kembong
18-01-2010, 10:40 PM
Trong quan hệ đối ngoại nửa đầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn phải đối phó với 3 đối tượng: Trung Quốc, các nước láng giềng ở Đông Nam Á (cụ thể là Lào, Miên và Xiên Là) và các nước phương Tây.
Đối với nhà Thanh, các vua Nguyễn trước sau vẫn giữ thái độ “thần phục”, vốn là đường lối đối ngoại truyền thống quan trọng với Trung Quốc, của các triều đại phong kiến trước: nhận sách phong, thực hiện nghĩa vụ triều cống…
Bỏ qua tất cả những thủ tục, nghi lễ phát sinh từ “sách phong” và “triều cống”, mà thực ra chỉ có ý nghĩa hình thức, thực tế lịch sử cho thấy nhà Nguyễn hoàn toàn tự chủ trong việc hoạch định chính sách đối nội lẫn chính sách đối ngoại. Còn việc nhà Nguyễn lấy chế độ phong kiến Mãn Thanh làm kiểu mẫu cho việc xây dựng bộ máy cai trị của nó, thì đây là vấn đề thuộc về phạm trù tư tưởng, chúng tôi sẽ bàn sau.
Cũng giống như những triều đại phong kiến trước, nhà Mãn Thanh chưa bao giờ từ bỏ tham vọng bành trướng lãnh thổ xuống phương Nam và luôn sẵn sàng thực hiện tham vọng này ngay khi có dịp. Vì lẽ đó, sự việc không xảt ra một cuộc va chạm nào đáng kể trong quan hệ giữa hai nước cho đến năm 1858 chỉ có nghĩa là nhà Nguyễn nhìn chung đã hoàn thành tốt nhiệm vụ đối ngoại của một nhà nước độc lập là bảo vệ chủ quyền dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ.
Quan hệ với một số nước lân bang trong khu vực Đông Nam Á thì không được phẳng lặng như với Trung Quốc. Đại Nam và Xiêm La bị chi phối bởi nỗ lực tranh giành ưu thế trên bán đảo Trung - Ấn, cụ thể là đối với Miên và Lào. Sau các cuộc xung đột giữa hai nước trên lãnh thổ Lào diễn ra vào cuối thập niên 1820 và giữa thập niên 1830, Đại Nam đã xác lập được ưu thế đối với Lào và thậm chí còn sáp nhập một phần lãnh thổ của nước này.
Quan hệ giữa Đại Nam và Xiêm La quanh vấn đề Chân Lạp diễn ra phức tạp hơn. Năm 1833, giữa hai nước đã diễn ra chiến tranh trên lãnh thổ Miên và đất Châu Đốc, Hà Tiên. Sau khi dồn đuổi quân Xiêm La về nước, từ năm 1834, Minh Mạng đã sáp nhâp lãnh thổ Miên vào Đại Nam, đổi tên thành Trấn Tây thành và cử người sang cai trị. Năm 1840, dân Miên đã nổi dậy chống ách cai trị của triều Nguyễn. Chính quyền Xiêm La nhân cơ hội đưa quân xâm nhập lãnh thổ Miên. Giữa Đại Nam và Xiêm La nhân cơ hội đưa quân xâm nhập lãnh thổ Miên. Giữa Đại Nam và Xiêm La lại bùng ra xung đột vũ trang, mà kết quả là cả Xiêm Là và Đại Nam đều lần lượt rút quân: 1845 và 1847.
Đã có quan điểm cho rằng hoạt động bành trướng và tranh giành ưu thế trên bán đảo Trung - Ấn đã gây hao tổn không ít cho Đại Nam và thậm chí gây phương hại đến quan hệ giữa các nước trong vùng, giữa lúc mớI nguy cơ có từ chủ nghĩa thực dân phương Tây lớn lên một cách nhanh chóng. Thậm chí có tác giả còn cho đây là một trong những nguyên nhân thắng lợi của chủ nghĩa thực dân phương Tây.
Quan điểm trên vừa đúng, lại vừa không đúng. Chỗ đúng của nó đã được phân tích kỹ. Cỏn chỗ không đúng của nó là triều Nguyễn không thể vì một cơn dông đang từ chân trời xa kéo đến mà quên đi việc dập tắt đám cháy đang hoành hành gần ngay căn nhà của mình. Chỉ có thể trách rằng triều Nguyễn đã không tìm ra phương sách đúng đắn để xoá bỏ mối hiềm khích với người láng giềng: thương lượng hoà bình thay vì bạo lực quân sự. Nhưng vào thời điểm nửa đầu thế kỷ XIX, đòi hỏi ở nhà Nguyễn những điều mà mãi đến gần hai thế kỷ sau vẫn chưa hoàn toàn khả thi ở rất nhiều nơi trên thế giới, thì liệu có phi lịch sử không?
Rốt cuộc lại, nếu trong hoạt động đối ngoại của triều Nguyễn có gì đó đáng bị phê phán thì đó chỉ có thể là đã không tìm ra phương sách đúng để đối phó với “hoạ Tây dương”. Phương Tây không phải là điều hoàn toàn mới mẻ đối với các vua Nguyễn.
