%), còn hàng xuất khẩu lại là các sản phẩm thô mới qua sơ chế (khoáng sản, nông – lâm - thuỷ sản). Các hoạt động khác còn bị hạn chế, hiệu quả chưa cao.
3. Trong điều kiện nền kinh tế mở, chiến lược kinh tế đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh tế - xã hội của đất nước
Về tiềm năng, nước ta có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại. Một số loại khoáng sản, nhất là dầu khí, đang thu hút sự chú ý của nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Các sản phẩm của nền nông nghiệp nhiệt đới, của ngành nuôi trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản và của một số ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có thể phát triển với quy mô lớn nhằm tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu. Tài nguyên thiên nhiên kết hợp với nguồn nhân lực, kinh tế, kỹ thuật ở trong và ngoài nước là những nguồn lực quan trọng để thực hiện chiến lược kinh tế đối ngoại.
Việc mở rộng xuất khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác trong thương mại sẽ trở thành mũi nhọn thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đối với vấn đề này, việc tạo nên các mặt hàng chủ lực và các thị trường trọng điểm có ý nghĩa hàng đầu.
Việc thực hiện có kết quả các chiến lược kinh tế đối ngoại còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nữa như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, vào hệ thống luật pháp, đội ngũ cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lí hiện làm công việc này.
Cả nền kinh tế, các ngành sản xuất, các doanh nghiệp và các loại hàng hoá và dịch vụ Việt Nam đều phải đương đầu với sức ép cạnh tranh cực kỳ gay gắt. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại Việt Nam, một lĩnh vực hết sức đa dạng, thường xuyên biến động và là động lực quan trọng hàng đầu thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hội nhập hiện nay, đang chịu những tác động trực tiếp và hết sức to lớn của quá trình này. Vấn đề là cần có những giải pháp thích hợp để tăng tính nghi, vừa phát triển nhanh lĩnh vực kinh tế đối ngoại Việt Nam theo phương châm đa dạng hoá và đa phương hoá trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm phục vụ có hiệu quả công cuộc công nghiệp hoá, hiện đạihoá để đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá vào năm 2020.
1. Quan niệm về lĩnh vực kinh tế đối ngoại.
Kinh tế đối ngoại là lĩnh vực kinh tế thể hiện phần tham gia của nền kinh tế quốc gia vào nền kinh tế thế giới và là phần phụ thuộc về kinh tế giữa các quốc gia hay phần giao của những giao dịch kinh tế giữa các nước. Đây là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa một quốc gia với phần còn lại của thế giới dựa trên cơ sở sự phát triển phân công lao động quốc tế và chuỗi giá trị toàn cầu. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại bao gồm thương mại quốc tế, đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ, di chuyển lao động quốc tế, các quan hệ tiền tệ và tín dụng quốc tế và các dịch vụ quốc tế khác. Lĩnh vực kinh tế đối ngoại có thể được xem xét từ bản chất kinh tế của quan hệ và giao dịch, ý chí điều chỉnh của Chính phủ thông qua chính sách, cơ chế và các công cụ và đội ngũ nhân lực thực hiện các quan hệ.
Sự phát triển lĩnh vực kinh tế đối ngoại thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển và sự phát triển các quan hệ kinh tế trong nước tạo đà cho sự phát triển của lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Việc phát triển mạnh của lĩnh vực kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế đất nước trở thành một mắt khâu quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu và do đó, sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu làm tăng giá trị nền kinh tế. Động lực phát triển kinh tế toàn cầu, lúc đó, sẽ trở thành động lực tăng trưởng trực tiếp của nền kinh tế.
2. Tình hình phát triển kinh tế đối ngoại Việt Nam
2.1.Hoạt động xuất nhập khẩu.
