PDA

View Full Version : 29 năm chiến tranh biên giới Việt - Trung 1979



totenkopf
17-03-2008, 12:47 AM
Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979

Chiến tranh biên giới Việt - Trung, 1979 (còn gọi là Chiến tranh biên giới phía Bắc, 1979 hay Công cuộc phòng thủ biên giới phía Bắc, 1979) là tên gọi cuộc chiến tranh của Trung Quốc nhằm đánh chiếm 6 tỉnh biên giới của Việt Nam vào năm 1979 (còn có tên gọi khác là Chiến tranh bành trướng Bắc Kinh,1979)

Nguyên nhân:

Nhận thấy Việt Nam đưa quân vào Campuchia lật đổ chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ do Trung Quốc bảo trợ trong cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Campuchia, Trung Quốc quyết định tấn công xâm lược Việt Nam với lý do "dạy cho Việt Nam một bài học" (lời Đặng Tiểu Bình) nhưng mục đích chính là phân chia lực lượng quân đội của Việt Nam để giúp chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ. Đồng thời, Trung Quốc muốn thử nghiệm chiến thuật quân sự phòng thủ chủ động, đưa cuộc phòng thủ biên giới vào sâu lãnh thổ đối phương.
Ngoài ra, theo một số nhà nghiên cứu quân sự Tây phương, về mặt chiến lược, Trung Quốc thử nghiệm một cuộc chiến tranh biên giới có giới hạn để thăm dò khả năng tương trợ của Liên xô, sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế SEV, và ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô (1978), trong đó có điều khoản về tương trợ quân sự . Nếu thảo ước này được tuân thủ nghiêm ngặt, theo nhận định của Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, nó sẽ là hiểm họa quốc phòng lớn vì đặt Trung Quốc vào tình thế lưỡng đầu thọ địch khi xảy ra chiến tranh với Việt Nam hoặc Liên Xô.

Kế hoạch của Trung Quốc

Kế hoạch của Trung Quốc gồm ba giai đoạn.
Giai đoạn đầu (từ 17 đến 25-2): phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên của Việt Nam và chiếm Cao Bằng, Lào Cai, cùng hai thị trấn Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngõ dẫn vào Lạng Sơn.
Giai đoạn hai (từ 26-2 đến 5-3): tấn công Lạng Sơn và khu vực bao quanh ở phía đông, Sa Pa và Phong Thổ ở phía tây bắc.
Giai đoạn cuối: bình định và phá hủy các căn cứ quân sự ở khu vực biên giới với Trung Quốc trước khi rút về vào ngày 16-3.

Tương quan lực lượng tham chiến

Lực lượng quân đội Trung Quốc

Lực lượng chính trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2 năm 1979 là 9 quân đoàn chủ lực và các đơn vị binh chủng. Cụ thể :

- Quân đoàn 11 gồm 3 sư đoàn bộ binh (31, 32, 33) và trung đoàn pháo binh, phòng không.

- Quân đoàn 13 gồm 3 sư đoàn bộ binh (37, 38, 39) và trung đoàn pháo binh, phòng không.

- Quân đoàn 14 gồm 3 sư đoàn bộ binh (40, 41, 42) và trung đoàn pháo binh, phòng không.

- Quân đoàn 41 gồm 3 sư đoàn bộ binh (121, 122, 123) và trung đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng.

- Quân đoàn 42 gồm 3 sư đoàn bộ binh (124, 125, 126) và trung đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng.

- Quân đoàn 43 gồm 3 sư đoàn bộ binh (127, 128, 129) và trung đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng.

- Quân đoàn 50 gồm 3 sư đoàn bộ binh (148, 149, 150) và trung đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng.

- Quân đoàn 54 gồm 3 sư đoàn bộ binh (160, 161, 162) và trung đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng.

- Quân đoàn 55 gồm 3 sư đoàn bộ binh (163, 164, 165) và trung đoàn pháo binh, phòng không, xe tăng.

- Sư đoàn bộ binh 58 (quân đoàn 20).

- Sư đoàn bộ binh địa phương của tỉnh Quảng Tây.

- Sư đoàn pháo binh số 1.

- Sư đoàn pháo binh số 7.

- Sư đoàn phòng không 65.

- Sư đoàn phòng không 70.

- Trung đoàn xe tăng độc lập của quân khu Côn Minh.

Tổng cộng lực lượng được huy động cho chiến dịch là 28 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn và 39 trung đoàn pháo binh, 7 trung đoàn và 1 tiểu đoàn xe tăng, 2 sư đoàn phòng không, ngoài ra còn có nhiều trung đoàn, tiểu đoàn bộ binh địa phương, biên phòng, các đơn vị binh chủng (công binh, thông tin, vận tải…), lực lượng dân binh tham gia trực tiếp chiến đấu và hỗ trợ chiến đấu. Một số sư đoàn không quân và hải quân của hạm đội Nam Hải cũng được lệnh sẵn sàng phía sau.

Các lực lượng trên chủ yếu được lấy từ 2 quân khu Quảng Châu và Côn Minh, nhưng cũng có các đơn vị của các quân khu khác như Thành Đô, Thẩm Dương… tham gia tăng cường.

Lực lượng trên hướng Quảng Tây do tướng Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) - tư lệnh quân khu Quảng Châu chỉ huy có 18 sư đoàn bộ binh, 6 trung đoàn xe tăng và các đơn vị binh chủng khác, đảm nhiệm tiến công các tỉnh biên giới Đông Bắc của Việt Nam. Cụ thể :

- Hướng Lạng Sơn có 7 sư đoàn bộ binh : 127, 128, 148, 161, 163, 164, 165.

- Hướng Cao Bằng có 10 sư đoàn bộ binh : 58, 121, 122, 123, 124, 125, 126, 129, 150, 160, 162.

- Hướng Quảng Ninh có 1 sư đoàn bộ binh địa phương của tỉnh Quảng Tây.


Lực lượng trên hướng Vân Nam do tướng Dương Đắc Chí (Yang Dezhi) - tư lệnh quân khu Côn Minh chỉ huy có 10 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng và các đơn vị binh chủng khác, đảm nhiệm tiến công các tỉnh biên giới Tây Bắc của Việt Nam. Cụ thể :

- Hướng Hoàng Liên Sơn (Lào Cai) có 8 sư đoàn bộ binh : 32, 37, 38, 39, 40, 41, 42, 149.

- Hướng Lai Châu có 2 sư đoàn bộ binh : 31, 33.

- Hướng Hà Tuyên (Hà Giang) có trung đoàn biên phòng 12 cùng lực lượng dân binh.

Về biên chế, mỗi quân đoàn TQ có quân số lý thuyết khoảng 50.000 người, gồm 3 sư đoàn bộ binh (mỗi sư đoàn có quân số lý thuyết khoảng 13.000 người, gồm 3 trung đoàn bộ binh và 1 trung đoàn pháo binh), 1 trung đoàn pháo binh, 1 trung đoàn cao xạ và 1 trung đoàn xe tăng. Riêng trong chiến dịch 1979 thì các quân đoàn 11, 13, 14 không có trung đoàn xe tăng. Trong quá trình chiến đấu một số đơn vị được tăng cường, ví dụ như quân đoàn 13, quân đoàn 55 được tăng cường thêm tới 5 trung đoàn pháo binh, nâng tổng số lên 9 trung đoàn pháo binh cho mỗi quân đoàn (so với 4 trong biên chế chuẩn).

