View Full Version : Có ai là fan của newage không ?
kevin kern
20-10-2007, 12:39 PM
diễn đàn mình có ai thích newage không ?
Mình rất thích newage,đặc biệt là tiếng đàn piano của kevin kern,những giai điệu đầy đam mê của yanni,hay tiếng saxophone của kenny g,...
Tất cả thật là tuyệt.
Mình cũng sưu tập được khá nhiều album về newage,ai có cùng sở thích thì chia sẻ nhé.
kevin kern
20-10-2007, 12:56 PM
Đầu tiên mình xin giới thiệu về Kevin Kern
http://meloman.pisem.net/ed2k/kevinkern.jpg
đây là trang chủ của ông
http://www.kevinkern.com/
Ông sinh ngày 22/12/1958
À,khác với các nghệ sĩ khác như yanni kevin kern chơi độc tấu piano chứ không phải hòa tấu
Một số album của ông:
* Imagination's Light (2005)
* The Winding Path (2003)
* Embracing the Wind (2001)
* In My Life (1999)
* Summer Daydreams (1998)
* Beyond the Sundial (1997)
* In the Enchanted Garden (1996)
Mình sẽ up dần lên :D ở những topic khác,chỗ này mọi người chỉ thảo luận về Newage chung chung thôi nhé.
http://www.sibelius.com/gracenotes/2006/images/kevinkern.jpg
Have Fun!
New Age là gì ?
Bạn đã từng nghe Secret Garden, Kevin Kern, hay Suzanne Ciani, Medwyn Goodall hay Dan Gibson chưa ? Tất cả là New Age đó.
Nếu vẫn chưa hình dung ra được thì ... Bạn đã từng mua CD và nghe những âm thanh nhẹ nhàng, thiên nhiên, từ khá vui nhộn cho đến những bản nhạc "night" "sweet dream" ru ngủ ? Giai điệu thiên nhiên VD như tiếng mưa tiếng gió, sóng biển rì rào, tất cả là nền của tiếng Violin, Piano, Guitar. Phần lớn giai điệu thiên nhiên này là Collection nhạc ru ngủ hay thư giản. Ngoàii ra nều như đến với Secret Garden thì ngoài relax ra lại là sự khám phá tâm hồn bạn đôi nét hồi tưởng và thần bí nữa đó.
Nguồn gốc ?
Chẳng phải cổ điển, ko phải Jazz. Vậy câu hỏi đặt ra là New Age và cả tên gọi của nó nữa tại sao lại đặt tên là NEW AGE ? Câu hỏi này được đặt ra ko biết bao nhiêu lần ở các buổi phỏng vấn các nghệ sĩ, rằng New age là gì, như thế nào, tại sao lại thế, ngài đang chơi nhánh nào trong đó, các sáng tác phần lớn của ngài có nguồn cảm hứng từ đâu ? Và câu trả lời cũng khá đơn giản, ngay cả những nghệ sĩ từng ghi tên nhiều Album cũng ko biết tại sao lại gọi là New Age. Và phần ít trong số họ còn nói là ghét cái tên ấy nữa.
Nhưng 1 điều chắc chắn rằng, It's FRESH. Khi bạn nghe nó, bạn sẽ cảm nhận được nét lãng mạn, mềm mại, và sự thay đổi hay cảm nhận trong tâm hồn. Tính chất chủ đại vẫn là thư giản, tinh thần được khích lệ và cả thiền định nữa. à à tin mình đi, đây ko phải là cảm nhận riêng của mình đâu. Mà có thể xem là định nghĩa ấy. Vì nhiều nghệ sĩ cũng nói vậy mà. Ngoài ra 1 tính chất khá phổ biến nữa là sử dụng kỹ thuật phòng thu Studio, tiếng chim hót, tiếng nước chảy réo rắt.
Cũng như Secret Garden đã từng nói, mỗi con người đèu có 1 cảm nhận khác nhau, chúng tôi ko muốn bó buộc người nghe theo cảm nhận của riêng mình. Mỗi bạn đều có 1 khu vườn bí ẩn cho riêng mình - Rolf Lovland
Bởi vì theo mình secret Garden là ban nhạc hay nhất, rung động nhất về NEW AGE mà nói. Chẳng cần phải có người iu hay bị thất tình như nhiều người thường bảo mà mới cảm thấy thấm Secret Garden. Còn khi bạn buồn, hay 1 nỗi nhớ nào đó khó diễn tả bạn lại muốn nghe Secret Garden (VD The Promise). Ngòai ra còn khá thần bí như Dream Catcher...
Phân loại ?
Theo rất nhiều trang Web tiếng Anh mà trước kia mình search google về New Age, thì New Age có rất nhiều phân nhánh, có nhiều trang Web phân chia rất phức tạp. Nhưng tin tưởng nhất là allmusic.com với con số lên đến 7 phân nhánh:
- Techno-Tribal: Gabrielle Roth and the Mirrors, Michael Brook, Djam Karet
- Solo Instrumental: Alex de Grassi, John Boswell, Liz Story
- Progressive Electronic: Ryuichi Sakamoto, Patrick O'Hearn, Robert Rich & B. Lustmord
- Neo-Classical: Peter Michael Hamel, Mannheim Steamroller, Eric Tingstad & Nancy Rumbel
- Meditation: Aeoliah, Spotted Eagle, Solitudes
- Ethnic Fusion: Tri Atma, Jesse Cook, Peter Kater & Carlos Nakai
- Contemporary Instrumental: Kitaro, Liona Boyd.
Điều này có nghĩa là ko bắt buộc đối với 1 nghệ sĩ New Age. Họ có thể chơi nhiều phong cách khác nhau, có thể trong 1 Album có bài này có bài theo phong cách khác. Ví như trường hợp Enya, thì cô chơi Celtic là chủ yếu, ngoài ra còn có Ethnic Fusion và thiệt là đặc biệt khi ko ngoại trừ cả 1 thể loại hoàn tòan khác với New Age: Alternative Pop Rock. Thế nên nếu bạn chỉ mới nghe vài bài Pop nào đó của Enya mà bảo rằng cô hoàn toàn ko phải New Age thì hoàn toàn sai lầm đó nghen. Cái này nhiều bạn hay cãi lắm á.
Nếu vẫn chưa được, mình xin giới thiệu 1 vài nghệ sĩ :
Yanni (neo-classical, Progressive Electronic gọi là new age pop cũng được)
Suzanne Ciani (electronic - acoustic piano, Progressive Electronic)
Enya (Celtic ethereal. Secret Garden cũng được gọi là Celtic đó các bạn)
Kevin Kern (piano / solo & ensemble)
Yanni và Enya thì các bạn đã biết, nhưng có thể Kevin Kern là 1 cái tên lạ. Nhạc của ông có tác dụng thư giản rất tốt. Có nhiều bài hay. New Age với ông ko gò bó ở thiên nhiên mà còn là tình yêu như Love's first smiile. Kevin Kern ông đều có Album tổng hợp Guitar cũng có Album Piano. Mà phần lớn là Piano. Chắc có lẽ ông bị mù bẩm sinh từ nhỏ nên âm nhạc của ông phần nhiều rất giống như bạn đang ở giữa khu rừng, nhưng bạn ko nhìn nó bằng mắt mà cảm nó bằng tiếng gió thổi qua tai, khi thì tung tăng nhảy múa rất nhẹ nhàng
Còn những nghệ sĩ sau thì mình chưa nghe, nhưng đã được nhắc đến : Narada Decade, David Lanz, Craig Chaquico, John Doan, Vangelis, Celtic Twilight, Patrick O'Hearn, Christopher Franke ...
(thông tin trích dẫn từ tapchiamnhac.net)
kevin kern
20-10-2007, 01:03 PM
What's New-Age Music?
I.NEW-AGE MỘT GÓC TRỜI ÂM NHẠC ĐƯƠNG ĐẠI.
_ New-Age, đôi khi được so sánh như âm nhạc không gian, cũng có vài định nghĩa mập mờ, nôm na đây là loại nhạc chú trọng giai điệu và lấy đó làm cốt lõi.
_ Những định nghĩa rõ ràng về 1 nhóm hay 1 album nào đó của New-Age thường do người nghe đưa ra những luận điểm. Những đặc điểm của dòng nhạc này chưa được định nghĩa một cách rõ ràng, cẩn thận. Một phần là do sự xuất hiện của 1 nghệ sĩ mới nào đó với những ý tưởng mới, niềm tin mới về New-Age ( New-Age beliefs ). Hoặc do nhiều nghệ sĩ hoặc band nhạc cho rằng âm nhạc của họ không phải là New-Age.
_ Đa phần New-Age được mô tả là 1 thể loại âm nhạc điện tử ( electronic music) kết hợp với việc biểu diễn khí nhạc ( instrument), duy trì thường xuyên những thứ tự hòa âm và âm nền. Những bài hát rất dài, có bài lên đến hơn 20 phút, hoặc nhiều hơn nữa cũng không phải là trường hợp cá biệt.
_ Việc điều chỉnh và sử dụng âm thanh của các nhạc cụ acoustic cũng đáng chú ý ( trong nhiều trường hợp, âm thanh điện tử được sử dụng để thay thế).
_ Việc ghi âm lại những âm thanh tự nhiên đôi khi được sử dụng như là một đoạn dạo đầu ( intro) của 1 track, hoặc cũng có thể là chủ đề xuyên suốt của bản nhạc.