Hoạt động xuất-nhập khẩu của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh và tốc độ tăng trưởng trung bình (15-20%) cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân GDP (7-8) kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế (xem bảng). Điều đó thể hiện mức độ hội nhập của nền kinhtế Việt Nam ngày càng lớn vào nền kinh tế thế giới và khẳng định xu hường hội nhập thông thể đảo ngược của Việt Nam mà trước hết và trực tiếp là lĩnh vực xuất-nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam đạt con số kỷ lục là 32,44 tỷ USD vào năm 2005 và cũng trong năm này, kim ngạch nhập khẩu đạt 36,98 tỷ USD. Việt Nam đã có quan hệ thương mại với khoảng 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đây là yếu tố khẳng định sự thành công của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bên cạnh những thành công đạt được, hoạt động xuất-nhập khẩu vẫn bộc lộ những hạn chế. Trước hết, cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu còn lạc hậu, chủ yếu là các mặt hàng dễ sản xuất, hàm lượng giá trị tăng thêm thấp và là mặt hàng sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và lao động giản đơn như dầu khí, hàng nông sản nhiệt đới, hàng dệt may Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn như hồ tiêu, gạo, cà phê có khả năng chi phối đến giá cả thế giới nhưng thiếu cơ chế thực hiện. Nhiều thị trường đã được mở ra đối với hàng hoá xuất-nhập khẩu của Việt Nam bao gồm cả thị trường châu Á, châu Âu, châu Mỹ và gần đây đã phât trểin quan hệ với thị trường châu Phi là thị trường có rất nhiều tiềm năng. Tuy nhiên, một trong những khía cạnh quan trọng trong hoạt động xuất khẩu Việt Nam là tỷ trọng xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài khá lớn. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu của khu vực này đạt con số 18,5 tỷ USD chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Hơn nữa, 75% kim ngạch xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là các mặt hàng đã qua chế biến và chế biến sâu, hàm lượng giá trị tăng cao và khả năng cạnh tranh cao. Đồng thời, số liệu còn cho thấy mối quan hệ khá chặt chẽ giữa việc thu hút đầu tư nước ngoài với việc đẩy mạnh xuất khẩu ở Việt Nam hay kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam phụ thuộc rất lớn vào kết quả thu hút đầu tư nước ngoài.
Do tỷ trọng quá cao của khu vực đầu tư nước ngoài trong tổng kim ngạch xấut khẩu cả nước cho nên có thể đánh giá khả năng xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước khá hạn chế. Các mặt hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu là các mặt hàng có giá trị gia tăng thấp mà thực chất là bán rẻ tài nguyên và lao động. Các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn gặp khá nhiều hạn chế về thông tin thị trường nước ngoài, kỹ năng đàm phán và chưa thật quen thuộc với những thông lệ quốc tế cho nên phải chịu những thua thiệt khi bị kiện (vụ kiện bán phá giá cá basa Việt Nam trên thị trường Mỹ và vụ kiện bán phá giá giày mũ da trên thị trường Liên minh châu Âu) hoặc chịu nhiều thiệt hạido gặp rủi ro khác. Sự hỗ tợ của nhà nước thời gian qua đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt Nam sẽ khó khăn khi sự hỗ tợ này bị loại bỏ theo nguyên tắc WTO.
Về xuất khẩu, có mặt hàng nhập khẩu chủ yếu là xăng dầu, sắt thép, các loại nguyên liệu phục vụ sản xấut và hàng tiêu dùng Kim ngacgh nhập khẩu của Việt Nam ngày càng tăng thể hiện Việt Nam là thị trường tiêu thụ lớn hàng hoá các nước. Khi giá cả những mặt hàng nhậpkhẩu này biến động trên thị trường thế giới dẫn đến tình trạng biến động giá cả của hàng loạt các hàng hoá khác được sản xuất trong nước dựa vào nguyên liệu nhập khẩu và tiềm ẩn nguy cơ lạm phát. Kim ngạch nhập khẩu cao là yếu tố mà Việt Nam có thể khai thác để cải thiện vị thế đàm phán của mình. Đây cũng là lý do mà các nước gây áp lực lớn buộc Việt Nam phải mở cửa lớn thị trường. Các số liệu ở bảng 1 còn cho thấy cán cân thương mại Việt Nam thường xuyên thâm hụt và đây là hiện tượng thường gặp đối với các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá cần nhậpkhẩu nhiều máy móc, thiết bị trong khi khả năng xuất khẩu hạn chế và điều kiện thương mại bất lợi (giá nhập khẩu cao và giá xuất khẩu thấp). Vấn đề là mức thâm hụt này, tuy vậy vẫn chưa dẫn đến việc điều chỉnh cơ bản tỷ giá hay phải có những thay đổi quan trọng khác trong chính sách kinh tế. Khi gia nhập WTO, việc giảm thuế nhậpkhẩu là cơ hội để Việt Nam nhập khẩu các hàng hoá rẻ ở các nước.