Các tài liệu VN ước tính lực lượng được phía TQ huy động là 600.000 người, 550 xe tăng, 1.700-2.500 khẩu pháo

Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam

Lực lượng tham chiến của Việt Nam là các đơn vị thuộc Quân khu 1 (tư lệnh thiếu tướng Đàm Quang Trung) và Quân khu 2 (tư lệnh thiếu tướng Vũ Lập), gồm các đơn vị bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, công an vũ trang (bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ và nhân dân 6 tỉnh biên giới Lai Châu, Hoàng Liên Sơn (Lào Cai), Hà Tuyên (Hà Giang), Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh. Cụ thể :

Trên mặt trận biên giới Đông Bắc – Quân khu 1 :

- Lạng Sơn :

Chủ lực có sư đoàn bộ binh 3 (eBB2, eBB12, eBB141, ePB68) trên hướng Đồng Đăng và sư đoàn bộ binh 338 (eBB460, eBB461, eBB462, ePB208) trên hướng Đình Lập.

Địa phương có trung đoàn bộ binh 123 trên hướng Lộc Bình và trung đoàn bộ binh 199 trên hướng Thất Khê, tiểu đoàn pháo binh tỉnh, cùng một số tiểu đoàn, đại đội địa phương huyện và lực lượng dân quân tự vệ.

Biên phòng có trung đoàn công an vũ trang cơ động 12, đại đội cơ động tỉnh và các đồn công an biên phòng dọc biên giới.

Trực thuộc quân khu có trung đoàn pháo binh 166, trung đoàn phòng không 272, trung đoàn xe tăng 407 và các đơn vị công binh, thông tin, vận tải…

Trong chiến đấu, Lạng Sơn được tăng cường các lực lượng từ tuyến sau như : sư đoàn bộ binh 327 (eBB42, eBB54, eBB75, ePB120) phòng thủ ở Lộc Bình, sư đoàn bộ binh 337 (eBB4, eBB52, eBB92, ePB108) ở thị xã Lạng Sơn; trung đoàn bộ binh 196 ở Đình Lập cùng một số tiểu đoàn bộ binh; trung đoàn pháo binh 204 và tiểu đoàn 3 (lữ đoàn pháo binh 675, BTL Pháo binh) chi viện cho hướng thị xã Lạng Sơn và tiểu đoàn 10 (ePB54/fBB320B/QĐ1) chi viện hướng Đình Lập; một bộ phận súng phun lửa của tiểu đoàn phòng hoá 902 và các đơn vị binh chủng.


- Cao Bằng :

Chủ lực có sư đoàn bộ binh 346 (eBB246, eBB677, eBB851, ePB188) phòng thủ ở Trà Lĩnh, Hà Quảng, Hoà An. Ngoài ra có tiểu đoàn đặc công 45 (BTL Đặc công) tham gia phòng ngự và cơ động tập kích địch.

Địa phương có trung đoàn bộ binh 567 ở Quảng Hoà và trung đoàn bộ binh 852 ở khu vực Tài Hồ Xìn, tiểu đoàn pháo binh tỉnh, cùng các tiểu đoàn, đại đội địa phương huyện và dân quân tự vệ.

Biên phòng có đại đội cơ động tỉnh và các đồn biên phòng dọc biên giới.

Trong chiến đấu Cao Bằng được tăng cường trung đoàn bộ binh 529 (fBB311), trung đoàn bộ binh 183, tiểu đoàn 1 (lữ đoàn pháo binh 675), tiểu đoàn đặc công 20, một số tiểu đoàn bộ binh - trong đó có 1 tiểu đoàn thuộc trung đoàn bộ binh 111 (fBB325/QĐ2) vừa từ chiến trường CPC trở về, và các đơn vị binh chủng.


- Quảng Ninh :

Bảo vệ Quảng Ninh có sư đoàn bộ binh 325B (eBB8, eBB41, eBB288, ePB189) ở Bình Liêu, trung đoàn bộ binh 43, các đơn vị công an vũ trang biên phòng, các tiểu đoàn địa phương và dân quân tự vệ.


Trên mặt trận biên giới Tây Bắc – Quân khu 2 :

- Hoàng Liên Sơn :

Chủ lực có sư đoàn bộ binh 345 (eBB118, eBB121, eBB124, ePB190) trên hướng Lào Cai, khi xảy ra chiến đấu có sư đoàn bộ binh 316 thiếu (eBB148, eBB174, ePB187) cơ động về phòng thủ ở Sa Pa.

Địa phương có 2 trung đoàn bộ binh (192, 254), tiểu đoàn pháo binh tỉnh, các tiểu đoàn, đại đội địa phương huyện và dân quân tự vệ.

Biên phòng có trung đoàn công an vũ trang cơ động 16 ở Mường Khương, đại đội cơ động tỉnh và các đồn biên phòng dọc biên giới.

Trực thuộc Quân khu 2 có trung đoàn pháo binh 168, trung đoàn phòng không 256, các đơn vị binh chủng như công binh, thông tin, vận tải….

Trong chiến đấu Hoàng Liên Sơn được tăng cường lữ đoàn pháo binh 368 (BTL Pháo binh) và một số đơn vị bộ binh, binh chủng.


- Lai Châu :

Hướng chiến đấu chủ yếu là Phong Thổ có một bộ phận của sư đoàn bộ binh 326 (eBB19, eBB46, eBB541, ePB200) và trung đoàn bộ binh 98 (fBB316), một bộ phận trung đoàn pháo binh 187 (fBB316), 2 trung đoàn bộ binh (eBB193, eBB741), tiểu đoàn pháo binh tỉnh, các đơn vị biên phòng, các tiểu đoàn, đại đội địa phương huyện và dân quân tự vệ. Trong chiến đấu cũng được tăng cường thêm một số đơn vị bộ binh, binh chủng.


- Hà Tuyên :

Trên hướng này chỉ diễn ra các trận tập kích nhỏ của địch (chủ yếu vào các đồn biên phòng), các đơn vị đã tham gia đánh trả là bộ phận thuộc trung đoàn bộ binh 122, các tiểu đoàn, đại đội địa phương huyện, các đơn vị công an vũ trang biên phòng và dân quân tự vệ.


Trong toàn bộ cuộc chiến, đã có 2 sư đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn pháo nòng dài, 2 tiểu đoàn đặc công và 25 tiểu đoàn dự nhiệm do các tỉnh tổ chức được đưa lên mặt trận làm nhiệm vụ chiến đấu hoặc sẵn sàng chiến đấu.

Ở phía sau, lực lượng của Quân đoàn 1 và Quân đoàn 2 (vừa từ chiến trường CPC về) đã được triển khai. Các đơn vị không quân UH-1, A-37, MiG-17 cường kích cũng đã sẵn sàng nhưng tất cả các đơn vị này đều chưa tham chiến.