_ Những đặc tính kể trên cũng được ứng dụng dưới nhiều mức độ ở những thể loại nhạc khác. Do vậy, ranh giới giữa New-Age và các dòng nhạc phụ cận là rất mong manh.
II. NHỮNG ĐỊNH NGHĨA.
_ Có 3 nhóm chính được phân loại bởi người nghe với những niềm tin khác nhau để trả lời cho câu hỏi:" What's New-Age music?". Và do vậy, các nghệ sĩ cũng được phân loại theo từng dạng của New-Age. 3 định nghĩa đó là:
1. New-Age là 1 nhánh (branch) của âm nhạc điện tử bao gồm những mảng giai điệu, những bản nhạc non-dance, được sắp đặt có chủ ý về mặt nghệ thuật và nội dung cần thể hiện. Ở đây là ngược với thể loại nhạc điển tử khiêu vũ electric dance music. Chẳng hạn như Techno hay Hiphop -> đại diện cho những dòng nhạc điện tử không giai điệu, ồn ào.....
_ Căn cứ theo quan điểm này thì các nghệ sĩ và ban nhạc như Enigma, Enya, Vangelis, Yanni, Kitaro, Secret Garden, Gregorian, Loreena Mc Kennitt, Jean-Michel Jarre, Popol Vuh, Klaus Schulze, Shuzanne Ciani, Tangerine Dream ... tất cả đều thuộc phạm vi của New-Age.
_ Tuy vậy, còn có 2 điểm thắc mắc nho nhỏ chưa được giải quyết triệt để là:
__a. Những nghệ sĩ như Enya, Vangelis, hay Edgar Froese ( nhóm Tangerine Dream) cho rằng nhạc của họ không phải là New-Age. Chỉ một vài album trong số đó được cảm nhận như là " New-Age music" hay là 1 tác phẩm âm nhạc mang tính chất tôn giáo.
__b. Âm nhạc của Vangelis hay Tangerine Dream thường thay đổi. Có nhiều album trong đó không được xem là New-Age. Ví dụ như Vangelis có nhiều tác phẩm dùng để thể hiện khả năng cắt ghép âm nhạc, hoặc các thử nghiệm về tính năng nhạc điện tử. Và do vậy, cũng khó có thể cho rằng Vangelis là 1 New-Age hoàn toàn.
2. New-Age là 1 nhánh của âm nhạc điện tử mà phần lớn các CD âm nhạc hướng về sự thiền định hoặc thư giãn. Hầy hết đều là những loại âm nhạc êm đềm, điềm tĩnh, giai điệu ít thay đổi. Điển hình như Anugana, David Arkenstone, Gardalf, G.E.N.E, Karunesh, Kitaro ..
_ Sự chính xác của định nghĩa này được xác nhận khi tất cả các nghệ sĩ trên được hỏi đều trả lời là các CD của họ đề cập đến sự suy tưởng, hồi tưởng của ý niệm.
3. New-Age là âm nhạc điện tử mà ở đó nó chứa đựng những giai điệu âm thanh êm dịu, giản đơn, thuần khiết, sâu xa, cộng với những khoảng không rộng, yên bình và những track dài.
_ Ban đầu, định nghĩa này còn khá dè dặt. Tuy nhiên, ngày càng nhiều nghệ sĩ hướng tới cách thể hiện này, nó được sử dụng rất rộng rãi. 1 số album của Vangelis và Tangerine Dream cũng có cách thể hiện như định nghĩa này. Suzanne Ciani cũng thế. Điển hình nhất cần phải kể đến Secret Garden với những khu vườn của họ. Tuy nhiên, Klaus Schulze và Enya thì có lẽ không phải, vì cả hai đều có chung một cách thể hiện rất khác với ý kiến này.
III. NHỮNG ẢNH HƯỞNG VÀ ĐỀ TÀI.
1. Ảnh hưởng:
_ Những ảnh hưởng sớm nhất đến New-Age hiển nhiên là âm nhạc điện tử, classical music, với Brian Eno và Popol Vuh là những người tiên phong.
_ Tiếp sau là âm nhạc dân tộc, world music, prog-rock, điển hình là Kitaro, Klaus Schulze, Krautrock.
_ Một phần khác từ Terry Riley và Steve Reich, cũng được xem là 1 ảnh hưởng đối với New-Age. Họ cùng với Tony Conrad, La Monte Young sử dụng những giai điệu trầm thấp, đều ( từ những năm 1960). New-Age được nối tiếp tới những bài hát kinh cầu của Gregorian vào những năm nửa cuối TK20.
2.Đề tài:
_ Những đề tài đại chúng trong New-Age bao gồm: không gian và vũ trụ ; môi trường và thiên nhiên ; tính nhân bản của con người (chân-thiện-mĩ) ; sự hòa hợp của chính bản thân với thế giới ; kể về những giấc mơ hoặc những cuộc hành trình của tâm trí hay tinh thần. VD: những album của G.E.N.E tạo ra những âm thanh như mô tả âm nhạc, không gian của những hòn đảo ở Thái Bình Dương và Địa Trung Hải. Nhóm Software có những album thể hiện những khía cạnh của âm nhạc điện tử như: Chip Meditation, Electronic Universe.
3.Tiêu đề:
_ Tiêu đề của những bài hát trong New-Age thường nói về những khía cạnh của tâm linh. VD: Principles of Lust ( Enigma) ; Purple Dawn ( Anugama) ; Shepherd Moons ( Enya) ; Straight' a way to Orion (Kitaro) ; The Quiet seft ( Gregorian).
Theo Banuvo
http://www.woim.net/forum/viewtopic.php?f=9&t=19
kevin kern
20-10-2007, 11:34 PM
Richard Clayderman
Richard Clayderman (sinh ngày 28 tháng 12 năm 1953 tại Pháp) là một nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng. Ông đã phát hành nhiều album nhạc, trong đó có các nhạc phẩm của Beethoven, Liszt, Chopin và Mozart. Richard Clayderman cũng được biết đến bởi khả năng diễn xuất tuyệt vời những bản nhạc được nhiều người ưa chuộng như Yesterday, The Sound of Silence và Memory.
http://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/thumb/c/c9/Richard_Clayderman.jpg/200px-Richard_Clayderman.jpg
Mặc dù được đào tạo để trở thành nghệ sĩ piano cổ điển, song hầu hết các đĩa nhạc của ông tập trung vào âm nhạc phổ thông với những tình khúc đương thời.
Tiểu sử
Clayderman bắt đầu học chơi piano khi lên sáu tuổi, và ông được nhận vào nhạc viện ở Paris lúc 12 tuổi. Sau khi tôt nghiệp nhạc viện ông chơi đàn như một người đệm nhạc. Cuộc đời của ông đột ngột thay đổi vào năm 1976, khi ông ta thu âm đĩa đơn "Ballade pour Adeline". Đĩa nhạc đã ngay lập tức trở nên thành công, và bán được 22 triệu bản ở 30 quốc gia. Kể từ đó, ông đã thu âm được trên 1000 bản nhạc và trở thành một trong những nhạc sĩ chơi đàn thành công nhất trên thế giới. Thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp, ông đã từng đi biểu diễn 200 buổi hòa nhạc trong vòng 250 ngày.
Ông thường được coi là người đi tiên phong với những bản nhạc nổi tiếng của Hollywood và của các nghệ sĩ nhạc pop, chẳng hạn như ABBA, được trình điễn qua tiếng đàn piano.
http://www.pianored.com/images/richard-clayderman.jpg
Thành công và phê bình
Clayderman rất nổi tiếng ở các nước thế giới thứ ba, nhiều nhà phê bình cho rằng nhạc của ông là "nhạc thang máy", bởi vì các tác phẩm của ông được chơi ở những nơi không gian rộng rãi, chuyển tiếp như thang máy, khu buôn bán...
Mặc dù là một nhạc sĩ rất nổi tiếng và bán được nhiều đĩa nhạc, Clayderman vẫn thường bị phê bình — đặc biệt là từ những người yêu đàn piano (cả cổ điển lẫn thông thường, như Jazz), các nhà phê bình, các nhạc sĩ và những người am hiểu, họ cho rằng ông có kỹ thuật hạn chế, trình diễn nhạc mang chất tính thương mại khi đã chơi các bản nhạc cổ điển ở dạng cách điệu. Một số xem ông là biểu tượng của sự hào nhoáng mà rỗng tuếch.
Một vài giáo viên âm nhạc Trung Quốc đã góp phần phổ biến nhạc của ông vào Trung Quốc đại lục nhằm làm tăng số lượng sinh viên học đàn piano kể từ những năm 1980. Theo cuốn sách Last Chance to See của Douglas Adams xuất bản năm 1990 thì Clayderman là nghệ sĩ chơi piano nổi tiếng nhất tại Trung Quốc kể từ đó .
Source from Wikipedia (http://vi.wikipedia.org/wiki/Richard_Clayderman)
kevin kern
20-10-2007, 11:45 PM
Paul Mauriat
http://www.pluto.dti.ne.jp/~pmclub/pmfront.JPG
Paul Mauriat là 1 nghệ sĩ mà mình thật sự rất thích,các bạn cứ nghe nhạc của ông đi rồi sẽ hiểu thế nào là sự lãng mạn của 1 người Pháp.Có lẽ Arsène Wenger (http://en.wikipedia.org/wiki/Ars%C3%A8ne_Wenger)đã bị ảnh hưởng của Paul Mauriat nên lối chơi của arsenal có thể cảm nhận được qua những bản nhạc của Paul Mauriat.Thứ cảm giác mà mọi ngôn từ trở nên bất lực.