Góp phần không nhỏ vào thắng lợi của Nguyễn Ánh có nhân tố phương Tây (con người, kỹ thuật, nghệ thuật quân sự…). Dưới triều Gia Long, một số quan lại trong triều là người phương Tây, cụ thể là những người Pháp. Sự có mặt của nhân tố phương Tây trên lãnh thổ Đại Nam dưới thời các vua kế nghiệp vẫn được duy trì, đặc biệt là giáo sĩ và thương nhân, bất chấp bao khó khăn, trở ngại. Được vua cha Gia Long truyền ngôi với lời trối trăn vừa ẩn ý vừa cụ thể: “PhảI đảm bảo thường xuyên một đội lính gác 50 tên để coi sóc bảo vệ lăng một của Bá Đa Lộc và không được khủng bố các tín đồ đạo Nho, đạo Phật, đạo Thiên Chúa vì cả ba đạo đó đều tốt như nhau và việc khủng bố tôn giáo bao giờ cũng tạo cơ hội cho các biến động và gây thù oán trong dân gian, thường khi còn làm sụp đổ ngôi vua.” (1). Minh Mạng không hoàn toàn cự tuyệt quan hệ với phương Tây. Khoa học và kỹ thuật phương Tây, đặc biệt là trong lĩnh vực quân sự, cuốn hút sự chú ý của ông. Cho đến những năm cuối thập niên 30, nhiều thương nhân phương Tây vẫn được phép mua bán hàng hoá tại các cảng quy định (2), dù mọI đề nghị ký kết văn kiện chính thức đều bị khước từ. Đáng chú ý hơn là năm 1840, giữa lúc cuộc Chiến tranh Nha phiến (1839 – 1842) đang diễn ra, Minh Mạng đã chủ động cử một phái bộ sang Pháp và Anh để thăm dò khả năng đi đến một hiệp ước về bang giao và thương mại. Tuy không đạt kết quả, việc làm mang tính chất đột phá này rất tiếc là không được hai vị vua kế nghiệp - Thiệu Trị và Tự Đức tiếp nối. Vì sao?
Nguyên nhân dễ thấy nhất là bản thân các vua Nguyễn, kể cả Gia Long người có nhiều quan hệ qua lại với phương Tây nhất (3) hoặc Minh Mạng, người luôn tỏ rõ sự hiếu kỳ đối với các vật phẩm phương Tây (đặc biệt là khí tài quân sự), chưa bao giờ thực sự thấu hiểu phương Tây. Họ nhìn thấy ưu thế của phương Tây trong nhiều lĩnh vực, thậm chí sẵn sàng học tập nó (thí dụ điển hình là Minh Mạng), nhưng chỉ vì những mục đích hoàn toàn thực dụng: Gia Long vì cuộc nội chiến chống nhà Tây Sơn, Minh Mạng vì yêu cầu xây dựng một thể chế vững chắc. Họ chưa bao giờ đặt ra câu hỏi: Vì sao phương Tây lại tỏ ra hùng mạnh như vậy? Câu hỏi này là một phần của thế giới quan. Thực tế cuộc sống cho thấy cho những hiện tượng hiện ra sờ sờ ngay trước mắt mọi người hết ngày này qua tháng nọ, có khi đến cả chục năm, trăm năm, trở thành quen thuộc đến mức mọi người đều tưởng rằng đã hiểu nó, nên chẳng ai buồn đặt ra câu hỏi tại sao.
Thế giới quan của các vua quan nhà Nguyễn nằm trong khuôn khổ Nho giáo và chẳng ai muốn từ bỏ nó (4). Vì vậy, đối với phương Tây, cùng lắm họ chỉ nhìn thấy được sức mạnh của nó, nhưng không cách nào giải thích được nguồn gốc của sức mạnh đó. Và vì thế trong mắt họ, người phương Tây hiện ra như là giống người trí trá, gian giảo, không biết lễ nghi…, hoặc nói theo Tự Đức: “Theo cách lập thuyết của họ, thì không có ngũ hành tương sinh tương khắc, như đã trái lẽ mà không hợp với cổ nhân rồi, lấy gì mà suy tôn họ nữa.” (5)
Trong trường hợp này, phản ứng thông thường là vừa phấn khích (vì tò mò), vừa sợ sệt (vì không hiểu). Họ muốn được mạnh như phương Tây, nhưng lại e dè không dám quan hệ quá thân thiết với nó. Do vậy, quan hệ giữa họ với phương Tây là một thứ quan hệ nửa vời: sử dụng con người và kỹ thuật phương Tây, nhưng không bao giờ chực bỏ công tìm hiểu con người – văn hoá phương Tây, tiếp thu một số thành tựu khoa học - kỹ thuật phương Tây, nhưng cự tuyệt văn hoá – tôn giáo phương Tây, buôn bán với thương nhân phương Tây, nhưng tìm đủ cách để chối từ để ký một thương ước hay lập quan hệ ngoại giao chính thức kể cả với Pháp, nước phương Tây được ưu đãi nhất.