Diễn biến


Sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội Trung Quốc áp dụng chiến thuật biển người bất kể tổn thất tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam.
Hướng Lạng Sơn có quân đoàn 43, 54, 55.
Hướng Cao Bằng có quân đoàn 41, 42, 50.
Hướng Hoàng Liên Sơn có quân đoàn 13, 14.
Hướng Lai Châu có quân đoàn 11.
Hướng Quảng Ninh, Hà Tuyên (nay là Hà Giang) mỗi nơi cũng có từ 1-2 sư đoàn.
Tất cả các hướng tấn công đều có xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Không quân và hải quân không được sử dụng trong toàn bộ cuộc chiến.
Trong giai đoạn đầu đến ngày 28 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang và một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại nặng.
Quân Việt Nam phản kích ở mặt trận Lạng Sơn (2-1979)
Quân Việt Nam còn phản kích đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh (thuộc tỉnh Quảng Tây) và Malypo (thuộc tỉnh Vân Nam) của Trung Quốc nhưng chỉ có ý nghĩa quấy rối.
Ngày 19 tháng 2 năm 1979, nhóm cố vấn quân sự cao cấp của Liên Xô tới Hà Nội để gặp các tướng lĩnh chỉ huy của Việt Nam. Moskva yêu cầu Trung Quốc rút quân. Liên Xô cũng viện trợ gấp vũ khí cho Việt Nam qua cảng Hải Phòng, đồng thời dùng máy bay vận tải chuyển một số sư đoàn chính quy Việt Nam từ Campuchia về.
Trong giai đoạn sau, cả hai bên đều tăng cường thêm lực lượng và cuộc chiến tiếp tục, trong đó quyết liệt nhất là hướng Lạng Sơn. Tại đây sư đoàn bộ binh 3 Sao Vàng, một đơn vị thiện chiến của Việt Nam từng qua đánh Mỹ cùng một số sư đoàn khác đã tổ chức phòng thủ chu đáo. Sau nhiều trận đánh đẫm máu bất kể tổn thất, quân Trung Quốc vào được thị xã Lạng Sơn chiều ngày 4 tháng 3 năm 1979. Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Đồng thời phía Việt Nam cũng điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng.
Cũng trong ngày 5 tháng 3 năm 1979,do áp lực của Liên Xô, sự phản đối của quốc tế, đồng thời cũng đã chiếm được các thị xã lớn của Việt Nam ở biên giới, Bắc Kinh tuyên bố hoàn thành mục tiêu chiến tranh, chiến thắng và bắt đầu rút quân. Mặc dù chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi nhưng đến ngày 18 tháng 3 năm 1979 quân Trung Quốc đã hoàn tất rút khỏi Việt Nam.
Kết quả cuộc chiến
Theo tuyên bố của phía Trung Quốc: quân Trung Quốc có 6.900 người chết, 14.800 người bị thương và 240 người bị bắt. Quân Việt Nam có 60.000 người chết và bị thương, 1.600 người bị bắt.


Theo tuyên bố của phía Việt Nam: quân Trung Quốc có 62.500 người chết và bị thương, tổn thất 280 xe tăng, 115 khẩu pháo cối và 270 xe quân sự. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, không có số liệu về tổn thất của các lực lượng vũ trang.
Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam : 4/4 thị xã bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.
Về lâu dài, nó mở đầu cho hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung đột vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia, buộc Việt Nam phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả xấu đến nền kinh tế. Sinh hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra, nhiều cột mốc biên giới cũng bị quân Trung Quốc phá hủy, gây khó khăn cho việc hoạch định biên giới sau này.
Các nhà quan sát phương Tây nhận định như sau:
Về mặt chiến thuật, Trung Quốc thất bại vì tuy Việt Nam chưa kịp đưa các đơn vị ở Campuchia về tham chiến mà quân Trung Quốc vẫn chịu tổn thất nặng.
Về mặt chiến lược, Trung Quốc thành công vì đã chứng minh rõ bản chất không thật của hiệp ước tương trợ quân sự giữa Liên Xô và Việt Nam, và đã chứng minh khả năng lưỡng đầu thọ địch sẽ không xảy ra. Cũng có một số nhà quan sát cho rằng Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lúc bấy giờ có hai khuynh hướng, một thiên về Đặng Tiểu Bình, người muốn cải tổ quân sự trong toàn bộ chiến lược cải cách Trung Quốc, và một chống đối lại cải tổ. Tài liệu phương Tây cho rằng tai hại chiến lược to lớn nhất cho Việt Nam là cuộc chiến này đưa đến việc phe cải tổ thắng thế: Trung Quốc dồn sức hiện đại hóa các đơn vị chủ lực và đã thành công. Điều này sẽ thấy rõ sau này trong Chiến tranh biên giới Việt Trung 1984-1988, khi Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Sau khi Liên Xô tan rã, đến năm 1992 quan hệ giữa hai nước mới được bình thường hóa.

Nguồn:http://www.quansuvn.net và http://vndefence.info.

hathang
17-03-2008, 02:46 PM
bài này hay đấy, tớ rất thích đề tài quân sự, có thêm cái nào post tiếp đi bạn Nga ngố ơi

totenkopf
18-03-2008, 01:22 AM
Tổng kết về cuộc chiến theo các bên :

Phía Trung Quốc :

Tuyên bố chính thức do Bộ Tổng tham mưu QGPND TQ đưa ra : tổng thiệt hại của quân giải phóng TQ là 6.954 chết, 14.800 bị thương và 240 bị bắt. Một nguồn khác cũng của TQ lại cho biết số thiệt hại là 30.000 người (20.000 trên hướng đông bắc và 10.000 trên hướng tây bắc). Thiệt hại của Việt Nam là 60.000 chết và bị thương, 1.600 bị bắt.

Theo The Sino Vietnamese War Trung Quốc tuyên bố đã tiêu diệt được trung đoàn 12, sư đoàn 316A, 345, 346 của Việt Nam.
Báo cáo nội bộ ban đầu của Quân giải phóng TQ tuyên bố đã diệt được và đánh thiệt hại nặng sư đoàn 316A, 325B, 327, 338, 345, 346 của VN. Tổng cộng 19 trung đoàn và 25 tiểu đoàn, 35 đồn biên phòng (?). Diệt 55.000 người VN và bắt 2.173 người, thu 916 pháo cối, 1.606 RPG, 236 súng tự động, phá huỷ 54 xe tăng thiết giáp, 781 pháo cối (!). Gài lại trên đất VN 8 vạn quả mìn (một số nguồn khác lại cho rằng số mìn gài lại lên tới hàng trăm ngàn quả).