Đây là bài viết về ông trên wiki (http://vi.wikipedia.org/wiki/Paul_Mauriat)
http://content.answers.com/main/content/wp/en/8/8d/Paul_Mauriat.jpg
Paul Mauriat (4 tháng 3, 1925 – 3 tháng 11, 2006) là một nhạc trưởng người Pháp.
Ông sinh tại Marseille, lớn lên ở thủ đô Paris và bắt đầu chỉ huy dàn nhạc của riêng ông trong thời gian Chiến tranh thế giới lần thứ 2. Trong thập kỷ 1950, ông làm việc và đi lưu diễn với ít nhất hai ca sỹ nổi tiếng người Pháp là Charles Aznavour và Maurice Chevalier.
Người ta biết đến ông nhiều nhất sau khi bản phối khí L'Amour est bleu ("Love Is Blue") (do André Popp soạn) của ông năm 1968 đứng đầu bảng xếp hạng của Hoa Kỳ. Paul Mauriat cùng dàn nhạc của ông rất được yêu thích ở Nhật Bản và Hàn Quốc.
Paul Mauriat mất tại Perpignan.
CLB người hâm mộ ông
http://www.pluto.dti.ne.jp/~pmclub
kevin kern
20-10-2007, 11:59 PM
Twelve Girls Band
Đây là band nhạc gồm 12 cô gái trung quốc (http://en.wikipedia.org/wiki/Twelve_Girls_Band),họ chơi nhạc hòa tấu với các nhạc cụ truyền thống của trung quốc.Cảm giác thật sự là khác lạ và mới mẻ.Mình đã từng nghe những bản nhạc của Beethoven (http://en.wikipedia.org/wiki/Beethoven) theo phong cách của họ,thật sự là độc đáo,Hay là album chirstmas của họ.Thật là tuyệt.
http://www.princess.nl/files/MOTW-2004/Twelve_Girls.jpg
Có 1 bài viết trên Tuổi Trẻ (http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=223073&ChannelID=58),mình xin copy về đây.
TT - Bị hấp dẫn bởi những thành công vang dội trên trường quốc tế của các nghệ sĩ âm nhạc thuộc dòng New Age như Kitaro, Yanni; Wang Xiaojing - người tiên phong trong việc khởi xướng trào lưu nhạc rock ở Trung Quốc - đã nung nấu ý định một ngày nào đó các nghệ sĩ Trung Quốc cũng sẽ làm được điều tương tự.
"Tôi nghĩ rằng việc kết hợp âm nhạc truyền thống Trung Quốc và âm nhạc của phương Tây là điều hoàn toàn có thể làm được, và sẽ rất thú vị” - Wang hồi tưởng về giấc mơ ngày nào của mình.
Kết quả là một ban nhạc toàn nữ đã được thành lập vào năm 2001, gồm tất cả 13 thành viên trẻ trung, xinh xắn, có khả năng chơi các nhạc cụ truyền thống của Trung Quốc (thực tế khi trình diễn trên sân khấu chỉ có 12 thành viên, cô gái còn lại đóng vai trò dự bị trong trường hợp một thành viên nào đó không thể trình diễn).
Ngoài ra, ban nhạc còn được sự hỗ trợ của sáu thành viên nam phụ trách phần tiết điệu theo phong cách phương Tây gồm trống, bộ gõ, keyboards (đàn phím), bass và ghita điện. Các cô nàng của Wang không chỉ dừng ở nhạc truyền thống hay các giai điệu trẻ trung hiện đại của Trung Quốc, mà còn lấn sân sang những tác phẩm cổ điển của các bậc thầy từ Mozart, Handel, Beethoven, Rossini đến các ca khúc của Coldplay và Sting, và cả một album những ca khúc Giáng sinh kinh điển nữa.
Zhou Jiannan, một trong những soloist ngôi sao của nhóm và chơi guzheng - cổ tranh, một loại nhạc cụ có 25 dây tương tự như đàn tranh - đã nhớ lại: "Khi tôi còn nhỏ hầu như mọi người đều thích âm nhạc phương Tây như violin hay piano, và họ hướng con em mình đến với những nhạc cụ này. Nhưng cha mẹ tôi đã quyết định: "Con là người Trung Quốc, vì thế con nên học về âm nhạc và chơi nhạc cụ cổ truyền". Thế là tôi đã chọn guzheng, do nó có lẽ là nhạc cụ số 1 trong âm nhạc của Trung Quốc".
Các thành viên khác, người chơi erhu - nhị hồ, tương tự như vĩ cầm, người chơi pipa - tì bà, người gõ yangqin - dương cầm, và nhiều loại sáo cổ truyền khác. Những nhạc cụ này được chế tạo sao cho có thể chơi các thang âm và những nốt "lạ” so với hệ thống và trật tự âm của phương Tây, tất cả đã kết hợp và đưa lại âm vị nhạc hấp dẫn đặc biệt của nhóm.
"Những thế hệ đi trước đã bảo rằng đấy không còn là âm nhạc của Trung Quốc nữa - Wang nói - Nhưng tôi cho rằng đó là hướng tiếp cận, là nhịp cầu nối Đông - Tây độc đáo, và quan trọng là chúng tôi có lượng khán giả yêu thích rất đông".
http://cdbaby.name/t/w/twelvegirls2.jpg
Lay chuyển thế giới cổ điển
Bộ CD và DVD Romantic energy ra mắt sau chuyến lưu diễn ở Mỹ vào năm 2004 có tên Eastern energy đã xếp hạng 62 trong bảng Top 200 của Billboard. Đây cũng là thứ hạng cao nhất cho album đầu tay trong lịch sử Billboard đối với một nghệ sĩ hay nhóm nhạc châu Á. Còn ở Nhật đã bán được hơn 2 triệu bản, thậm chí được mời ký các hợp đồng sử dụng âm nhạc của nhóm để quảng cáo cho kẹo sôcôla và điện thoại cũng như một số sản phẩm khác. Chuyến lưu diễn đầu tiên ấy cũng được các nhà phê bình âm nhạc đánh giá là thành công lớn tương tự như Clocks của Coldplay hay Only time của Enya - một sự pha trộn giữa nhạc dân gian và techno (folk techno-fusion). Kênh CNN nhận xét rằng 12 cô gái đã làm lay chuyển những gì thuộc về thế giới cổ điển.
kevin kern
21-10-2007, 12:22 AM
Yanni
http://cache.kotaku.com/assets/resources/2007/02/YANNI.jpg
Yanni (http://en.wikipedia.org/wiki/Yanni) là người đầu tiên đưa tôi đến với newage.Bản nhạc đầu tiên của yanni mà tôi nghe là November Sky (http://www.woim.net/#Play,1017).Sau này tôi có tìm hiểu thêm về Yanni và đã cố gắng tìm hết các album của ông.Tuy nhiên những bản nhạc để lại cảm xúc nhiều nhất vẫn là november sky,reflection of passion,Almost a whisper, santorini...
Nhạc của yanni có khi chỉ là tiếng piano thuần khiết,có khi là bản nhạc hòa tấu với rất nhiều loại nhạc cụ.Sinh ra vào ngày 14/11/1954 ở Hy Lạp. 18 tuổi ông sang Mỹ học đại học ngành tâm lý học.Nhưng rốt cục tình yêu với âm nhạc đã chiến thắng và ông tiếp tục theo đuổi sự nghiệp âm nhạc của mình.
Đây là 1 bài về yanni trên vnexpress (http://vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/Am-nhac/2003/07/3B9C9E48/)
Yanni - huyền thoại âm nhạc của Hy Lạp
Yanni - huyền thoại âm nhạc của Hy Lạp
http://www.psu.edu/ur/archives/intercom_1998/April23/Yanni.GIF
Mặc cho những lời gièm pha rằng nhạc Yanni bình dân, số lượng người hâm mộ anh trên toàn cầu ngày càng tăng. Cùng với CD mới phát hành và một tự truyện, Yanni vừa hoàn tất vòng lưu diễn Bắc Mỹ.
Nhạc Yanni là hỗn hợp âm thanh đa dân tộc, đặc biệt là các dân tộc thiểu số. Người nghe như phảng phất các bản thánh ca của thổ dân châu Mỹ, những làn điệu châu Phi và cả âm sắc châu Á. Yanni còn vận dụng các nhạc cụ truyền thống của nhiều dân tộc trên khắp thế giới một cách tài tình mà người nghe vẫn thấy hợp lý. Đó là đàn hạc của Paraguay, trống tabla của Ấn Độ, duduk của Mỹ, didgeridoo của Australia...
Yanni có tên đầy đủ là Yanni Chrysssomalist, sinh năm 1954 tại Kalamata, một tỉnh nhỏ của Hy Lạp. Được cha mẹ khuyến khích, cậu bé Yanni đã bộc lộ năng khiếu âm nhạc từ nhỏ nhưng tình yêu âm nhạc chỉ ngấm ngầm chảy trong người cậu. Năm 18 tuổi, khi nhập cư vào Mỹ, theo học ngành tâm lý học, niềm đam mê cũ đột ngột trỗi dậy, thôi thúc Yanni hơn bao giờ hết.