Các hoạt động xuất khẩu và nhậpkhẩu dịch vụ của Việt Nam vẫn chưa tướng xứng với tiềm năng của nền kinhtế mặc dù xu hướng chung là thương mại dịch vụ tăng mạnh.
2.2 .Hoạt động đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ.
Sau gần 20 năm mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã thu hút được một lượng vốn đầu tư đăng ký 51 tỷ USD và vốn đầu tư thựchiện khoảng 28 tỷ USD. Đối tác đầu tư khoảng 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có mặt tại Việt Nam. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam mà đặc biệt là đầu tư trực tiếp có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây (xem bảng 1) do thực hiện những cải thiện quan trọng của môi trường đầu tư trong nước đã làm tăng mức hấp dẫn trong thu hút đầu tư nước ngoài đặc biệt là việc loại bỏ dần các rào cản trong đầu tư như cam kết có liên quan đến Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs), Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, Hiệp định tự do, xúc tiến và bảo hộ đầu tư Việt-Nhật, mở cửa thị trường, sự thay đổi trong chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư nướcn goài và những thay đổi trong quan hệ quốc tế trong khu vực Bên cạnh đó, Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định tránh đánh thuế trùng, hiệp định bảo hộ đầu tư với nhiều quốc gia đối tác quan trọng trong đầu tư của Việt Nam Các hoạt động đầu tư nước ngoài đang dần dần có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và là khu vực đi tiên phong trong cạnh tranh quốc tế so với các lĩnh vực khác của kinh tế đối ngoại. Khả năng gia tăng của dòng vốn đầu tư trực tiếp này còn rất lớn trong thời gian tới vì những cơ hội thị trường đầu tư của Việt Nam còn rất lớn, nhiều hình thức đầu tư mới đã được pháp luật Việt Nam cho phép vận hành sáp nhập và mua lại (M & A), đầu tư gián tiếp, cho phép việc mua cổ phần, việc mở cửa cho nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản, mạng lưới phân phối. Các phương thức tổ chức đầu tư như thành lập khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất, thành phố mở cửa, khu công nghệ cao đang góp phần thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Một số công ty xuyên quốc gia và chi nhánh của chúng đã xuất hiện ở Việt Nam. Điều đặc biệt là Việt Nam đã có các quy định pháp luật rõ ràng về đầu tư nước ngoài- dấu hiệu khẳng định sự trưởng thành của các doanh nghiệp Việt Nam. Việt Nam đã tiếp nhận đáng kể nguồn vốn đầu tư, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các nhà đầu tư nước ngoài, phục vụ trực tiếp cho quá trình đổi mới kinh tế, giải quyết gần 1 triệu việc làm trực tiếp và thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, các nhà đàu tư lớn nhất vào Việt Nam chủ yếu đến từ các nước châu Á (Đài Loan, Xingapore và Nhật Bản là 3 nước đứng đầu về lượng vốn đầu tư vào Việt Nam) không phải là những nhà đầu tư có công nghệ nguồn và điều này cùng với việc các công ty xuyên quốc gia hạn chế chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là yếu tốt cản trở lớn khả năng đuổi kịp về công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam.
Pháp luật bảo vệc quyền sở hữu công nghiệp được hoàn thiện dần, nhiều hình thức chuyển giao công nghệ đã được áp dụng và có xu hướng thúc đẩy sự phát triển của thị trường công nghệ Việt Nam. Hình thức cấp giấy phép, nhượng quyền thương mại, đấu thầu quốc tế, các hoạt động xây dựng và phát triển thương hiệu doanh nghiệp, sản phẩm và dịchvụ đang có xu hướng phát triển mạnh. Hoạt động chuyển giao công nghệ thông qua các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được thực hiện. Các công nghệ lắp ráp, sửa chữa ô tô, xe máy,các sản phẩm cơ khí, điện tử đang được chuyển giao sang phía Việt Nam. Tuy nhiên, có thể thấy đây là những công nghệ đơn giản, Việt Nam vẫn thiếu công nghệ nguồn và bí quyết công nghệ là yếu tố kiến tạo thế mạnh cốt lõi và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp. Việc phát triển doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài làm giảm khả năng học hỏi và tiếp nhận bí quyết công nghệ. Tình trạng vi phạm bản quyền, nạn hàng giả, buôn lậu cũng là yếu tố cản trở khá lớn hoạt động chuyển giao công nghệ..