Quân đoàn 41 diệt được 5.581 lính VN và bắt 320 người.
Quân đoàn 42 diệt được 4.605 lính VN và bắt 389 người.
Quân đoàn 43 diệt được 5.168 lính VN và bắt 101 người.
Quân đoàn 55 diệt được tới 10.786 lính VN và bắt 310 người. Riêng sư đoàn 163 của quân đoàn này diệt được tới 5.293 lính VN.
(www.china-defense.com)


Phía Việt Nam :

Theo Chinese Aggression : How and Why it failed, Trung Quốc chết và bị thương 62.500 lính, mất 280 xe tăng thiết giáp, 270 xe quân sự, 115 khẩu pháo cối.
Trong đó :
Mặt trận Lạng Sơn : diệt 19.000 lính TQ, phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp và 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo-cối và giàn phóng hoả tiễn, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn (có hơi khác biệt so với kí sự Sư đoàn Sao Vàng).
Mặt trận Cao Bằng : diệt 18.000 lính TQ, phá hủy 134 xe tăng, thiết giáp và 23 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn.
Mặt trận Hoàng Liên Sơn (Lào Cai) : diệt 11.500 lính TQ, phá hủy 66 xe tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn.
Mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên : diệt 14.000 lính TQ, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn.
Tính theo thời gian : trong tuần đầu tiên số thương vong của TQ là 16.000 người, đến 28-2 là 27.000 người, đến 5-3 là 45.000 người, đến 18-3 là 62.500 người.
Các tư liệu khác của VN cơ bản thống nhất với thống kê này.


Đánh giá của phương Tây :

Theo Brassey''''s Encyclopedia of Military History and Biography và The Sino Vietnamese War :

Trung Quốc : chết 26.000, bị thương 37.000, bị bắt 260, thiệt hại 420 xe tăng thiết giáp, 66 khẩu pháo cối.
Việt Nam : chết 30.000, bị thương 32.000, bị bắt 1.638, thiệt hại 185 xe tăng thiết giáp, 200 khẩu pháo cối, 6 dàn tên lửa.

Theo The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs” : TQ mất 60.000 quân với 26.000 chết.

Theo J.Bercovitch & R.Jackson, International Conflict : A Chronological Encyclopedia of Conflicts and Their Management 1945-1995 (1997) : giai đoạn 1979-1982 có hơn 50.000 người chết của cả hai bên.

Theo Vietnam in Military Statistics (1995), Michael Clodfelter; World Political Almanac, 3rd Ed. (Facts on File: 1995) by Chris Coo, www.time.com có 20.000 người chết của cả hai bên.

Theo SIPRI Yearbook 1988, Stockholm International Peace Research Institute , Eckhardt, thiệt hại của cả hai bên là 21.000 về binh sĩ và 9.000 về dân thường.

Theo M.Small & J.D.Singer, Resort to Arms : International and Civil Wars 1816-1980 (1982) : TQ có 13.000, VN có 8.000 người chết.

(http://users.erols.com/mwhite28/warstat5.htm#Sino-Vietnamese)

Theo FIGHTING TO MAKE A POINT: POLICY-MAKING BY AGGRESSIVE WAR ON THE CHINESE BORDERS, quân đội TQ bị thương vong 46.000 người và mất 400 xe tăng.

Một tài liệu hải ngoại đưa ra con số : TQ tổn thất 60.000 quân và 280 xe tăng, VN tổn thất 30.000 người gồm cả bộ đội và dân thường. Không rõ nguồn.

khoailang
18-03-2008, 11:18 AM
bài viết hay đấy, lâu lắm rồi mới có dịp ngồi đọc những bài tìm hiểu về lịch sử, tuy là thi lại LSĐ đấy nhưng khi nhìn thấy thì vẫn muốn đọc:newschoolsemester::newschoolsemester:

LonelySoul
18-03-2008, 04:22 PM
Điều này sẽ thấy rõ sau này trong Chiến tranh biên giới Việt Trung 1984-1988, khi Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn.

Lâu lắm mới lại được dán mắt vào đọc 1 đoạn lịch sử tuyệt như thế này :1: , cảm ơn bạn về tài liệu một lần nữa, rất vui nếu bạn tiếp tục tìm và đưa lên những tư liệu về Chiến tranh biên giới Việt Trung 1984-1988 :D

nobita85uct
18-03-2008, 04:31 PM
Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam : 4/4 thị xã bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.

chiến tranh & hậu quả do nó để lại.

LENGOCSON
18-03-2008, 04:33 PM
Tuyệt vời,cảm ơn anh hay chị nhé.
Chúng ta cùng hướng tới 1 tương lai tươi sáng kô chiến tranh.
Hãy luôn cảnh giác với người láng giềng khủng lồ ....

totenkopf
19-03-2008, 02:23 AM
Giai đoạn chiến tranh sau 79 :


Ngày 5 tháng 6 năm 1981, quân Trung Quốc bắn dồn dập hàng nghìn quả đạn pháo và cối sang nhiều khu vực thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, sau đó dùng lực lượng lớn đánh chiếm khu vực bình độ 400 ở phía nam cột mốc 26 thuộc lãnh thổ Việt Nam. Ngày 7 tháng 6 năm 1981, nhiều đơn vị lính Trung Quốc dưới sự yểm trợ của pháo binh, tiến công đánh chiếm một số điểm cao ở xã Lao Chải, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên… Các cuộc tiến công, lấn chiếm của quân Trung Quốc càng dồn dập hơn vào năm 1984. Từ ngày 5 đến ngày 6 tháng 4, sau khi dùng pháo binh bắn phá dữ dội, 2 tiểu đoàn quân Trung Quốc đánh chiếm điểm cao 820, 636 thuộc xã Quỗc Khánh, huyện Tràng Định, tỉnh Lạng Sơn. Ngày 18 tháng 4, 2 đại đội quân Trung Quốc đánh chiếm điểm cao 1250 thuộc huyện Yên Minh, tỉnh Hà Tuyên. Đặc biệt, từ ngày 28 tháng 4 đến ngày 1 tháng 5, Trung Quốc sử dụng quân đoàn 14 và một số sư đoàn độc lập thuộc Đại quân khu Côn Minh tiến công các điểm cao 1545, 1509, 772, 233, 1250 thuộc tỉnh Hà Tuyên, Việt Nam. Bộ đội Việt Nam đã kiên cường chiến đấu, đánh thiệt hại nặng các lực lượng tiến công, phá hủy 11 trận địa pháo, 1 kho đạn, 13 xe vận tải và xe kéo pháo… Trong các trận tiến công lấn chiếm này, phía Trung Quốc coi là “…trận đánh tranh giành thu hồi vùng đất Lão Sơn, Giả Âm Sơn…”.

Sự thật về 9 lần xuất quân lớn của Trung Quốc, NXB Đà Nẵng, 1996


Một số nguồn khác:

Trước khi bùng nổ trở lại năm 1984, trước đó năm 1981 còn diễn ra một số cuộc giao tranh, lực lượng TQ tham gia trận chiến ở Gao Lin Shan là trung đoàn biên phòng 15 và sư đoàn bộ binh 42 quân đoàn 14, ở Fa Car Shan là sư đoàn 3 biên phòng tỉnh Quảng Tây (theo www.orbat.com).
Phía VN cũng ghi nhận xung đột giai đoạn này ở Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn. Đặc biệt, trong đó có dải bình độ 400 ở Cao Lộc (Lạng Sơn) đã bị quân TQ chiếm đóng từ 1981-1997 (nguồn : Ngoại giao Việt Nam). Nhưng nói chung xung đột năm 1981 không lớn.