Thứ quan hệ nửa vời vừa không sao trở thành nhân tố giục giã việc hoạch định một chính sách lâu bền, nhất quán và phù hợp, vừa không thể tồn tại vững bền và do vậy sẽ bị chấm dứt ngay khi nó vấp phải những khó khăn đầu tiên và những khó khăn đầu tiên và những khó khăn đó xuất hiện vào cuối thập niên 1830, đầu thập niên 40, khi Trung Quốc, nước mà chế độ phong kiến Việt Nam, kể cả nhà Nguyễn, xem là tấm gương để noi theo trong mọi sự, bị thất thế trước phương Tây. Sự kiện này đã làm Minh Mạng rung động và ông đã đối phó ngay.
Giữa lúc cuộc chiến Nha phiến còn đang tiếp diễn, Minh Mạng đã cử nhiều phái đoàn đến những địa điểm có mặt người Âu trong vùng Đông Nam Á để thăm dò tình hình, và sang cả Anh, Pháp như đã đề cập ở trên(5). Phương thức đối phó này phản ánh cá tính của Minh Mạng – năng động, quyết đoán, chứ không phải là sự tiếp nối logic của một chủ trương lâu dài và nhất quán đã được xác định từ trước đó. Chính vì vậy, sau khi Minh Mạng đột ngột qua đời (tháng 1 – 1841), toan tính vừa kể của ông đã không được các vị vua kế nghiệp tiếp tục, nhất là trong hoàn cảnh vào những năm sau đó, các tàu Pháp thường xuyên tỏ thái độ gây hấn hoặc thị uy ở cảnh Đà Nẵng, nơi các tàu ngoại giao phương Tây được phép cập bến.
Việc Thiệu Trị và nhất là Tự Đức quay lưng hẳng với phương Tây vừa phản ánh tính nửa vời trong quan hệ giữa Đại Nam và phương Tây, vừa hoàn toàn phù hợp với cá tính của Tự Đức: một con người chú trọng đến văn thơ hơn khoa học, kỹ thuật và không quyết đoán.
Muốn buôn bán với phương Tây, nhưng từ chối bất kỳ quan hệ nào mang tính pháp lý là chủ trương hoàn toàn trái ngược hẳn với quan điểm phương Tây.
Từ nửa sau thế kỷ XVIII, chủ nghĩa tư bản Tây Âu đã chuyển từ giai đoạn tích luỹ nguyên thuỷ sang giai đoạn công nghiệp. Chủ nghĩa tư bản được củng cố ngày càng vững chắc cả trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng (cách mạng công nghiệp) và kiến trúc thượng tầng, sau những thắng lợi của một loạt cách mạng tư sản. Đáng chú ý là xu hướng xây dựng nhà nước Pháp quyền được đẩy mạnh, mà biểu hiện cụ thể là đạo luật về các quyền (1689) của Anh, Hiến pháp 1776 của Hoa Kỳ, Hiến pháp 1792 của Pháp và bộ luật Napoléon, một loạt bộ luật về lao động và thương mại đại hàng hải của Anh trong các thế kỷ XVII – XVIII. Hoạt động quốc tế của chủ nghĩa tư bản phương Tây vừa được đẩy mạnh ở Viễn Đông, vừa được hướng theo xu hướng pháp chế hoá. Các đại biểu của phương Tây muốn quan hệ giữa họ và các nước phương Đông trong mọi lĩnh vực (ngoại giao, thương mại, tôn giáo…) được đặt trên nền tảng pháp lý vững vàng, nghĩa là trên cơ sở của những văn kiện ngoại giao cấp quốc gia có giá trị lâu dài. Rõ ràng là chủ nghĩa tư bản công nghiệp Âu Tây đang rất cần một thị trường tiêu thụ hàng hoá và cung cấp nguyên vật liệu ổn định. Nhu cầu này phải được thoả mãn bằng mọi cách. Nếu không mang lại kết quả, thì phương sách ngoạI giao tất phải nhường bước cho bạo lực quân sự.
Đáng tiếc cho nước nhà vào nửa đầu thế kỷ XIX, bang giao quốc tế ở Viễn Đông đã bị đảo lộn hoàn toàn bởi sự có mặt của một nhân tố không chỉ mới, mà còn mang tính cách mạng: đó là vai trò ngày càng trở nên quan trọng với nhịp độ mau chóng của các cường quốc phương Tây, đặc biệt là của Anh và Pháp. Vị thế cường quốc số một, duy nhất và chưa hề bị thách thức từ cả ngàn năm nay trong vùng của Trung Quốc bị thách thức nghiêm trọng. Và do vậy, việc xác lập một đường lối ngoại giao dù đúng đắn đến đâu chăng nữa sẽ chẳng còn có ý nghĩa tích cực trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, nếu đường lối đó chỉ lấy Trung Quốc làm đối tượng nhắm đến duy nhất.