Album đầu tay Optimystique (1980) với số lượng tiêu thụ 20 triệu bản quả là đáng nể. Dù thành công lớn với Optimystique, các băng đĩa của Yanni hiếm khi được phát trên các đài phát thanh tại Mỹ hay nước ngoài, cho đến khi anh trở lại quê nhà để ghi âm album Live at the Acropolis. Buổi diễn dưới bóng ngôi đền Parthenon 2.500 năm tuổi quả là việc mạo hiểm. Không có một nhà tài trợ nào, Yanni vét sạch vốn liếng tích cóp bao năm tại Mỹ để làm một chương trình hòa nhạc lớn chưa từng có, với mục đích tạo cú hích lớn, mở ra một thị trường âm nhạc mới. Đáng mừng Live at the Acropolis trở thành một trong những băng hình best-seller. Ngay cả Yanni cũng không ngờ, cuộc mạo hiểm tại quê nhà lại thành công đến vậy.
Rồi Yanni nhận ra, dường như anh chỉ thành công vang dội khi trình diễn tại những vùng đất, địa danh gắn liền với lịch sử. Sau Acropolis ở Hy Lạp, Yanni tổ chức hòa nhạc tại đền Taj Mahal linh thiêng của Ấn Độ và Tử Cấm Thành uy nghi của Trung Quốc. Hai buổi trình diễn này đã mang lại thành công cho băng video năm 1997 và album Tribute. Album mới nhất của Yanni, Ethnicity, trình làng một sự pha trộn đầy thú vị, điểm nhấn của album là một bản dân ca truyền thống của Hy Lạp Jiva-Eri do Yanni thể hiện, là câu chuyện về những đứa trẻ rời xa gia đình để tìm cuộc sống tốt đẹp hơn.
Bên cạnh CD mới phát hành, những người hâm mộ thích tìm đọc tác phẩm tự thuật Yanni in words. Quyển sách kể về những chuyển biến để Yanni trở thành một ngôi sao quốc tế, chuyện tình với ngôi sao truyền thông Mỹ Linda Evans, triết lý sống và cả âm nhạc của Yanni nữa.
(Theo Tuổi Trẻ)
Một bài khác về Yanni trên Vnexpress (http://www.vnexpress.net/Vietnam/Van-hoa/Guong-mat-Nghe-sy/2004/03/3B9D0566/)
Yanni - con người khổ hạnh trên thiên đường
http://snoot.org/i/wuss/yanni.gif
Từ một cậu bé nghèo khổ của thị trấn vùng biển Hy Lạp không biết hát, vũ đạo, và chẳng có ý niệm gì về các nốt nhạc, anh đã trở thành một trong những nhạc sĩ nổi tiếng nhất thế giới. Đâu là yếu tố làm nên sự kỳ diệu ấy?
- Anh có thể giải thích về thành công của ngày hôm nay như thế nào?
- Tôi yêu thử thách và những điều không thể. Tôi luôn nói với các bạn trẻ rằng những gì tôi đạt được thì họ cũng có cơ hội thành công. Điều quan trọng là phải có sức chịu đựng và khả năng tập trung vào mục đích mà mình theo đuổi.
- Anh đã làm gì trong những năm qua, kể từ sau tour diễn năm 1998?
- Việc đầu tiên là tôi chạy trốn khỏi sân khấu. Tôi trở về Hy Lạp, không trả lời một cuộc phỏng vấn nào, cũng không chơi piano trong một năm liền. Tôi thường xuyên leo núi và trò chuyện cùng ba. Nó làm giảm sự căng thẳng rất nhiều. Tour diễn năm 1998 đã vắt kiệt cả tinh thần và sức lực và tôi hứa với mình rằng sẽ không sáng tác cho đến khi cảm thấy hạnh phúc trở lại.
- Liệu tour diễn đó có thể là lần cuối cùng anh xuất hiện trước công chúng?
- Cũng có thể lắm. Trong một lần leo núi cùng cha, ông đã khuyên tôi: "Nếu con không sáng tác thêm được tác phẩm nào nữa thì cũng chẳng có gì là không tốt". Có lẽ, phong cách Hy Lạp đã ăn sâu vào tôi. Con người vùng đất Olympia thích hưởng thụ cuộc sống. Bà nội tôi khi còn sống có lần hỏi: "Con dạo này thế nào?", tôi trả lời: "Con đang ở Tử Cấm Thành, Trung Quốc, mọi việc đều trôi chảy cả", nhưng bà hỏi lại: "Không, con hiểu nhầm ý bà, bà muốn hỏi con có cảm thấy yêu đời không", và tôi chợt nhận ra là mình không hề hạnh phúc.
- Những người bình thường có thể nghĩ, anh đã có tất cả. Vậy anh còn đòi hỏi điều gì?
- Đúng là thế, và đó là nghịch lý của đời sống. Có thể coi đó là sự khổ hạnh trên thiên đường. Trạng thái đó rất nguy hiểm, bởi những người khốn khó còn bấu víu vào niềm hy vọng cho một ngày mai tươi sáng để sống, còn tôi thì chẳng biết điều gì khiến tôi vui vẻ.
- Anh cảm thấy tuyệt vọng đến cỡ nào?
- Khá nghiêm trọng, nó đau đớn và tôi phải đối mặt với sự thực đó từng ngày.
- Có phải anh từng cố tẩy những quá khứ đau buồn bằng giáo phái Ramtha?
- Không, tôi nghiên cứu tôn giáo, nhưng chẳng theo đạo nào cả. Tôi muốn đi theo con đường riêng và tự giáo dưỡng mình. Tôi không bao giờ muốn lại rơi vào tình cảnh lúc nào cũng có hàng tá buổi hoà nhạc chờ đợi như trước kia.
- Hồi niên thiếu, anh tham gia rất nhiều môn thể thao?
- Nếu bạn nghiên cứu về Hy Lạp cổ đại, bạn sẽ phát hiện ra rất nhiều triết gia là vận động viên. Tôi luôn cố gắng để có được một tâm hồn và cơ thể lành mạnh. Bố tôi luôn nói rằng, nếu muốn trở thành nghệ sĩ thì hãy học, nhưng đừng quên luyện tập thể thao. Nhờ có thể hình cường tráng mà sức chịu đựng của tôi rất dẻo dai. Tôi có thể làm việc 15-20 giờ đồng hồ trong phòng thu mà chẳng cần phải ăn uống gì.
- Điều gì đã khiến anh trở thành nhạc sĩ đầu tiên chơi nhạc ở Tử Cấm Thành, Taj Mahal?
- Thật tuyệt vời khi thực hiện được sứ mạng mà những người khác chưa từng làm. Taj Mahal chưa bao giờ bừng sáng vào buổi đêm và tôi đã đem lại sự lung linh huyền diệu cho kỳ quan thế giới này.
- Quan hệ giữa anh và ngôi sao truyền thông Linda Evans thế nào rồi?
- Cô ấy đã giúp đỡ tôi rất nhiều, trong việc tổ chức tour diễn mấy năm trước. Linda quả thực tuyệt vời, nhưng có lẽ chúng tôi khó có thể quay lại với nhau.
Thu Trang (theo Gosdp)
kevin kern
21-10-2007, 12:43 AM
http://www.soft-light.com/yanni/yanni36.jpg
Nhạc của yanni mang trong mình sự đam mê khủng khiếp mà bất cứ người nào đứng cạnh không khỏi bị hút vào.Như tất cả những người sinh cung Bọ Cạp,nhạc của ông mang một niềm khát khao lớn,vừa muốn được nhìn cuộc đời trưởng thành như một người đàn ông mạnh mẽ,vừa lại muốn được yêu ngây thơ như 1 đứa trẻ.Có lúc là cả dàn nhạc cùng hòa tấu 1 bài ca,có khi là sự lắng đọng trong tiếng piano réo rắt.
Nhạc của yanni không mang tính thiền như 1 số tác giả khác mà nó chứa đầy khát khao,dục vọng như 1 con sói cô độc đi tìm bầy.Yanni sinh ra ở hy lạp và cả sự nghiệp âm nhạc là lang thang trên đất mỹ.Ta cũng có thể hiểu được niềm khát khao đó của ông.Đôi khi ta mê đắm trong những giai điệu của yanni mà chợt nhận ra ta chẳng thể là 1 con sói đầy đam mê dũng mãnh và ngây thơ trước đất mẹ.Bởi ta hèn.Ta hèn vì đã chẳng thể làm 1 con sói phóng ra khỏi cuộc đời,gào lên những tiếng gọi của tự nhiên.
Hãy nghe đi,một lúc nào đó,bạn cũng sẽ thấy mình muốn một lần được gào thét,gào thật to.Dấu tất cả chỉ là nhạc không lời.
kevin kern
22-10-2007, 09:06 PM
http://www.tgan.net/CDCovers/Secret%20Garden%20-%20Songs%20From%20A%20Secret%20Garden.jpg
http://files.myopera.com/xiaofan111/files/%2803%29Songs%20From%20A%20Secret%20Garden.mp3
Nếu bạn có dịp nào đó đến với cố đô Huế mộng mơ trầm mặc này và bắt gặp một cơn mưa chiều thì có lẽ bạn sẽ hiểu được cái cảm giác buồn rất riêng của mưa Huế. Từng giọt mưa rơi xuống những con đường nhỏ, lá cây lìa cành cuốn theo dòng nước nhẹ lững lờ trôi, con đường vắng tanh ai nấy đều ở trong nhà để tránh mưa. Còn tôi những lúc này thường play bản hoà tấu buồn Song From A Secret Garden. Không biết đã ai trong các bạn nghe bản hoà tấu này chưa nhưng thực sự khi nghe bài nay trong lòng tôi lại dâng lên một nỗi buồn kỳ lạ để rồi cuối cùng lại dâng một niềm vui mừng khôn xiết...