Ngày 28-4-1984, quân đội Trung Quốc tấn công đánh chiếm đỉnh 1509 (Lão Sơn)
Giai đoạn tấn công gồm sư đoàn 40 quân đoàn 14 đánh chiếm Lao Shan (Lão Sơn), trung đoàn 122 sư đoàn 41 quân đoàn 14 đánh chiếm Hu Dong Shan, sư đoàn 31 quân đoàn 11 đánh chiếm Jer Yan Shan (Giả Âm Sơn).
Từ đỉnh 1509 (nằm ngay trên đường biên), TQ theo sống núi lấn dần xuống các bình độ phía dưới, cũng như nhiều điểm tựa xung quanh.
Ở Hà Tuyên đã diễn ra nhiều trận giành giật quyết liệt, nhất là ở 1509 và núi Bạc (Giả Âm Sơn).

totenkopf
21-03-2008, 01:59 AM
Sau khi tuyên bố rút quân năm 1979, biên giới Việt - Trung tiếp tục căng thẳng, TQ thường xuyên duy trì 12 sư đoàn cùng hàng chục trung đoàn độc lập áp sát biên giới buộc VN cũng phải duy trì một lực lượng tương đương nhằm bảo vệ lãnh thổ. Mục đích thực sự của TQ là làm cho VN suy kiệt về kinh tế và quân sự trong thời gian dài. TQ đã phần nào đạt được mục đích: Để đảm bảo có đủ lực lượng phòng ngự biên giới phía bắc và đồn trú tại Campuchia, chỉ riêng lực lượng lục quân đã lên đến gần 1 triệu người; cộng với mua sắm, nâng cấp vũ khí khí tài, chi tiêu quân sự thật sự là một gánh nặng với một nền kinh tế yếu kém, lại vừa thoát khỏi chiến tranh như VN. Hậu quả là trong những năm 80, kinh tế VN khủng hoảng: khan hiếm hàng hoá, lạm phát phi mã, các mục tiêu kinh tế của kế hoạch 5 năm không thể hoàn thành.... dẫn tới mất ổn định, xáo trộn lớn trong xã hội, đời sống nhân dân khó khăn.

Khác với năm 1979, chiến tranh biên giới trong những năm tiếp theo, ngoài những trận đấu pháo, chủ yếu là các cuộc tấn công lấn chiếm của phía TQ: nhỏ lẻ và dai dẳng. Mục tiêu được các phương tiện tuyên truyền của Bắc Kinh đưa ra: " cứa cho VN chảy máu". Chiến trường chủ yếu là khu vực biên giới thuộc tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà Giang), tuy quy mô nhỏ nhưng về độ ác liệt không hề thua kém những cuộc chiến tranh trước đó, thậm chí còn được so sánh với mùa hè đỏ lửa 1972. Chiến sự bùng nổ vào năm 1984 tại hướng Yên Minh - Vị Xuyên thuộc Hà Tuyên, giải phóng quân nhân dân TQ tiến hành hàng loạt đợt đột nhập quy mô, tiến sâu vào lãnh thổ VN tại một số khu vực từ 1.5 - 2 km, triển khai quân trên 29 điểm cao thuộc lãnh thổ VN. Quân đội Nhân dân VN đã kiên quyết đánh trả quân xâm lược, bảo vệ lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc. Trong đó, ác liệt nhất là cuộc chiến dành dật điểm cao 1509 thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên (TQ gọi là Lão Sơn). Sau đây là diễn biến và kết quả trận đánh này theo cả 2 phía:

* từ chinadefence.com:

Núi Lão Sơn, cao 1.422m so với mực nước biển nằm trong lãnh thổ VN, thuộc xã Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà Giang), có cao độ lớn nhất trong toàn chiến trường Thanh Thủy. Đỉnh 1509 của nó nằm ngay trên đường biên giới, sống núi nằm dọc theo hướng tây bắc. Sau cuộc chiến năm 1979, 1509-Lão Sơn được quân đội VN xây dựng thành một vị trí phòng ngự quan trọng, từ đó họ có thể mở các cuộc đột kích vào lãnh thổ TQ (sản phẩm của cơ quan tuyên truyền TQ).
Ở 1509, lực lượng phòng ngự của VN theo phía TQ là ở cấp tiểu đoàn. Tuy nhiên, điều này có thể là phóng đại, lí do là địa hình khu vực khá hiểm trở không thể cho phép bố trí một số quân lớn như vậy chỉ trên một đỉnh (thực tế các trận địa phòng ngự khác của VN đều ở cấp đại đội trở xuống).

Năm 1984, quân đội TQ tiến công đánh chiếm 1509. Sự kiện này được coi là chính thức mở màn cuộc chiến biên giới Việt-Trung lần thứ hai.
05h50 ngày 28-4-1984, trung đoàn bộ binh 118 thuộc sư đoàn bộ binh 40, quân đoàn 14, Đại quân khu Côn Minh được pháo binh chi viện với mật độ cao tấn công đỉnh 1509. Ngoài ra quân TQ cũng tổ chức đánh chiếm một số cao điểm khác ở xung quanh.
06h24, bộ binh TQ bắt đầu xung phong.
Phía TQ đánh giá là chỉ vấp phải sức kháng cự yếu. Tuy nhiên qua nhiều thông tin của phía TQ thì không hoàn toàn như vậy. Trung đoàn 118 của TQ phải đến 15h30 mới hoàn toàn chiếm được đỉnh 1509 sau khi đơn vị phòng ngự hy sinh đến người cuối cùng. Đặc biệt, có 4 nữ chiến sĩ cố thủ trong hang đá, không chịu đầu hàng và lính TQ đã phải dùng súng phun lửa mới tiêu diệt được những cô gái kiên cường này. Quân TQ cũng bị thương vong nặng : trung đoàn 118 bị chết 198 lính cùng một số bị thương. Trong đó một tiểu đoàn của trung đoàn này có tới 70% quân số bị loại khỏi vòng chiến.

Tiếp sau đó là những đợt phản kích của VN.
Ngày 11-6-1984, lúc 03h00, một lực lượng cấp tiểu đoàn của VN đã tấn công 1509. Mặc dù bộ đội VN đã đột kích được vào trong trận địa địch nhưng sau đó đã bị đẩy lùi.

Ngày 12-7-1984, được coi là trận đánh lớn nhất của giai đoạn 1984-1991. Theo phía TQ, phía VN đã huy động 6 trung đoàn bộ binh thuộc các sư đoàn bộ binh 312, 313, 316 và 356 để tấn công 1 trung đoàn bộ binh TQ phòng ngự ở 1509. Quân TQ được sự yểm trợ của hàng vạn quả đạn pháo đã đẩy lui cuộc tấn công. Theo phía TQ thì VN bị tổn thất rất lớn, riêng số xác bỏ lại trận địa là 3.700 !
Con số trên thực tế là quá phóng đại, khu vực điểm cao 1509 rất hiểm trở, chiến trường chỉ rộng 5 -6 km2 không cho phép triển khai một lực lượng khổng lồ như vậy. Theo thông tin của VN, trung đoàn bộ binh 982 của sư đoàn bộ binh 313 đã tái chiếm thành công 1509. Nhưng sau đó bộ phận phòng ngự vì nhiều lí do đã tự ý bỏ chốt và TQ chiếm được 1509 lần thứ hai. Kể từ đây không có thêm trận phản kích nào nữa. Từ 1509, quân TQ lấn xuống tới bình độ 1200 thì bị chặn lại, bộ đội VN giữ được từ bình độ 1100 trở xuống.