Thật không thể phủ nhận rằng sau hơn 50 năm cai trị đất nước (1802 – 1858), các vua đầu nhà Nguyễn đã để lại một di sản không nhỏ, trong đó có những thứ còn phát huy tác dụng cho đến ngày nay. Nhưng vì sao dù đã tận tâm hết mức, các vua Nguyễn cuối cùng vẫn không sao làm tròn sứ mệnh của tầng lớp thống trị: thái bình thịnh trị trong đối nội, độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ trong đối ngoại?
Không thể không thừa nhận tính đúng đắn, tích cực trong nhiều chính sách của nhà Nguyễn và chúng đã mang lại hiệu quả trong thực tế không nhỏ. Nhưng xem chừng vẫn còn rất nhiều vướng mắc, thậm chí mâu thuẫn: trọng nông, nhưng lai ức thương; nhận thức rằng “văn cử nghiệp làm lầm người ta đã lâu”, nhưng lại kết luận rằng: “Tập tục theo nhau, khó mà thay đổi. Vài năm nữa nên bàn thay đổi”; cố duy trì quan hệ hoà hiếu với Trung Quốc, nhưng lại “bế quan toả cảng” với phương Tây – không khước từ buôn bán với các thương nhân phương Tây, nhưng cự thuyệt mọi đề nghị dẫn đến một văn kiện pháp lý chính thức; chú tâm tìm hiểu kỹ thuật phương Tây, nhưng lại bằng lòng với lời giải thích rằng đó là trò “trí trá, gian giảo”; và còn nhiều mâu thuẫn nữa, để rồi cuối cùng thừa nhận rằng tình hình đất nước đòi hỏi những cải cách, nhưng không mạnh dạn mang ra thực hiện những sáng kiến nhận được.
Các tài liệu chính thức cho thấy các vua Nguyễn không đến nỗi xa rời thực tế đất nước, họ biết rằng cần phải thực hiện những sửa đổi, nhưng các biện pháp đưa ra đều mang tính nửa vời, không đủ sức chuyển đổi tình hình. Rõ ràng là tầm nhìn của họ bị hạn chế, chính xác hơn: thế giới quan của họ không vượt thoát ra ngoài khuôn khổ Khổng giáo.
Tình trạng khủng hoảng kéo dài cả hai thế kỷ (tính từ thế kỷ XVI) (6) của xã hội phong kiến Việt Nam cho thấy những giải pháp truyền thống trong khuôn khổ tư duy Khổng giáo từ lâu đã không còn hiệu nghiệm. Xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XIX cần những giải pháp mạnh bạo hơn, mang tính đột phá, nghĩa là phi truyền thống vượt ngoài khuôn khổ tư duy Khổng giáo.
Lịch sử các nước cho thấy những giải pháp cách mạng như vậy có thể đến từ hai hướng: tự phát sinh ở bên trong hoặc được du nhập từ bên ngoài. Hoàn cảnh lịch sử, môi trường văn hoá, vị trí địa lý, điều kiện xã hội, cụ thể là: nội chiến, loạn lạc triền miên, ảnh hưởng sâu đậm của nền văn hoá Trung Hoa (và đầy là loại nền văn hoá vừa lớn), ở sát cạnh người láng giềng khổng lồ vừa mạnh vừa luôn có tham vọng bành trướng (nhu cầu quốc phòng trở thành yếu tố chủ đạo trong sinh hoạt của cả dân tộc), mầm mống tư bản chủ nghĩa không đủ mạnh để tạo ra động lực vật chất cho tư duy sáng tạo, khả năng tư duy sáng tạo rất có hạn của trí thức trong nước. Tất cả không tạo thuận lợi cho sự phát sinh tại chỗ những giải pháp phi Khổng giáo.
Thương nhận và giáo sĩ phương Tây đến Việt Nam không trễ hơn bao nhiều so với các nước khác trong khu vực, nghĩa là cũng từ thế kỷ XVI, đúng vào thời điểm chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu sa vào bước đường khủng hoảng. Đây là cơ hội để giới thống trị và trí thức nước nhà tiếp cận những vấn đề mà xã hội phong kiến đặt ra từ góc độ phi Khổng giáo.
Tiếc rằng ở giới thống trị thì thừa tính thực dụng, còn ở các trí thức thì lại quá thiếu sự tò mò tri thức. Kết cục là họ chỉ biết dùng mà mãi vẫn không biết cách chế tạo ra những sản phẩm được các đại biểu phương Tây mang đến.
Trong quan hệ với phương Tây, các vua Nguyễn và trí thức quan lại triều Nguyễn không đi ra ngoài phong cách trên. Hậu quả là bệng thì có lúc giảm, nhưng không bao giờ dứt hẳn và khi tái phát thì bệnh lại trở nặng hơn lúc trước, trong lúc thần chết đã lù lù đứng sẳn ở đầu giường.