Có lẽ là tôi đã có cùng tâm trạng với cậu bé trong bộ phim cùng tên với bài hát này. Cậu bé này bị câm và mồ côi mẹ. Sau khi mẹ của cậu bé chết đi, ông bố của cậu bé đã nhốt cậu vào một căn phòng trong nhà. Đó là chính là những ngày tháng đau khổ nhất của cậu bé, cậu phải sống cuộc sống không có tự do, tuổi thơ của cậu bị nhấn chìm trong bóng tối. Để rồi một ngày kia, từ đâu đó phía sau căn nhà bỗng vang lên những giai điệu buồn (chính là bản nhạc mà bạn đang nghe đấy) và với một sức mạnh vô hình cậu bé đã thoát ra được căn phòng ấy rồi đi theo tiếng nhạc. Tiếng nhạc đó được phát ra từ một khu vườn ẩn và nõi này đã làm cậu bé hồi tưởng lại những kỷ niệm về người mẹ của cậu khi còn nhỏ và cậu bỗng cất tiếng nói. Có lẽ trong cuộc đời cậu đó chính là ngày đẹp nhất của cuộc đời bởi vì cậu không còn cảm thấy cô đơn và buồn tủi nữa...
Ban nhạc đã chơi bản nhạc này là Secret Garden đến từ Na Uy. Ban nhạc này gồm hai thành viên chính là Fionnuala Sherry (chơi violon) và Rolf Lovland (Sáng tác, nhà sản xuất và chơi keyboards). Nhắc đến Secret Garden có lẽ không ai không biết đến những bản nhạc dễ đi vào lòng người như Sona, Dawn Of The New Century, Passacaglia, Nocturne, Appassionata, Dream Catcher...và đặc biệt là Song From A Secret Garden...
Tiếng piano mở đầu bài nhạc thật buồn rồi tiếng violon len vào làm cho nhịp của bài hát này chậm lại và nỗi buồn dường như là cực điểm. Giai điệu ngân lên như kéo mạch cảm xúc của tôi dừng lại...suy ngẫm...trầm tư. Giai điệu chầm chậm ru như chiếc lá vàng rơi giữa bầu trời xanh...Giai điệu bài hát này còn khiến tôi liên tưởng đến mạch nước dòng Hương chảy mà mỗi khi buồn tôi vẫn thường ngắm...Nước dòng Hương vẫn lặng lẽ trôi như từng âm thanh buồn mênh mang vang lên từ bài hát...Quả thật không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Violon là "Nữ hoàng của các loại nhạc cụ", cây đàn này đã thể hiện được và rất chân thực cái hồn của bản nhạc, cái hồn đó như đồng cảm với nỗi buồn của những con người yêu nhạc...
Đến cuối bài nhạc này thì môtuýp nhạc vẫn thế nhưng mỗi lần khúc nhạc ngân lên là mỗi lần tôi vơi đi nỗi buồn bởi vì cái linh hồn của bài hát dường như đã chia sẻ và xoa dịu những buồn phiền trong tôi...Âm thanh này vẫn tiếp âm thanh khác quyến luyến làm xao xuyến lòng người. Đến cuối bài thì tiếng sáo flute được lồng vào nhý muốn gạt đi những nỗi buồn của người yêu nhạc giúp họ sống yêu đời hơn vậy. Cái tên của bài hát gợi cho tôi một cảm giác thật huyền bí, có lẽ bài hát này được Rolf Lovland viết nên từ những cảm khúc rất thật của mình. Ôi! Giai điệu của nó mới nhẹ nhàng và tuyệt vời biết bao. Có lẽ đây là món quà mà Secret Garden muốn tặng cho những người yêu nhạc.
Bài hát này rất hay được lồng trong phim các bạn ạ nhất là những lúc cần diễn tả nội tâm. Nó lột tả nội tâm của nhân vật trữ tình trong phim một cách sâu sắc và chân thực khiến cho người xem dù vô cảm đến bao nhiêu cũng cảm thấy nao lòng và đồng cảm với nhân vật trữ tình trong phim...
northernstar_2308 (http://www9.ttvnol.com/Profile.aspx?id=107125)
http://www9.ttvnol.com/forum/Nhac/340930/trang-1.ttvn?v=4q0k57kkb0r5vdhjx8v8
kevin kern
22-10-2007, 09:14 PM
Những giai điệu bí ẩn của Secret Garden (http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=43615&ChannelID=10)
TTCN - Bạn đang cần âm nhạc để xóa tan những căng thẳng và áp lực công việc thường ngày nhưng lại không muốn nghe nhạc cổ điển hàn lâm; hãy dành đôi phút để đến với khu vườn âm nhạc bí ẩn của Secret Garden.
Những nốt nhạc dịu êm như nhung, nhẹ nhàng như con suối nhỏ của nhóm nhạc new age này sẽ có ích với bạn nhiều hơn thuốc giảm stress…
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=38441
Secret Garden gồm hai thành viên, được thành lập cách đây đúng mười năm (1994). Trước đó, Rolf Lovland (nam) đã được biết đến như một nhà viết nhạc xuất sắc nhất của Na Uy, từng đại diện Na Uy dự thi Eurovision 1985 và đoạt giải quán quân; còn Fionnuala Sherry (nữ), người Ireland, đã biết chơi violin từ khi lên tám và đã có thâm niên 10 năm trong dàn nhạc giao hưởng.
http://us.ent2.yimg.com/musicfinder.yahoo.com/images/yahoo/phillips/secretgarden/0402_secret_garden_a_sm.jpg
Với gương mặt khả ái, Fionnuala còn được nhiều lần xuất hiện trên các phim truyền hình của kênh truyền hình quốc gia Ireland. Ngoài ra, cô còn được mời ghi âm nhạc nền cho nhiều phim của Hollywood như The river runs wild, A room with a view và The mask. Chính tại đây cô đã tình cờ gặp được Rolf Lovland. Thế là một nhóm nhạc tài năng ra đời.
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=38442
Mười năm hoạt động, Secret Garden đã chinh phục công chúng ở 80 quốc gia khác nhau chỉ với bốn album: Songs from a secret garden (1995), White stones (1997), Dawn of a new century (1999), Once in a red moon (2002) và một đĩa tuyển tập những tác phẩm xuất sắc Dreamcatcher - The best of Secret Garden (2001).
Mỗi album đều mang những nét độc đáo riêng; đáng chú ý nhất là đĩa White stones, được sáng tác dựa trên nội dung câu chuyện cổ tích Hai đứa bé tìm cha, với những dòng gửi đến người yêu nhạc ở đầu album: “Ngày xửa ngày xưa, có hai đứa trẻ nghe được cha mẹ mình bàn tính sẽ bỏ hai em trong rừng rậm vì họ không còn khả năng làm ra miếng ăn nữa. Hai đứa trẻ thông minh đã nhặt những viên sỏi trắng và rải trên đường đi. Đêm đến, ánh trăng chiếu sáng và những viên sỏi trắng hiện rõ trước mắt… và thế là câu chuyện về Hansel và Gretel tìm cha đã bắt đầu. Hãy xem mỗi khúc nhạc trong album như những viên sỏi trắng kia. Hãy lắng nghe và nó sẽ dẫn bạn vào khu rừng bí ẩn của riêng các bạn”.
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/ImageView.aspx?ThumbnailID=38443
Đêm diễn của Secret Garden trong lễ trao giải Nobel hòa bình 1999
Secret Garden đã khéo léo dẫn dắt người nghe vào từng tình tiết của câu truyện chỉ với ba nhạc cụ: trống, piano và violin. Cuộc hành trình đi tìm cha của Hansel và Gretel - hai nhân vật chính trong truyện - cũng sẽ khó phai trong tâm trí những ai đã một lần đọc qua và một lần được nghe Secret Garden kể lại bằng âm nhạc.
Tuy là nhà sáng tác nhưng Rolf đã hào phóng nhường cho Fionnuala giữ nhịp ở hầu hết các track trong album đầu tiên. Kết quả Songs from a secret garden đã thấm đượm những giai điệu hiền hòa, bí ẩn và sâu lắng như chính tên album - khúc nhạc từ khu vườn bí ẩn. Với lời đề tựa đầu album: “Đâu đó trong con người của chúng ta hiện hữu một khu vườn bí mật. Đó là nơi chúng ta có thể nương náu khi cuộc sống trở nên khắc nghiệt, nơi chúng ta có thể trầm ngâm và suy nghĩ. Nhiều năm qua, tôi đã đến khu vườn bí ẩn ấy của riêng tôi, mong rằng sẽ tìm ra được những giai điệu hài hòa. Những khúc nhạc trong CD này là những gì tôi góp nhặt được từ khu vườn ấy. Năm 1994, tôi đã gặp được nghệ sĩ vĩ cầm người Ireland Fionnuala Sherry, người đã cất lên tiếng hát trong những khúc nhạc của tôi”.
Rolf đã chứng minh sự hào phóng của mình là đúng đắn khi nhạc phẩm Nocturne, với giọng hát mang âm vực cao và trong trẻo của Fionnuala, đã mang về cho Secret Garden giải nhất cuộc thi Eurovision 1995.