Các trận giành giật tiếp tục diễn ra, chủ yếu với quy mô đại đội, ác liệt nhất trong những năm 1984-1987. Từ đó trở về sau, giao tranh bộ binh ít dần, hai bên chủ yếu sử dụng pháo. Trận đụng độ bộ binh cuối cùng diễn ra ngày 13-2-1991.

Tổng hợp từ phía VN:(không rõ nguồn)

Từ sau năm 1979, quân TQ tiếp tục tấn công lấn chiếm vào đất ta ở nhiều điểm.
Ở địa bàn QK1, địch đánh chiếm bình độ 400 (Lạng Sơn), cao điểm 820, 630.
Ở địa bàn QK2, tháng 8-1980, địch đánh cao điểm 1992 (Sín Mần, Hà Tuyên). Tháng 5-1981 đánh cao điểm 1800A-1800B (Lào Chải, Hà Tuyên). Tháng 2-1982 tấn công vào Đồng Văn, Mèo Vạc. Tháng 4-1983 tấn công vào Mường Khương.
Đặc biệt từ tháng 4-1984 địch tập trung tấn công lớn vào Vị Xuyên.

Thời điểm này, ta bố trí dọc tuyến biên giới 3 quân đoàn, 11 sư đoàn, 13 trung đoàn và 70 tiểu đoàn độc lập. Các lực lượng bảo đảm, phục vụ... tuyến sau tương đương 4-6 sư đoàn. Tổng quân số khoảng 300.000 người. Ngoài ra, sâu trong nội địa còn có 3 quân đoàn chủ lực Bộ làm dự bị.

Mặt trận biên giới Vị Xuyên diễn ra từ tháng 4-1984 đến tháng 4-1989, chia thành 4 thời kỳ :
- Từ 2-4-1984 đến 16-5-1984 : địch tiến công lớn, ta phòng ngự.
- Từ 16-5-1984 đến 7-1-1987 : ta củng cố phòng ngự, tổ chức tiến công một số điểm bị chiếm đóng, địch tiếp tục tấn công lấn chiếm.
- Từ tháng 2-1987 đến tháng 12-1988 : ta và địch đều ngừng tiến công lớn, chủ yếu củng cố phòng ngự và bắn pháo.
- Từ tháng 12-1988 đến tháng 4-1989 : địch ngừng bắn phá và bắt đầu rút dần một số điểm.

Trong 5 năm từ 1984-1989, địch đã dùng 20 lượt sư đoàn, 171 lượt trung đoàn đến đại đội tấn công lấn chiếm vào đất ta 1-2km.

Phía ta cũng 7 lần thay phiên các sư đoàn chủ lực lên chiến đấu.
Về phía QK1 có trung đoàn bộ binh 981, 982, 983.
QK2 có sư đoàn bộ binh 313, 314, 316, 356; lữ đoàn công binh 543, lữ đoàn pháo binh 168, lữ đoàn cao xạ 297, trung đoàn xe tăng 406. trung đoàn thông tin 604, trung đoàn vận tải 652, các tiểu đoàn đặc công, trinh sát, các đơn vị địa phương của BCHQS tỉnh Hà Tuyên và trung đoàn bộ binh 754 của BCHQS tỉnh Sơn La.
Đặc khu Quảng Ninh có trung đoàn bộ binh 568 (sư đoàn bộ binh 328).
QĐ1 có sư đoàn bộ binh 312, QĐ2 có sư đoàn bộ binh 325, QĐ3 có sư đoàn bộ binh 31, lữ đoàn pháo binh 368 thuộc BTL Pháo binh...
Ngoài ra còn nhiều đơn vị lên với hình thức quân tăng cường, lên vẫn lấy phiên hiệu đơn vị phòng ngự cũ.

Bố trí lực lượng phòng ngự có 2 khu vực :

Khu vực Tây sông Lô :
- Từ đầu năm 84 đến 12-85 : F313 và 356 + 1 E của QK1.
- Tháng 12-85 : F31 thay F313.
- Tháng 6-86 : F313 thay F31.
- Tháng 2-87 : F356 thay F313.
- Tháng 8-87 : F312 thay F356.
- Tháng 1-88 : F325 thay F312.
- Tháng 9-88 : F316 thay F325.
- Tháng 5-89 : F313 thay F316.
Ở hướng này khoảng 6 tháng ta thay quân một lần. Riêng F313 có đợt chiến đấu kéo dài liên tục gần 1 năm, gặp rất nhiều khó khăn.

Khu vực Đông sông Lô :
- Từ đầu năm 84 : E266 (F313).
- Tháng 7-84 : E141 (F312) thay E266 (F313).
- Tháng 4-85 : E568 (F328) thay E141 (F312).
- Tháng 11-85 : E818 (F314) thay E568 (F328).
- Tháng 2-87 : E881 (F314) thay E818 (E314).
- Tháng 9-87 : E818 (F314) + 1D tăng cường của E754 thay E881 (F314).
- Tháng 6-88 : E728 (F314) thay E818 (F314).
- Tháng 10-88 : E247 (BCHQS tỉnh Hà Tuyên) thay E728 (F314).
Hướng phòng ngự Đông sông Lô gặp nhiều khó khăn hơn phía Tây, nhiều đơn vị phải chiến đấu những đợt kéo dài 7-10 tháng.

Diễn biến chính :

Từ ngày 2-4 đến 28-4-1984, địch tập trung pháo binh bắn phá khu vực Vị Xuyên, từ điểm cao 1545 đến điểm cao 1030. Trong 26 ngày đêm địch đã bắn tổng cộng 30.000 viên đạn pháo cối các loại. Riêng từ ngày 28-4 đến 30-4-1984, địch bắn 12.000 quả đạn pháo vào 6 điểm tựa của ta để chi viện cho bộ binh của chúng (thuộc sư đoàn 40, quân đoàn 14 ĐQK Côn Minh) tấn công đánh chiếm các điểm cao 226, 233, bình độ 300-400, 1509, 772, 685. Trong 2 ngày địch đã đánh chiếm được 226, 233, 772, 1509, bình độ 300-400, E1, 685 do trung đoàn 122 (sư đoàn 313 QK2) của ta phòng ngự, lấn vào lãnh thổ VN khoảng 2km.

Ngày 15-5-1984, địch mở đợt tiến công Đông sông Lô (từ điểm cao Si Cà Lá đến M13) với lực lượng 1 trung đoàn tăng cường (sư đoàn 40, quân đoàn 14 ĐQK Côn Minh). Sau 1 ngày chiến đấu, địch đã chiếm được các điểm cao 1030, Si Cà Lá, 1250, đài 2, M13 do trung đoàn 266 (sư đoàn 313 QK2) của ta phòng ngự.