Thực tế lịch sử cho thấy thực dân phương Tây trở thành mối đe doạ nguy hiểm đối với độc lập dân tộc trong trường hợp căn bệnh của xã hộI phong kiến đó không được chữa trị đúng thuốc và đúng liều. Nhật Bản và Trung Quốc, Xiêm La và Việt Nam là những thí dụ rõ ràng nhất.
SOME THOUGHTS ABOUT DIPLOMATIC POLICY OF NGUYEN DYNASTY IN THE FIRST 19TH SEMI – CENTURY
TRAN KIM NHUNG
In the diplomatic relation of the first 19th semi – century, the Nguyen dynasty must face to three objects: China, South – East neighbours (Lao, Cambodia, Siam) and the Western countries. The relation between Nguyen dynasty and China and the South – East neighbours sometimes proceeded complicatedly, but we can say that the Nguyen dynasty has completed perfectly their diplomatic mission as an independent Government. But towards the Western countries, the Nguyen dynasty has exposed a lot of weak points, and that’s the reason of the serious sickness oc the Vietnamese feudalism started falling in the situation of crisis.
CHÚ THÍCH
1. Launay. Histoire générale de la Société des Mission Etrangères, Paris, 1894. - Dẫn lại theo Nguyễn Phan Quang, Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, mở cửa hay đóng cửa?, trong sách Những vấn đề văn hoá – xã hội thời Nguyễn, tr. 31.
2. Thậm chí năm 1825, Minh Mạng còn viết thư hỏi sứ quán Anh ở Singapore vì sao thương nhân Anh không đến buôn bán tại các cửa khẩu Đại Nam nữa? (Dẫn theo Nguyễn Thế Anh. Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn, Sđd, tr. 266).
3. Một nhà nghiên cứu nước ngoài đã nhận xét: “Nếu đem so với Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản cùng thời kỳ, nước Việt Nam của Gia Long đã có nhiều kinh nghiệm cộng tác với người Tây Dương, nhất là người Pháp và đã áp dụng nhiều kỹ thuật của Tây phương”. (Yoshiharu Tsuboi. Nước Đại Nam…, tr. 50).
4. - Rất đáng chú ý những lập luận của vua quan nhà Nguyễn về quan hệ Đại Nam – phương Tây.
- Gia Long năm 1803: “Hải cương là nơi quan yếu, sao lại cho người ngoài được” (Thực lục, t. III, Tr. 124)
- Gia Long năm 1804: “Tiên vương kinh dinh việc nước không để người Hạ lẫn với người Di, đó là thực cái ý đề phòng từ lúc việc còn nhỏ. Người Hồng Mao gian giảo, trí dá, không phải nòi giống ta, lòng họ hẳn khác, không cho ở lại, ban cho ưu hậu mà khiến về…” (Thực lục t. III, tr. 193).
- Minh Mạng năm 1821: “… Còn vấn đề thương ước thì có thể giải quyết theo lối thông thường: xuất cảng, nhập cảng nước Việt Nam đã có định lệ rõ ràng, các nước ngoài vẫn áp dụng xưa nay, nếu muốn khỏi phiền phức cho cả hai bên, thì quả nhân tưởng không nên lập thêm, hay là lập riêng một thương ước khác” (Ưng Trình. Việt Nam ngoại giao sử cận đại, tr. 35).
- Năm 1836, Thị lang nội các Hoàng Quýnh: “Nước họ xảo quyệt muôn mặt, nên cự tuyệt đi. Một khi dung nạp sợ để lo cho đời sau. Người xưa đóng cửa ải Ngọc Quan, ta cự tuyệt Tây vực thực là chước hay chống cự nhung địch” (Thực lục t. XVIII, tr. 109 – 110).
- Trong tờ số của mình, Kiêm quản viện đô sát Vũ Đức Khuê đã trình bày quan điểm của mình về việc thông thương với phương Tây: “Các nước di dịch ở phương Tây lớn mạnh nhất không nơi nào bằng Đại Tây, Tiểu Tây, chỉ lấy việc buôn bán xây dựng cho nước, nếu chỗ nào có lợi, cố sức hầu chết lấy cho bằng được… Việc ngăn giữ từ lúc mới chớm có và khi còn nhỏ, không nên không sớm tính đến. Vậy nên tự ta trước đóng cửa cự tuyệt việc đi lại, để họ coi ta như Trời, không biết đâu mà lường… Từ xưa đã có quốc gia là phải nghiêm nghị cự tuyệt, không thèm cùng họ tính cái lợi trước mắt.” (Thực lục, t. XXV, tr. 190).
5. Dẫn lạI theo Nguyễn Phan Quang, Lê Hữu Phước. Khởi nghĩa Trương Định, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1989, tr. 25.
6. Xem chi tiết trong Đinh Thị Dung, Quan hệ Ngoại giao trong triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX, Luận án tiến sĩ, Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, 2001.