Ở hai album Dawn of a new century và Once in a red moon, giọng ca ấm áp của Rolf, vốn được anh giữ kín nhiều năm, cũng bắt đầu được đưa vào đĩa nhạc. Với Dreamcatcher, The Prayer, Sona, hai giọng ca một trầm một bổng nhưng vẫn có thể hòa quyện vào nhau, quấn quít nhau như không thể chia cắt. Cũng không thể không kể đến You raise me up -khúc nhạc xoáy sâu vào góc cạnh tinh thần của tình bè bạn. Cũng không nên bỏ qua phút giây bình yên trong làn cỏ xanh mát và con sóng hiền hòa của biển cả với bản Greenwaves, hay cảnh bình minh sáng chói trong Gates of dawn.
Đến với nhiều nhạc phẩm khác, có cảm giác như Secret Garden “bắt” người nghe phải tự tìm tòi và khám phá khu vườn bí ẩn của họ. Và chỉ những ai mang cùng nhịp đập tâm hồn với Rolf và Fionnuala mới có thể hiểu hết cảm xúc mà họ ẩn giấu sau những nốt nhạc. Âm nhạc của Secret Garden, vì thế, giống như cỗ xe thần kỳ, đưa con người đến một thế giới, một khu vườn bí ẩn, nơi chúng ta không thể tìm thấy được thứ gì khác ngoài âm nhạc và sự thư thái về tinh thần.
TIẾN VŨ
kevin kern
25-10-2007, 09:04 PM
Ngây ngất với Kitaro (http://www.baobinhdinh.com.vn/vanhoa-nghethuat/2006/8/30977/)
Bạn yêu nhạc Việt Nam hẳn không còn ai lạ gì cái tên Kitaro cùng nhạc phẩm Matsuri, Dance of sarasvati, Whispering Earht...) đã được sử dụng liên tục trong các chương trình biểu diễn thời trang, nhạc hiệu, tại các phòng SPA... Nhưng khách quan mà nói, nhạc Kitaro không thuộc nhóm dễ nghe. Tuy nhiên, khi đã có đủ sức để nghe hết một CD thôi, bạn sẽ tìm cách để có thêm một CD Kitaro khác để nghe.
http://www.baobinhdinh.com.vn/vanhoa-nghethuat/2006/8/30977/images/images31012_KITARO1.jpg
Âm nhạc của Kitaro thường dựng đứng trước mặt ta trong lần đầu gặp nhau thành lũy âm thanh cao chất ngất khiến nhiều người dễ bị choáng ngợp và thối lui. Nhưng nếu khéo chọn hoặc được một tín đồ new-age dọn đường mọi việc sẽ trở nên đơn giản hơn rất nhiều. Tỷ như thay vì bập ngay vào album Kojiki nếu làm quen bằng Thinking of you mọi việc sẽ đơn giản.
Có thể nói Thinking of you là một bài ca về thiên nhiên tươi đẹp với 10 phân cảnh âm thanh với nhiều sắc thái, thời khắc khác nhau trong ngày, trong mùa và trong năm và ngược lại trong mỗi khoảnh khắc mong manh cũng được soi rọi một cách tinh tế. Tiếng gió mùa hè. Sắc trời mùa xuân khi tuyết bắt đầu tan (bấm vào đây để nghe Spirit of the water (http://www.baobinhdinh.com.vn/cakhuc/Spirit%20Of%20The%20Water.wma)). Những rặng anh đào rợp hồng lối đi. Tiếng chim hót líu lo... tổng phổ âm thanh ấy khiến người có tuổi thận trọng nâng niu dĩ vãng, còn người trẻ trung thì đủ hưng phấn để mở rộng lòng mình ra. (Caravansary (http://www.baobinhdinh.com.vn/cakhuc/Caravansary.wma)). Có thể nói mà không sợ quá rằng âm nhạc Kitaro là những khoảnh khắc thanh thản của tâm hồn phối ngẫu với sắc màu linh động của tư duy.
http://www.synthtopia.com/artists/images/kitaro.jpg
"Thiên nhiên gây cảm hứng cho tôi", Kitaro từng tâm sự như thế - "đối với tôi, những bài hát một số giống như mây trời, số khác như nước trôi". Vẻ đẹp của tự nhiên là một phần tuổi thơ Kitaro. Kitaro sinh ra trong một gia đình nông dân theo đạo Phật và Thần đạo ở Toyohashi tại miền Trung Nhật Bản. Những năm tháng sống và chan hòa ở nông thôn đã phả vào tâm hồn ông những cảm nhận, rung động hài hòa rất sớm về sự hồn nhiên và hùng vĩ của thiên nhiên. "Tôi nhận ra mình trong thiên nhiên khi tôi còn rất trẻ" (Thinking of You (http://www.baobinhdinh.com.vn/cakhuc/Thinking%20Of%20You.wma)).
Âm nhạc của Kitaro gợi cảm và có khả năng giải phóng năng lực hình dung của người nghe rất lớn. Nếu có một ít hiểu biết về lịch sử hoặc văn hóa Nhật Bản khi nghe album Kojiki, nhắm mắt lại, bạn sẽ có cảm giác như đang xem một cuốn phim thần thoại về thời khai sinh lập địa, về cuộc tranh đấu của các vị thần để đem lại ánh sáng cho con người. Hajimari và Reimei, Matsuri là đoạn nữ thần mặt trời Hikaru bước ra khỏi động, chiếu sáng muôn loài, mang lại sự sống cho muôn loài... được diễn tả sinh động tới mức ta có thể cảm nhận được tiếng sóng biển rì rào khi vầng dương lên, ánh sáng đẩy lui bóng tối, tiếng trống ì ầm như nhịp sinh sôi của trời đất, tự nhiên. Nếu chưa nó nền kiến thức cơ bản để tiếp cận với Kojiki thì bạn sẽ chỉ tiếp cận với phần vỏ âm thanh bên ngoài, có bạn chưa hiểu hết vẻ đẹp của nó nhưng chắc chắn bạn sẽ có ý thức quay lại. (Hajimari (http://www.baobinhdinh.com.vn/cakhuc/Hajimary.wma)). Khi ấy bạn sẽ hiểu vì sao nhiều người ví Kojiki là diễn xướng của thưở con người bước ra ánh sáng.
Không hề được học nhạc, Kitaro không biết kí âm. Cũng như nghệ sĩ Hy Lạp Yanni, ông tự ghi lại tác phẩm của mình theo một lối riêng, một kiểu ký họa bằng âm thanh, diễn đạt bằng trực giác. Không được đào tạo bài bản nhưng Kitaro biết tự học để sử dụng synthesizer và guitar, chơi được sáo, trống taiko và nhiều loại nhạc cụ cổ truyền Nhật khác. Có lẽ chính nhờ đam mê, am hiểu âm nhạc truyền thống Nhật Bản nên khi bước ra với thế giới, Kitaro không gặp trở ngại với các âm nhạc của nền văn hóa khác. Việc thực hiện sinh động các sound track trong bộ phim về chiến tranh Việt Nam Heaven and Earth của Olive Stone (Mỹ) là một ví dụ.
Hiếm nhạc sĩ nước ngoài nào lại hiểu và diễn đạt được nội tâm người Việt xuất sắc như Kitaro. Kitaro còn tự sản xuất hầu hết các album của mình, kiêm luôn việc trình bày đĩa, chụp ảnh. Thậm chí ông còn can thiệp vào việc thiết kế ánh sáng sân khấu để hiệu ứng trình bày đạt đến mức cao nhất. Nếu đã xem qua video clip tác phẩm Matsuri bạn sẽ tin rằng, Kitaro trân trọng cảm xúc của người nghe đến đâu. (Matsuri (http://www.baobinhdinh.com.vn/cakhuc/Matsuri.wma))
Tại sao bạn không thử làm quen với Kitaro nhỉ? Ngay cả khi đã quen với Matsuri thì người viết bài cũng xin chân thành khuyên bạn, hãy cứ thử nghe lại và đặt mình trên một ngưỡng hình dung khác.
Kiều Phong
kevin kern
25-10-2007, 09:28 PM
Kitaro-Âm nhạc tâm linh..?
http://jurgenbockstaele.files.wordpress.com/2006/07/kitaro.jpg
"Những ngón tay lướt trên keyboard và mái tóc dài rung rung theo điệu nhạc, những âm thanh mềm mại khỏe khoắn tràn ngập khắp gian phòng lặng phắc. Mọi người ngỡ như họ đang đứng giữa thung lũng đầy hoa hay đang dạo chơi trên đồng cỏ xanh êm". Đó là nhận xét của giới nhạc sĩ về các tác phẩm của Kitaro.
http://www.eso-garden.com/images/uploads_bilder/tracks_of_today_kitaro.jpg
Người Mỹ xếp nhạc Kitaro vào dòng New Age (âm nhạc thời đại mới, như các loại nhạc của Secret Garden hay Yani) nhưng ông thích gọi đó là nhạc tâm linh, nhiều cảm xúc hơn là kỹ thuật điện tử. Giai điệu hoành tráng, vừa mãnh liệt, vừa dịu dàng qua nhạc phim Trời và đất đã mang lại cho ông giải Quả cầu vàng. Tiếp đó, Kitaro đã đoạt giải Kim Tượng (Đài Loan) và Nhạc phim hay nhất trong Liên hoan phim quốc tế tại Hong Kong với ca khúc The Song Sisters. Sau 7 lần được đề cử Grammy, album Thinking of you của ông đoạt giải Album dòng nhạc mới xuất sắc nhất. Khi nói về các danh hiệu cao quý này, Kitaro chỉ cười và bộc bạch: "Các sáng tác của tôi làm người nghe rung động. Đó chính là phần thưởng đáng giá nhất".