Như vậy, từ 28-4 đến 16-5-1984, địch đã chiếm 18 điểm, triển khai phòng ngự chốt giữ 29 điểm trên lãnh thổ VN. Trong đó có khu 1509, 772 mà chúng gọi là Lão Sơn, khu 1250, 1030, Si Cà Lá (Núi Bạc) mà chúng gọi là Giả Âm Sơn.

Tháng 6-1984, Bộ Tư lệnh mặt trận của ta quyết định tổ chức tiến công để giành lại các chốt bị chiếm đóng. Lực lượng tham gia đợt tiến công này gồm 3 trung đoàn .
- Trung đoàn 141 (sư đoàn 312 QĐ1) đánh 1030, Si Cà Lá.
- Trung đoàn 174 (sư đoàn 316 QK2) đánh 233, bình độ 300-400.
- Trung đoàn 786 (sư đoàn 356 QK2) đánh 772 phát triển sang 685.
Cần lưu ý rằng tuy gọi là trung đoàn nhưng lực lượng thực sự tham gia chiến đấu chỉ có 1-2 tiểu đoàn.

Ngày 12-7-1984, ta nổ súng tiến công địch. Tuy đã chiến đấu rất quyết liệt nhưng đợt tiến công của ta đã không thành công.

Đến tháng 11-1984, Bộ Tư lệnh mặt trận hạ quyết tâm mở tiếp một đợt tấn công vây lấn. Lần này các đơn vị có 4 tháng chuẩn bị.
- Các đơn vị thuộc sư đoàn 313 QK2 vây lấn địch ở bình độ 300-400.
- Các đơn vị thuộc sư đoàn 356 QK2 vây lấn địch ở 685.
Đợt chiến đấu kéo dài từ 18-11-1984 đến 18-1-1985 (ta ngừng tiến công vào dịp Tết Nguyên đán). Mặc dù chưa khôi phục hoàn toàn khu vực A5, 300-400, 685 nhưng ta đã giành lại được một số chốt, hình thành thế phòng ngự xen kẽ, bám sát địch, có nơi chỉ cách địch 15-20m như đồi Chuối, đồi Cô X, đồi Đài, A4, khu Cót Ép, khu E và mỏm E2, E3, E5 của 685. Cá biệt có những nơi như ở Bốn hầm, chốt của ta và địch chỉ cách nhau 6-8m.
Trong 2 năm 1985-1986, địch tiếp tục mở nhiều đợt tiến công lấn chiếm trận địa của ta. Chiến sự diễn ra khá quyết liệt, có những nơi như ở Bốn hầm ta địch giành giật nhau tới 38 lần, điểm cao 685 41 lần, đồi Cô X 45 lần. Pháo cối địch tiếp tục bắn phá hàng vạn quả đạn vào lãnh thổ ta. Riêng trong 3 ngày từ 5-1 đến 7-1-1987, pháo địch đã bắn 100.000 quả đạn.

Kể từ năm 1987 trở đi, chiến sự ở mặt trận biên giới Vị Xuyên dần dần lắng xuống. Ngày 21-12-1988, lần đầu tiên địch ngừng bắn pháo vào Vị Xuyên, nơi chưa hề có một ngày im tiếng pháo kể từ năm 1984. Từ năm 1989, địch giảm bắn pháo và rút khỏi một số điểm ở phía Bắc suối Thanh Thủy.
Ngày 13-3-1989, địch rút khỏi 20 điểm chiếm đóng và đến tháng 9-1989, địch rút khỏi 9 điểm còn lại.

Kết quả chiến đấu :

- Trong 5 năm tác chiến, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu 15.000 tên địch, bắt 325 tù binh (bắt 6 tên trong chiến đấu và 319 tên thám báo, trinh sát đột nhập).
- Đánh thiệt hại nặng 4 trung đoàn, 43 tiểu đoàn, 18 đại đội, 10 trung đội; đánh thiệt hại vừa 4 tiểu đoàn, 5 đại đội, 4 trung đội; đánh thiệt hại nhẹ 4 tiểu đoàn, 7 đại đội, 10 trung đội.
- Phá hủy 100 khẩu pháo các cỡ, 100 khẩu súng cối các cỡ, tiêu diệt 13 trận địa pháo cối, 170 xe vận tải, 130 kho tàng, 1.550 ụ súng, lô cốt, hoả điểm, đài quan sát của địch...
- Thu 50 khẩu súng bộ binh, 50 máy thông tin cùng một số khí tài khác.

Tổng cộng trong thời gian từ 1984-1989, địch đã bắn vào khu vực Vị Xuyên 1.858.613 quả đạn pháo cối các loại. Trung bình mỗi ngày từ 10.000-20.000 quả. Có đợt 3 ngày (5 đến 7-1-1987) bắn 100.000 quả. Có ngày bắn tới 61.115 quả.

Thông tin trên đây được sưu tầm và biên soạn bởi chiangshan, một thành viên của TTVNOnline. Chi tiết, bạn có thể xem tại: http://www9.ttvnol.com/forum/gdqp/476742.ttvn

l0ng_ch4u
21-03-2008, 10:53 AM
đọc bài này hay quá đi mất!
làm cho mình hỉu thêm về lịch sử hơn

hoaln
03-11-2008, 07:44 PM
Hình ảnh cuộc Chiến tranh Biên Giới - Việt-Trung 1979-1989

http://s.image.tagvn.com/thumb/imagethumb?src=/images/1497055622.1218685762.jpg&q=100&w=454&h=500&iar=1&fltr%5B%5D=lvl

Mình xin được cung cấp 1 số hình ảnh, tài liệu được cung cấp liên quan đến cuộc chiến tranh chống giặc Trung Quốc xâm lăng này. Tô Mai Hồng (Xu Meihong) Một trong những điều làm cho binh sĩ của chúng ta bực tức nhất là nữ du kích Việt Nam. Trong khi tiến phía nam, chỗ nào đã đi qua rồi là chúng ta coi như vùng đó là nơi an toàn, nhưng sự thật thì không phải như thế vì trên nội địa Việt Nam không có nơi nào có thể gọi là nơi an toàn đối với chúng tôi cả. Một đoàn xe tăng T59 đi hàng một trên một con đường núi nhỏ hẹp. Gặp khúc quanh ngặt, xe dẫn đầu phải chạy rất chậm mới có thể quẹo được; nhưng trong khi rẽ thì lổ châu mai dùng để nhắm vẫn đứng yên bất động, không quay theo hướng của chiếc xe. Và chính lúc đó là lúc mà tên du kích dùng súng của bắn vào lổ châu mai và giết chết người lái xe. Lái xe của 7 chiếc xe tăng đều bị giết chết khi họ muốn quẹo xe và cả đoàn cơ giới đành phải dừng lại vì không có bộ binh đi theo hộ tống, và ai cũng tưởng đã gặp phải sức chống cự của một lực lượng hùng hậu của địch. Rồi mọi xe tăng đều bắt đầu xạ kích lung tung vì không thấy mục tiêu. Khi dứt tiếng súng thì cảnh vật lại trở về im lặng với cây rừng. Sau đó một chốc, một đại đội bộ binh được điều đến để lục soát trong vùng. Cuối cùng họ bắt được một nữ du kích Việt Nam với một khẩu súng. Viên chỉ huy đoàn xe giận quá bèn cho lột trần cô ta, trói cả tay chân rồi ném ra giữa đường. Ông ta nhảy lên một chiếc xe và lái xe này chạy qua chạy lại nhiều lần qua cô gái cho đến khi chỉ còn một mớ thịt bầy nhầy trải trên mặt đường núi. Trong khi đó binh sĩ của ông ta lên tiếng cổ vũ rầm rĩ vang cả khu rừng.



http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/195.jpeg

Nữ du kích Việt Nam bắt sống bọn Tàu

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/260.jpeg

Quân ta hy sinh

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/tu_20binh.jpeg

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-13-1062590580.jpeg

Du kích Việt Nam rule!