7. “Bước sang thế kỷ XVI, những mâu thuẫn bên trong của chế độ nhà Lê bắt đầu bộc lộ gay gắt, dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt và những cuộc xung đột giữa các tập đoàn phong kiến đối lập. Sự suy yếu của triều Lê đồng thời đánh dấu bước đường suy yếu kéo dài của các quốc gia phong kiến tập quyền.” (Nguyễn Phan Quang, Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Cảnh Minh. Lịch sử Việt Nam (1427 – 1858), Q.2, tr.1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1977, tr. 50).
Love geo
18-01-2010, 11:04 PM
1. Việc xâm chiếm nước khác là điều tất yếu của kẻ mạnh
Các nước mạnh không bao giờ chấp nhận cuộc sống hoà bình, vốn có trong nội tại quốc gia mình. Đó là điều tự nhiên từ muôn đời nay. Họ luôn có tham vọng phải xâm chiếm, phá hoại ổn định của các quốc gia khác hòng duy trì vị trí bá quyền của mình, mở rộng thị trường, nguồn tài nguyên (thuộc địa kinh tế) nhằm phục vụ cho phần đông các nhà tư bản và tài phiệt nắm quyền quyết định sức mạnh kinh tế, do vậy một chế độ tư bản không thể quyết định chính sách theo nguyện vọng của đa số nhân dân yêu hoà bình là điều tất nhiên.
Kẻ mạnh luôn cho mình một quyền được tham gia vào các hoạt động của kẻ yếu, chi phối họ theo ý mình, thậm chí tham vọng của họ là thôn tính kẻ yếu... nếu để ý trong tự nhiên, các bạn dễ dàng phát hiện điều này.
2. Cuộc chiến tranh vệ quốc của kẻ yếu
Trong cuộc chiến chống lại kẻ thù xâm lược, tính dân tộc là yếu tố hàng đầu của cuộc chiến tranh nhân dân. Người dân bị xâm lược, bị áp bức, cho dù là một kẻ hèn hạ nhất cũng không chấp nhận kẻ ngoại bang làm mưa làm gió trên đất nước họ dù bất cứ lý do nào kể cả là "gìn giữ hoà bình" hay "tái thiết đất nuớc". Kẻ mà mới hôm qua đã oanh tạc quốc gia họ, cha mẹ, anh chị em họ bằng tên lửa, rockét, đạn pháo... thậm chí bật đèn xanh cho các đảng phái xung đột làm rối ren đất nước họ. Họ có thừa trí thông minh để hiểu rằng, sau khi tấn công họ, những kẻ xâm lược đang tranh nhau chia miếng bánh "tài nguyên" của chính họ, sau đó bố thí cho họ những chuyến hàng cứu trợ, hòng che đậy lòng tham của mình.
Và họ đã tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân như vậy đó. Bắt cóc, khủng bố, tấn công các mục tiêu dân sự và quân sự... là chiến thuật nhằm đi đến một mục đích duy nhất là đánh đuổi kẻ ngoại xâm trên đất nước họ, đòi sự công bằng cho họ. Họ như con thú trong đường cùng, tự do hoặc áp bức, chết chóc, không có cách lựa chọn khác. Đó là tính tất yếu của kẻ dưới.
3. Trong chiến tranh tất cả đều phải xảy ra
Dường như tôi thấy rất ít người chịu nhìn nhận sự việc theo 2 phía, đặc biệt là phía các quốc gia yếu, hầu hết các bạn đều cho rằng khủng bố là một cái gì đó kinh tởm, phi đạo đức, tội ác... nhưng tôi tin chắc là các bạn chưa bao giờ đặt mình vào vị trí kẻ bị xâm lược, áp bức.
Trong chiến tranh, đừng nói chuyện đạo đức, bản thân những kẻ bên hai bờ chiến tuyến, mạng sống còn khó giữ, tự do là xa vời, áp bức chồng chất... thì chẳng có lý lẽ nào có thể thuyết phục họ hơn là bằng mọi giá phải đánh đuổi ngoại xâm. Họ biết rằng khi mà tham vọng che mờ mắt kẻ xâm lược kẻ cũng bất chấp đạo đức, thì chỉ có bạo lực của chiến tranh nhân dân mới đưa chúng vào bàn đàm phán, lịch sử nhân loại đã minh chứng cho điều đó.
Rồi các bạn xem, chúng ta vẫn còn chủ quan lắm, phiến diện lắm: trong một cuộc chiến tranh, kẻ chiến thắng là tất cả, có quyền hô hào, được mọi người tán dương và dễ dàng chấp nhận tha thứ cho những tội ác, còn kẻ thất bại thì bị mọi người ruồng rẫy khinh khi.
Chính vì vậy, trong cuộc chiến, việc lính Mỹ "bắn nhầm" vào làng hay việc bắt cóc con tin cũng chẳng khác gì nhau cả. Các bạn cho rằng nếu để cho du kích Iraq thành thói quen sẽ sử dụng khủng bố như một chiến lược mới thì Mỹ cũng có thói quen thọc mũi vào nội bộ quốc gia khác, thích đánh ai thì đánh sao?