Kinh tế đối ngoại chủ yếu bao gồm các hoạt động ngoại thương (xuất – nhập khẩu), hợp tác quốc tế về đầu tư và lao động, du lịch quốc tế và các dịch vụ thu ngoại tệ khác.
Ngày nay, kinh tế đối ngoại có vai trò đặc biệt trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước. Vấn đề phát triển kinh tế - xã hội của nước ta phụ thuộc một phần vào việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của các hoạt động kinh tế đối ngoại.
1. Từ sau năm 1988, hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta dần dần được đổi mới
a) Hoạt động xuất – nhập khẩu gần đây có nhiều biến động do hoàn cảnh mới của tình hình quốc tế.
Trước đây, thị trường chủ yếu là Liên Xô (cũ) và Đông Âu. Hiện nay, thị trường buôn bán ngày càng mở rộng theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Các bạn hàng lớn hiện nay là Xingapo, Nhật Bản, Hồng Công, Hàn Quốc…
Trong hoạt động xuất – nhập khẩu có những đổi mới về cơ chế quản lí. Đó là việc mở rộng quyền hoạt động kinh tế đối ngoại cho các ngành và các địa phương; xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung bao cấp và chuyển sang hạch toán kinh doanh; tăng cường sự quản lý thống nhất của Nhà nước bằng luật pháp. Vì vậy, hoạt động xuất nhập khẩu phát triển mạnh.
b) Việc hợp tác và đầu tư nước ngoài vào nước ta mới thật sự bắt đầu từ năm 1988
Tính đến hết năm 1999 đã có hơn 2800 dự án được cấp giấy phép với tổng số vốn trên 37,1 tỉ USD. Đó là kết quả khả quan trong những năm đầu thực hiện luật đầu tư.
c) Việc hợp tác quốc tế về lao động góp phần giải quyết vấn đề về việc làm, về đào tạo, nâng cao tay nghề cho hàng chục vạn người lao động và tăng nguồn ngoại tệ cho Nhà nước. Hoạt động du lịch quốc tế và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác tuy có phát triển, nhưng phần lớn còn đang ở dạng tiềm năng.
2. Tuy nhiên, các hoạt động kinh tế đối ngoại vẫn còn có những tồn tại đáng kể
Trong một thời gian dài, giữa xuất và nhập khẩu có sự mất cân đối nghiêm trọng. Hàng nhập khẩu chủ yếu là tư liệu sản xuất (80%), còn hàng xuất khẩu lại là các sản phẩm thô mới qua sơ chế (khoáng sản, nông – lâm - thuỷ sản). Các hoạt động khác còn bị hạn chế, hiệu quả chưa cao.
3. Trong điều kiện nền kinh tế mở, chiến lược kinh tế đối ngoại là một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh tế - xã hội của đất nước
Về tiềm năng, nước ta có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế đối ngoại. Một số loại khoáng sản, nhất là dầu khí, đang thu hút sự chú ý của nhiều nước trên thế giới và trong khu vực. Các sản phẩm của nền nông nghiệp nhiệt đới, của ngành nuôi trồng, đánh bắt thuỷ, hải sản và của một số ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có thể phát triển với quy mô lớn nhằm tạo thêm nguồn hàng xuất khẩu. Tài nguyên thiên nhiên kết hợp với nguồn nhân lực, kinh tế, kỹ thuật ở trong và ngoài nước là những nguồn lực quan trọng để thực hiện chiến lược kinh tế đối ngoại.
Việc mở rộng xuất khẩu và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác trong thương mại sẽ trở thành mũi nhọn thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Đối với vấn đề này, việc tạo nên các mặt hàng chủ lực và các thị trường trọng điểm có ý nghĩa hàng đầu.
Việc thực hiện có kết quả các chiến lược kinh tế đối ngoại còn phụ thuộc vào nhiều điều kiện khác nữa như kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, vào hệ thống luật pháp, đội ngũ cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lí hiện làm công việc này.