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-17-1070710986.jpeg

Trung Quốc tiến vào Việt Nam

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-13-1062654455.jpeg

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-13-1062591083.jpeg

Trung Quốc quỳ gối dưới Việt Nam

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-13-1062592102.jpeg

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-4-25301-122_3.jpeg

Vi Xuyen- Ha Giang 1984

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-4-31942-13100265161155108131.jpeg

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-17-1068448809.jpeg

Trung Quốc ở Lào Sản

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-17-1068725119.jpeg

Quân VN trở về sau cuộc chiến

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-17-1068759641.jpg owned!

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-17-1069223394.jpeg

Hà Giang 1984

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-13-1068698580.jpeg

Trên Biên Giới những năm 1984

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/cave_895.jpg

1 nhóm Trung Quốc tấn công vào hang động, chúng ta đã sử dụng lựu đạn và RPG-7 để tiêu diệt chúng.

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-13-1079016223.jpeg

Chiến sĩ đi tuần trên biên giới

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-17-1092208766.jpeg

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/192530.jpeg

Quân Trung Quốc áp giải du kích VN

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-17-1092209391.jpeg

Tàu thương vong vô số

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-4-43716-1204.jpeg

Quân Trung hành quân

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-17-11037936161.jpg

T62 tank - 1979

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/post-17-1103793026.jpg

Trung Quốc tiến vào thị xã VN

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/pow3b.jpeg

Bắt sống gián điệp Trung Quốc những năm 1984

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/niceshot01.jpg

Ai bắn quả này phải tuyên dương anh hùng! Nice shot!

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/v8_1_1.jpeg

Su khi quân VN trở về Lạng Sơn. Trung Quốc đã san bằng

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/3020.jpeg

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/3024.jpeg

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/3016.jpeg

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/vn04_06b.jpeg

Lạng Sơn 1979

Tô Mai Hồng (Xu Meihong) Trong cuộc chiến tranh "trừng phạt " này, chúng ta đã áp dụng chính sách tiêu thổ đối với Việt Nam. Ngay trong vùng Lạng Sơn có mỏ "lân tinh", chúng ta đã cho công binh tháo gỡ toàn bộ máy móc và dụng cụ dùng để khai thác hầm mỏ này mang về Trung Quốc. Những gì không mang đi được như đường sá, nhà cửa, các con đường hầm, đều bị phá sạch.

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/nice_faces.jpg

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/116highground.jpeg

Cao điểm 116 sau hơn 8000 quả đạn của quân ta "giã" vào chúng.

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/hatuyen1984_c.jpeg

Hà Tuyên 1984

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/anh10.jpg

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/anh11.jpg

Biên Giới 1979

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/anh18.jpg

http://www.tagvn.com/images/chientranhbiengioi/anh21.jpg

http://www.tagvn.com/Lich-su-Viet-Nam/Hinh-anh-cuoc-Chien-tranh-Bien-Gioi-Viet-Trung-1979-1989/

totenkopf
04-11-2008, 11:24 PM
Mình xin được cung cấp 1 số hình ảnh, tài liệu được cung cấp liên quan đến cuộc chiến tranh chống giặc Trung Quốc xâm lăng này. Tô Mai Hồng (Xu Meihong) Một trong những điều làm cho binh sĩ của chúng ta bực tức nhất là nữ du kích Việt Nam. Trong khi tiến phía nam, chỗ nào đã đi qua rồi là chúng ta coi như vùng đó là nơi an toàn, nhưng sự thật thì không phải như thế vì trên nội địa Việt Nam không có nơi nào có thể gọi là nơi an toàn đối với chúng tôi cả. Một đoàn xe tăng T59 đi hàng một trên một con đường núi nhỏ hẹp. Gặp khúc quanh ngặt, xe dẫn đầu phải chạy rất chậm mới có thể quẹo được; nhưng trong khi rẽ thì lổ châu mai dùng để nhắm vẫn đứng yên bất động, không quay theo hướng của chiếc xe. Và chính lúc đó là lúc mà tên du kích dùng súng của bắn vào lổ châu mai và giết chết người lái xe. Lái xe của 7 chiếc xe tăng đều bị giết chết khi họ muốn quẹo xe và cả đoàn cơ giới đành phải dừng lại vì không có bộ binh đi theo hộ tống, và ai cũng tưởng đã gặp phải sức chống cự của một lực lượng hùng hậu của địch. Rồi mọi xe tăng đều bắt đầu xạ kích lung tung vì không thấy mục tiêu. Khi dứt tiếng súng thì cảnh vật lại trở về im lặng với cây rừng. Sau đó một chốc, một đại đội bộ binh được điều đến để lục soát trong vùng. Cuối cùng họ bắt được một nữ du kích Việt Nam với một khẩu súng. Viên chỉ huy đoàn xe giận quá bèn cho lột trần cô ta, trói cả tay chân rồi ném ra giữa đường. Ông ta nhảy lên một chiếc xe và lái xe này chạy qua chạy lại nhiều lần qua cô gái cho đến khi chỉ còn một mớ thịt bầy nhầy trải trên mặt đường núi. Trong khi đó binh sĩ của ông ta lên tiếng cổ vũ rầm rĩ vang cả khu rừng.


Mình đọc bài viết này của con mụ họ Tô cũng khá lâu rồi, giờ đọc lại vẫn thấy cảm giác ghê tởm: ghê tởm sự thoả mãn điên loạn của người viết; ghê tởm sự man rợ thú tính của những nhân vật mang cái danh xưng hoành tráng: giải phóng quân nhân dân Trung Hoa................ dân khựa đông quá thành ra cũng sinh ra lắm thứ quái thai...............

@hoaln: ảnh thứ hai là quân nó tịch, ko phải người mình. [-X[-X[-X

thanh_ai
24-11-2008, 07:37 PM
bài này bổ ích thiệt đó. thank you nha./

CHAMPION
30-11-2008, 11:40 PM
Quân TÀU thời đấy còn rất lạc hậu.Quân đội TQ sau gần 30 năm hiện đại hóa,sức mạnh quân sự mạnh gấp mấy chục lần trước kia.Chiến thuật của TQ sử dụng như "biển người"hay"tiền pháo hậu xung" đã lạc hậu rồi.Nhưng thay vào đó sẽ là cuộc chiến tranh công nghệ cao