Trưởng thành từ một gia đình theo đạo Phật và Thần đạo (Shinto), âm nhạc của Kitaro gắn chặt với tinh thần vui sống, hòa hợp vào thiên nhiên. Ông không bao giờ quên gốc gác của mình, hằng năm, dù bận gì đi nữa, ông cũng về nước dự lễ trăng tròn trên núi Phú Sĩ. Ở đó, Kitaro say mê chơi trống taiko từ lúc bình minh đến khi tối mịt, chơi cho tới khi tay rớm máu.
Trống Taiko
http://www.nihon-zen.ch/clipart/taiko-1.jpg
Kitaro sinh ngày 4/2/1953 tại Achiken (Nhật Bản). Tên thật của ông là Katahashi, còn Kitaro là biệt danh đặt theo tên một nhân vật phim hoạt hình Nhật. Từ thời trung học, ông cùng bạn bè chơi guitar và lập ban nhạc chuyên biểu diễn tại các câu lạc bộ. Dù chưa học qua trường lớp âm nhạc nào, Kitaro chơi thành thạo các loại nhạc cụ như guitar, đàn sitar, sáo trúc, trống, keyboard cùng nhiều loại nhạc cụ truyền thống. Sau đó, ông tham gia ban nhạc của nhạc sĩ nổi tiếng Miyashita và lưu diễn vòng quanh thế giới.
Năm 1972, Kitaro làm quen với đàn synthesize và sự nghiệp âm nhạc của ông bắt đầu khởi sắc. Khi ban nhạc của Miyashita tan rã năm 1976, ông đã một mình biểu diễn vòng quanh châu Á. Từ đó, ông chọn cho mình một hướng đi riêng. Các album lần lượt ra đời: Tenkai (1978), Silk Road (1980). Hợp đồng ghi âm với hãng Geffen Record năm 1986 đã đưa nhạc của Kitaro đến với thị trường Mỹ. Dù gặp nhiều trở ngại trong việc dịch lời qua tiếng Anh, nhưng hơn 10 triệu album của ông tung ra đã bán hết sạch vào năm sau.
Kitaro từng kết hôn với con gái của trùm mafia Nhật năm 1983. Vài năm sau, họ ly dị do phải thường xuyên sống xa nhau. Khi ông cưới người vợ sau và có hai đứa con, nhiều khán giả cho rằng phong cách âm nhạc của Kitaro đã thay đổi, ông mất đi cảm giác bình an trong thời kỳ đầu, nhưng họ vẫn đón nhận những sáng tác mới của người nghệ sĩ tài hoa này một cách nồng nhiệt và đầy ngưỡng mộ.
http://www.gsm.com.vn/forum/main/showthread.php?t=32847
kevin kern
06-11-2007, 08:03 PM
http://www.tiasang.com.vn/images/upload/temp_image/2007/9/19/resized_abbdffde9b.jpg
Giọng tenor vĩ đại Luciano Pavarotti đã vĩnh viễn rời bỏ chúng ta vào sáng sớm ngày 06/9/2007 trong sự tiếc thương của không chỉ những người say mê opera. Vậy là hình ảnh người đàn ông to béo với khuôn mặt điển trai cùng bộ râu quai nón, nụ cười thường trực khoe hàm răng trắng bóng và tay trái luôn nắm chặt chiếc khăn trắng sẽ chỉ còn lại với chúng ta qua những thước phim tư liệu.
Không có gì phải bàn cãi, ngày nay cái tên Luciano Pavarotti nổi tiếng hơn bất kì một ca sĩ opera nào. Không chỉ những người yêu thích opera mà cả những người ít quan tâm đến loại hình nghệ thuật này cũng đã từng nghe ông hát hoặc biết đến tên tuổi của ông. Nhưng nếu ngược dòng thời gian trở về quá khứ thì ta sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng chỉ chút nữa thôi thì cái tên Pavarotti sẽ chẳng bao giờ tồn tại trong giới ca sĩ opera. Sau khi hoàn thành chương trình cao đẳng sư phạm, ông đã phải đứng trước sự lựa chọn hoặc là học hát để trở thành ca sĩ (một công việc rất vất vả và mạo hiểm) hay là trở thành giáo viên dạy thể dục. Và trên thực tế số phận của Pavarotti chỉ được quyết định thông qua việc... bỏ phiếu của cha mẹ mình. Số phận của Pavarotti đã được Đức Chúa nhân từ sắp đặt.
Chính thức xuất hiện trên sân khấu opera chuyên nghiệp vào ngày 29/4/1961 tại Teatro Municipale, Reggio Emilia với vai Rodolfo trong vở opera La Bohème của Giacomo Puccini nh¬ưng tên tuổi ông chỉ được thế giới biết đến vào năm 1963 khi ông thay thế Giuseppe di Stefano - thần tượng của ông tại Covent Garden, London và cũng là trong La Bohème. La Bohème không chỉ là vở opera đầu tiên của Pavarotti mà còn là ngôi sao dẫn đường để ông đến với những thành công trong nghệ thuật. Nếu như La Bohème là cuốn hộ chiếu đưa ông đến các nhà hát opera nổi tiếng trên thế giới và là mảnh đất màu mỡ để xây dựng mối quan hệ với các ca sĩ nổi tiếng cũng như các nhạc trưởng uy tín thì La Fille du Regiment của Gaetano Donizetti đã đem đến sự khác biệt giữa Pavarotti và các giọng tenor khác. Trong tác phẩm này có aria: Ah! mes amis... Pour mon âme với 9 nốt c2 cực kỳ hóc búa là một chướng ngại vật vô cùng nan giải. Nhưng vào năm 1966, khi lần đầu xuất hiện trong vở opera này tại Covent Garden, Pavarotti đã một đêm diễn xuất thần khiến khán giả (bao gồm cả gia đình Hoàng gia Anh) như bị mê sảng, cả khán phòng rung chuyển như sắp nổ tung. Pavarotti đã thực sự trở thành một tượng đài. Sự phi thường và kỳ tích 9 nốt Đô đã đưa danh tiếng của ông với tư cách là một tenor bay xa trên khắp thế giới. Hãng ghi âm Decca trên một bản thu âm của ông đã giật title: Ông vua của những nốt Đô (King of the high Cs).
Thập niên 70 và 80 của thế kỉ 20 liên tiếp chứng kiến những thành công huy hoàng của Pavarotti. Ông đã tạo lập được một danh mục biểu diễn khá đồ sộ. Những nhà hát opera hàng đầu trên thế giới đều đã in dấu chân ông, từ Metropolitan Opera đến La Scala, Milan hay Vienna State Opera, tại bất cứ nơi đâu ông đều để lai dấu ấn khó phai mờ. Ngay cả Đại lễ đường Nhân dân oai nghiêm tại Bắc Kinh cũng được mở ra để đón tiếp ông, điều mà trước đó luôn chỉ được dành cho các nguyên thủ quốc gia.
Lần cuối cùng Pavarotti xuất hiện trên sân khấu opera vào ngày 13 tháng 4 năm 2004 với vai Cavaradossi trong Tosca (Puccini) tại Metropolitan Opera. Và ngày 10 tháng 2 năm 2006 với trích đoạn Nessun dorma trong Turandot (Puccini) tại Lễ khai mạc Thế vận hội mùa đông Turin, Ý năm 2006, đó là lần cuối cùng khán giả được chứng kiến sự xuất hiện của Pavarotti trên sân khấu. Trong hơn 40 năm ca hát của mình, ông có hơn 1000 buổi biểu diễn opera ngoài ra còn tham gia trong rất nhiều concert và recital. Một năng lực hoạt động thật phi thường!
Pavarotti sở hữu một giọng hát thật đặc biệt. Chất giọng cao vút, sang trọng, khoẻ khoắn với một làn hơi dài tưởng chừng bất tận đã làm say mê biết bao thế hệ người yêu nhạc. Điểm mạnh nhất của Pavarotti là ông có khả năng thể hiện các nốt c2 thật tuyệt diệu. Chính điều này đã tạo nên sự kì diệu nơi ông. Các nốt c2 của ông hùng vĩ và mạnh mẽ. Ông thực sự xứng đáng với danh hiệu Ông vua của những nốt Đô mà hãng Decca đã phong tặng. Mỗi khi Pavarotti cất lên nốt c2 cả không gian như sáng bừng lên, tràn đầy sức sống. Dù vậy, giọng hát của ông không phải là hoàn hảo. Những nhà phê bình chuyên nghiệp thường phàn nàn rằng ông hát quá theo bản năng mà thiếu đi sự phân tích tác phẩm một cách kĩ lưỡng và tinh tế; đôi khi lạm dụng các nốt cao mà quên đi rằng ca sĩ chỉ là một bộ phận cấu thành một tổng thể opera; vóc dáng cũng góp phần khiến Pavarotti gặp khó khăn trong diễn xuất và dù đã từng vào vai Otello (Verdi) - một trong những vai kịch tính nhất dành cho giọng tenor, sánh ngang với những vai heldeltenor như Siegfried hay Tristan của Wagner thì về bản chất, ông vẫn là một tenor trữ tình vì vậy ông gặp nhiều hạn chế khi hát những vai tenor kịch tính. Hơn nữa, loạt chương trình Pavarotti and Friends không đem lại hứng thú cho những fan trung thành với nghệ thuật opera nên trong cuộc bình chọn Giọng tenor xuất sắc nhất thế kỉ 20 do Opera fanatic tổ chức, Pavarotti chỉ đứng ở vị trí thứ 12. Ba vị trí đầu tiên thuộc về Franco Corelli, Jussi Bjorling và Enrico Caruso. Những đồng nghiệp thân thiết của Pavarotti trong The Three Tenors lần lượt xếp thứ 7 (Jose Carreras) và 19 (Placido Domingo).