Trước những biến cố thăng trầm ấy, điều quan trọng nhất của các nước khác là nên tự cường, có các biện pháp ngoại giao khéo léo đế hạn chế các xung đột, không gây hấn với ai nhưng có đầy đủ uy lực tự cường, toàn dân đoàn kết thì ai cũng phải đắn đo khi tấn công . Nhà nguyễn do cái thế gới quan trên đã biến cái lí do rơi vào tay Pháp là tất yếu
Love geo
26-01-2010, 02:33 PM
Sau các cuộc phát kiến địa lí lớn ở thế kỉ XV và XVI, chủ nghĩa Tư bản và các nước phương Tây được xác lập và đẩy mạnh các cuộc xâm lăng thuộc địa. Việc cướp đoạt châu Mỹ và phương Đông trong thế kỉ XVI đã làm cho Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha trở thành các quốc gia giầu mạnh nhất Sang thế kỉ XVII, Hà Lan mạnh lên, cũng đến Hội An (1636) và Phố Hiến lập thương điếm. Để gây thanh thế và ảnh hưởng ở Việt nam, Hà lan đã can thiệp vào cuộc chiến tranh Trịnh - Nguyễn, giúp Trịnh đánh Nguyễn (1642-1643) nhưng việc không thành.
Đầu thế kỉ XVIII người Anh có mặt ở Phố Hiến, Thăng Long. Đến đầu thế kỷ XIX (1802) Anh cho quân chiếm đảo Côn lôn, phái binh lính người Mã Lai (Ma-lai-xi-a) đến đóng giữ. Năm 1803, binh lính Mã Lai đã phối hợp với viên quan trấn thủ người Việt Nam nổi dậy tiêu diệt quân Anh, lấy lại đảo.
Trong cuộc chạy đua sang phương Đông, tư bản Pháp ngày càng chú ý tới Việt nam thông qua các tài liệu của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp cũng như của những giáo sĩ Pháp mà người tiêu biểu là A-lếch-xăng-đơ-Rốt (Alexndre de Rhodes).
Đờ-Rốt đến Việt nam từ 1624, ở Việt Nam khoảng 17 năm, tích cực truyền bá đạo thiên chúa ở cả trong Nam lẫn ngoài Bắc: Sau thời kỳ phục vụ vua Bồ Đào Nha, năm 1645 A-lếch-xăng-đờ-Rốt mở cuộc vận động lập các tòa giám mục Pháp ở Viễn đông và hệ thống công giáo bản xứ. Năm 1664 Hội truyền giáo hải ngoại Pháp được thành lập ở Paris. Trong các năm tiếp theo, các giáo hội tích cực hoạt động, vừa truyền đạo, vừa buôn bán, vừa tích cực chuẩn bị lập một dự án xâm lăng Việt Nam.
Sau chiến tranh 7 năm giữa Anh và Pháp (1756-1763), nước Pháp thua trận, phải nhường sự chiếm đoạt Ấn Độ cho Anh, Pháp chỉ còn được làm chủ một số thị trấn ven biển. Từ đó tư bản Pháp càng muốn có các thuộc địa ở Viễn đông, nhất là tại Việt nam, nơi mà các giáo sĩ của Hội truyền giáo hải ngoại Pháp và các thương gia của công ty Đông Ấn Pháp đã từng quen biết từ thế kỷ XVII.
Cho dù Công ty Đông ấn của Pháp sau đó bị giải thể, các tàu buôn Pháp không qua lại buôn bán nữa, song các giáo sĩ Pháp vẫn lén lút vào Việt Nam hoạt động.
Tại Đàng Ngoài một số giáo sĩ đội lốt thương gia ở lại Phố Hiến tiếp tục truyền giáo
Ở Đàng Trong, một số giáo sĩ dưới sự chỉ đạo của Bá đa lộc (Pignau de Béhaine), người đã từng phụ trách một chủng viện ở Hòn Đất (Kiên giang), vẫn lén ở lại miền Tây đất Gia Định. Nhờ vậy sau khi chúa Nguyễn bị phong trào nông dân Tây Sơn đánh đổ, giám mục Bá Đa Lộc đã nảy ra ý đồ giúp Nguyễn Phúc Ánh với hy vọng đi trước các nước châu Âu khác, chiếm lấy Việt Nam nhằm khuếch trương thế lực công giáo.
Về phần mình,sau khi đã cầu cứu phong kiến Xiêm, để cho quân Xiêm tàn phá đất Việt Nam từ Hà Tiên, Rạch Giá đến Vĩnh Long rồi quân Xiêm bị Nguyễn Huệ tiêu diệt ở Rạch Gầm - Xoài Mút (Định Tường), năm 1785 Nguyễn Ánh đã quay sang cầu xin bọn thực dân Tây Âu giúp đỡ.Tại thời điểm đó, chẳng những Pháp mà còn cả Anh, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha đều có phái nhân viên đến liên lạc với Nguyễn Ánh, đề nghị được viện trợ. Bản thân Nguyễn Ánh cũng có ý định sang Batavia (In-đô-nê-xi-a) để cầu viện Hà Lan hoặc sang Goa (Ấn độ) cầu viện Bồ Đào Nha, nhưng cuối cùng do có mối quan hệ từ trước, ông ta quyết định nhờ vả người Pháp.
Cuối năm 1784, được sự ủy nhiệm của Nguyễn Ánh, Pi nhô đờ Bê hen (Bá đa lộc) đã đem theo ấn tín và người con trai của Ánh là Nguyễn Phúc Cảnh (hoàng Tử Cảnh) lúc đó mới 6 tuổi đi cầu viện Pháp. Trong một tài liệu nói về cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa Bá Đa Lộc và Nguyễn Ánh, được trích trong một bức thư do Bá Đa Lộc viết vào tháng 12/1784 có một đoạn như sau: Sau khi sửa chữa xong thuyền... chúng tôi giong buồm về đảo Pulo Punjan (Phú Quốc) để từ đó vượt qua vịnh Xiêm-la. Ở đây một lần nữa chúng tôi đã gặp nhà vua Đàng trong; ông kể lại cho nghe lí do vì sao ông đã sang Xiêm. Họ mượn cớ giúp ông trở lại ngôi vua và lợi dụng danh nghĩa ông để cướp bóc dân chúng. Chính vào thời điểm này, nhà vua đã giao cho tôi chăm sóc người con trai mới lên 6 tuổi mà tôi hiện đem theo đây... sau đó chúng tôi vượt vịnh Xiêm La đến Malaque ngày 19 tháng 12
Ngày 28/11/1787 giữa Pi-nhô-đờ-Bê-hen đại diện cho Nguyễn Ánh và Bá tước Mông-mô-ranh, đại diện cho Hoàng đế Pháp Lu-i XVI đã kí kết một bản hiệp ước mang tên Hiệp ước tương trợ tấn công và phòng thủ tại Véc-Xây, trong đó người Pháp cam kết gửi binh lính, lương thực, tầu bè, súng đạn sang giúp Nguyễn Ánh khôi phục lại quyền bính. Đổi lại, Pháp được sở hữu Đà Nẵng, đảo Côn Lôn và được độc quyền buôn bán tại Việt nam.
Hiệp ước 1787 đã không được thực hiện bởi lẽ ngay sau đó, vào năm 1789 cách mạng Pháp bùng nổ,người Pháp bỏ lỡ cơ hội can thiệp ngay vào Việt nam. Tuy nhiên chúng vẫn không từ bỏ âm mưu của mình và âm mưu đó đã được coi là quốc sách để rồi hết chính phủ này đến chính phủ khác ở Pháp thay nhau theo đuổi.
Tuy chính phủ Pháp bỏ lỡ cơ hội để thâm nhập vàoViệt nam sau khi ký hiệp ước 1787 nhưng bọn tư bản Pháp ở Ấn Độ Dương vẫn ra sức ủng hộ kế hoạch của Pi-nhô-đờ-Bê-hen, bởi kế hoạch này nếu được thực hiện sẽ đem lại nhiều quyền lợi cho giới tư bản tài phiệt. Chúng đã gửi tàu chiến, sĩ quan, kĩ sư, binh lính, vũ khí đạn dược sang giúp Nguyễn ánh lấy lại đất Gia Định. Bản thân Pi-nhô-đờ-Bê-hen cũng tham gia chinh chiến trong đội quân của Nguyễn Ánh chống Tây Sơn từ Gia Định bến Bình Định cho đến chết như một viên tham mưu trưởng.
Sau khi đánh thắng Tây Sơn, năm 1802 Nguyễn Ánh tái lập vương triều Nguyễn. Tuy vậy, nguy cơ bị Pháp nhòm ngó vẫn chưa hết.
Sau cách mạng Pháp và chiến tranh châu Âu kéo dài từ 1792 đến 1814 tình hình nước Pháp trở lại yên tĩnh. Giai cấp tư sản Pháp đã lớn mạnh, chúng tiếp tục tìm cách xâm nhập Việt Nam.
Năm 1812 Na-pô-lê-ông Bô-na-pac sau khi xem các giác thư của bọn thực dân hoạt động tại Viễn Đông đã ra lệnh nghiên cứu lại hiệp ước Véc-xây (1787). Song ngay năm sau, Hoàng đế Na-pô-lê-ông đệ nhất bị đổ - âm mưu xâm lăng Việt nam của Pháp vì thế chưa thực hiện được.
( Sưu tầm )
Việc Nguyễn Ánh kí với Pháp sau vụ nhờ Bá Đa Lộc không thực hiện do một số lí do như trên nhưng ngày 22-4-1857 Napoleong III quyết định cử ra Hội đồng Nam Kỳ để xét lại Hiệp ước Vecxai đã kí năm 1787 ấy.Mặc dù hiệp ước đó đã bị thủ tiêu nhưng chúng vẫn quyết định cử quân sang đánh chiếm VN