Trong cuộc đời ca hát của mình ông đã biểu diễn cùng nhiều prima donna hàng đầu thế giới như Leontyne Price, Renata Tebaldi, Montserrat Caballe, Kathleen Battle hay Renata Scotto nhưng với ông ba soprano Mirella Freni, Joan Sutherland và Maria Callas mới là những người có ảnh hưởng sâu đậm và để lại trong ông nhiều cảm xúc nhất.
Mirella Freni đối với ông không chỉ đơn thuần là bạn diễn mà còn là người bạn thân thiết từ thuở ấu thơ. Hai người cùng tuổi, cùng quê hương Modena, cùng lớn lên bên nhau với cùng sự chăm sóc của cùng một bà vú và cùng học hát với một thầy giáo. Giữa họ có một mối quan hệ thật đặc biệt. Trong âm nhạc, họ cùng đóng chung trong nhiều vở opera như La Bohème, Tosca, Madama Butterfly. Ngoài đời thường, họ là tri kỉ.
Cùng với Joan Sutherland, Pavarotti đã tạo nên một cặp bài trùng tenor - soprano tuyệt vời nhất trong thế kỷ 20, điều mà chỉ một vài cặp khác như Carreras - Caballe hay Melchior - Flagstad mới có thể so sánh được. Các vở opera bel canto, đặc biệt là bộ ba nổi tiếng Norma, I Puritani, La Sonnambula của Bellini chính là dấu ấn tuyệt vời nhất mà bộ đôi này đem đến cho những người hâm mộ. Một sự kết hợp vô cùng hoàn hảo. Hơn nữa, Sutherland chính là người đã giúp Pavarotti rất nhiều trong việc hoàn thiện kĩ thuật hát của mình.
Còn đối với Maria Callas thì đây lại là niềm tiếc nuối lớn nhất trong cuộc đời nghệ thuật của Pavarotti. Ông từng tâm sự: Sự nghiệp ca hát của tôi không trọn vẹn vì tôi chưa một lần đứng trên sân khấu cùng Callas.
Tháng 7 năm 2006, các bác sĩ xác nhận Pavarotti mắc căn bệnh ung thư tuyến tuỵ, trong ông có một khối u. Ngay sau cuộc giải phẫu, các bác sĩ cho biết tình trạng hồi phục của ông là rất tốt. Dù vậy thì Pavarotti phải huỷ bỏ toàn bộ lịch diễn của mình trong năm 2006 và không hề thấy ông xuất hiện trước công chúng nữa. Tháng 8 năm 2007, ông được đưa vào bệnh viện tại thành phố quê nhà Modena trong tình trạng nguy kịch, căn bệnh ung thư tuyến tuỵ quái ác không chịu buông tha ông. Và ông đã qua đời tại nhà riêng vào rạng sáng ngày mùng 6 tháng 9 năm 2007 trong sự tiếc thương của không chỉ những người say mê opera trên toàn thế giới. Và hẳn là ông ra đi thanh thản và lạc quan lắm vì ông đã thực hiện trọn vẹn tâm nguyện của mình: Tôi nghĩ một cuộc sống cống hiến cho âm nhạc là một cuộc sống đẹp và đó là những gì mà tôi đã hiến dâng cả đời mình. Nhận được tin người bạn thân của mình qua đời, Carreras đã nghẹn ngào nói trong nước mắt: Chúng tôi đã mơ về một điều kì diệu... nhưng thật đáng buồn, điều đó là không thể. Giờ đây chúng ta phải đau xót mà nhận thức rằng chúng ta đã mất đi một ca sĩ tuyệt vời và một CON NGƯỜI vĩ đại.
http://www.tiasang.com.vn/images/upload/files/jpg/2007/9/19/6ce4b38a33.jpg
Pavarotti và Freni
trong vở La Bohème
Luciano giống như một người anh trai của tôi. Chúng tôi cùng lớn lên ở Modena mẹ anh ấy và mẹ tôi cùng làm việc trong một nhà máy thuốc lá, giống như trong vở Carmen. Anh ấy rất hóm hỉnh và lúc nào cũng cười đùa được. Chúng tôi đã cùng nhau đến Mantova trong ba năm để học hát với Ettore Campogalliani. Cái xe nhỏ của chúng tôi thường xuyên hỏng dọc đường. Vì tôi không biết lái nên toàn phải làm nhiệm vụ nhảy xuống đường để đẩy. Tôi vẫn thường nhớ về anh qua những chuyện đời thường như thế, trong đó có cả những chuyện ngớ ngẩn làm tôi cười phá lên. Anh ấy sẽ được nhớ đến như một trong những giọng tenor tuyệt vời nhất thế giới, nhưng cả hai chúng tôi đã đến với opera đơn giản là vì chúng tôi thích ca hát, chứ không phải vì sự nghiệp lớn hay danh tiếng.
Mirella Freni (Soprano kiệt xuất người Ý, một người bạn thanh mai trúc mã của
Pavarotti)
Tối ngày 6/9, ngày mất của Luciano Pavarotti, tôi đứng một mình trên sân thượng và bật to hết cỡ Nessun Dorma trong vở Turandot của Giacomo Puccini một aria gắn liền với sự nổi tiếng của ông, sự nổi tiếng vượt qua giới hạn của một nghệ sỹ opera thuần túy. Tối hôm đó, dường như tất cả hàng xóm của tôi đều tắt hết loa đài, hoặc cũng có thể, đối với giác quan của riêng tôi, dưới cái bầu trời đêm thăm thẳm này, chỉ tồn tại duy nhất giọng hát tuyệt vời của ông, lồng lộng và thẩm thấu vào từng ngọn gió mùa thu, tràn qua những mái nhà, ngõ phố, cột đèn đường, và bay vút lên như muốn chạm tới những vì sao lấp lánh.
Nessun Dorma cũng là bài hát cuối cùng mà ông biểu diễn trên sân khấu, trước hàng triệu khán giả khắp thế giới. Cái tên của nó có nghĩa là Đêm nay không ai được ngủ! một mệnh lệnh của Turandot, nàng công chúa Trung Hoa quái ác. Nàng ta đã không cho ai trong thành Bắc Kinh được ngủ cho đến khi nào trả lời được câu đố về tên của hoàng tử Calaf. Tôi không bao giờ muốn làm việc gì quái ác như cô công chúa kia, nhưng thực sự là đêm hôm ấy, tôi đã có một ý nghĩ quái gở rằng, tôi cũng sẽ bật Nessun Dorma suốt cả đêm và không cho ai được ngủ, cho đến khi có một ai đó nhận ra rằng, tên của người có giọng hát đang xâm chiếm không gian kia chính là Luciano Pavarotti...
Trần Dũng (classicalvietnam.info)
Duy Quang(*)
http://www.tiasang.com.vn/news?id=1944
minhsphuc12
06-11-2007, 11:46 PM
Anh có một niềm đam mê mãnh liệt thiệt đóa .
Em cũng mới bắt đầu bập vào dòng nhạc này thôi ... Qua chủ yếu là secret garden và Kenny G . Cũng thấy thật sự thoải mái khi được nghe thể loại này . Có thể phải còn lâu lém nữa mới cảm nhận được hết những nốt nhạc nói gì cho mình ...
kevin kern
16-11-2007, 09:53 PM
Anh có một niềm đam mê mãnh liệt thiệt đóa .
Em cũng mới bắt đầu bập vào dòng nhạc này thôi ... Qua chủ yếu là secret garden và Kenny G . Cũng thấy thật sự thoải mái khi được nghe thể loại này . Có thể phải còn lâu lém nữa mới cảm nhận được hết những nốt nhạc nói gì cho mình ...
Hic,hic bạn là ai,sao biết tớ hơn tuổi mà gọi là anh :D,bạn thanks tớ nhiều quá,choáng quá :D,đây toàn là tớ copy paste thôi,có 1 số chỗ là tớ viết thôi.Newage rất tuyệt,mong bạn cũng có những phút giây thư giãn.
À,nếu có cảm nhận của riêng mình thì hãy chia sẻ cho mọi người nhé,như thế còn hơn chục cái thanks kia nhiều nhiều :D
Have Fun!
minhsphuc12
17-11-2007, 12:33 PM
Ờ thì bạn nhé cho bình đẳng ...
Hì mình chỉ có đủ vài album của Secret Garden thôi nhưng chưa biết cách nào đưa lên cho hiệu quả . Còn mình cóp cho đầy đứa trong lớp rùi , nhưng bọn nó không thích lắm :(
longhorn
29-11-2007, 01:20 AM
nghe New Age thì nên thử qua Giovanni Marradi, Lesiëm. Về Lesiëm các bạn có thể tham khảo qua ở đây:
http://my.opera.com/Martin%20Mystery/blog/lesiem
Nghe xong muốn lên thiên đàng sống luôn :))
longhorn
07-12-2007, 01:01 AM
đã sưu tập đủ 7 Album của Secret Garden, ai có nhu cầu chép thì liên hệ mình tại HN.
Ngoài ra còn một số nhạc NewAge khác nữa :)