PDA

View Full Version : Trung Hoa thập đại cổ khúc



nobita85uct
21-02-2009, 11:12 AM
.....Âm nhạc xuất hiện từ khá lâu đời tại Trung Quốc và đạt được sự phát triển thịnh vượng trải qua hàng ngàn năm. Trong số rất nhiều bài cổ nhạc được lưu truyền cho đến tận ngày nay, có 10 bài cổ nhạc được người đời xưng tụng là “Trung Hoa thập đại cổ khúc” (mười bài nhạc cổ lớn của Trung Quốc). Đó là: Cao sơn lưu thủy, Quảng lăng tản cầm khúc, Bình sa lạc nhạn, Thập diện mai phục, Ngư tiều vấn đáp, Tịch dương tiêu cổ, Hán cung thu nguyệt, Mai hoa tam lộng, Dương xuân bạch tuyết và Hồ gia thập bát phách. Mỗi một khúc nhạc đều gắn liền với một điển tích, một câu chuyện khác nhau. Trong trường hợp này, âm nhạc còn mang ý nghĩa lịch sử và thông điệp văn hóa.

1. Quảng lăng tán cầm khúc (广陵散琴曲):
Trong truyện Kiều, khi Kiều đàn cho Kim Trọng nghe tại vườn Thúy, có đoạn:
Kê Khang này khúc Quảng Lăng
Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân
câu đầu chính là để chỉ khúc "Quảng lăng tán" . Nhắc đến "Quảng lăng tán", thì phải nhắc đến hai câu chuyện, chuyện của thích khách Nhiếp Chính thời Chiến Quốc và chuyện của Kê Khang.

Cha của Nhiếp Chính vì Hàn Vương mà đúc kiếm, do trễ ngày giao kiếm mà bị thảm sát, Nhiếp Chính vì trả thù cha luyện đàn mười năm, nổi tiếng khắp nơi, được Hàn Vương triệu vào đàn. Nhiếp Chính nhân cơ hội này giết chết Hàn Vương rồi hủy dung tự tử để khỏi liên lụy thân nhân. Người đời sau vì cảm khái câu chuyện này mà soạn nên khúc "Quảng lăng tán".

Sáu trăm năm sau, đời Ngụy Tấn, có Kê Khang là một nhạc gia nổi tiếng trong nhóm “Trúc Lâm thất hiền” đã phát triển khúc này thành một khúc nhạc tuyệt luân. Đương thời họ Tư Mã đang tiếm quyền Tào Nguỵ, Kê Khang tài giỏi nhưng tính cương liệt, đứng về phía nhà Nguỵ một mực tỏ thái độ không hợp tác với họ Tư Mã. Năm 262 tr.CN Kê Khang vì tội làm loạn triều chính đã bị chặt đầu giữa chợ, trước khi chết ông đã tấu khúc "Quảng lăng tán" một lần cuối cùng rồi thốt lên rằng: "Quảng Lăng Tán từ nay thất truyền! "
Ngàn năm sau khi nghe khúc này không thể không quên cái khúc ý “anh hùng cao nghĩa, danh sĩ tuyệt đường” bàng bạc trong khúc nhạc này.
(Trong truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ của Kim Dung, Hướng Vấn Thiên đã dùng cầm phổ của khúc "Quảng lăng tán" này để "dụ" Giang Nam tứ hữu :P. Cũng dựa vào bản "Quảng lăng tán" mà Khúc Dương trưởng lão và Lưu Chính Phong đã soạn ra khúc "Tiếu ngạo giang hồ" cho tiêu cầm hợp tấu. Mèo rất khoái bản Tiếu Ngạo Giang Hồ được soạn cho bộ phim Tiếu Ngạo Giang Hồ 1998 của Lữ Tụng Hiền (Lệnh Hồ Xung) với Lương Bội Linh (Nhậm Doanh Doanh) !

2. Bình sa lạc nhạn (平沙落雁): Thời Minh triều còn có tên Lạc nhạn bình sa (落雁平沙), khúc điệu du dương, dìu dập, trong tiếng đàn có tiếng nhạn. Miêu tả chim nhạn đáp xuống giữa không trung, ngoái đầu ngắm cảnh.
3. Thập diện mai phục (十面埋伏): Nhạc khúc miêu tả tình cảnh quyết chiến oanh liệt cuối cùng của chiến tranh Sở Hán vào năm 202 trước công nguyên. Trận ấy, tứ diện Sở ca, bốn bề mai phục, Hạng Vũ phải tự tử ở Ô Giang, Lưu Bang giành được thắng lợi. Theo GS Trần Văn Khê thì “Thập diện mai phục” là một trong những bản khó đàn nhất, đặc biệt từ chương Ba đến sau có mấy đoạn khi đàn phải chen ngón giữa của bàn tay trái vào các dây làm âm thanh phát ra đục và giống như tiếng gươm giáo chạm nhau, như Nguyễn Du đã tả khi Kiều đàn cho Kim Trọng nghe khúc này:

Khúc đâu Hán Sở chiến trường

Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau
4. Ngư tiều vấn đáp (渔樵问答): bày tỏ niềm an vui tự tại của “ngư tiều” giữa chốn rừng xanh núi biếc (thanh sơn lưu thuỷ).Nhạc khúc dùng phương thức đối thoại giữa “ngư giả” và “tiều giả”, những lúc mà nhạc khúc lên cao chính biểu đạt câu hỏi, lúc mà giai điệu thấp xuống thì biểu thị câu trả lời. Toàn khúc phiêu dật tiêu sái, biểu hiện thần thái thong dong tự tại của "ngư tiều"…

5. Tịch dương tiêu cổ (夕阳箫鼓): Là khúc nhạc trữ tình khoảng trước sau năm 1925.
6. Hán cung thu nguyệt (汉宫秋月): kể lại tâm tình của cung nữ thời xưa thường bị áp bức, khóc lóc thê lương, gợi nên sự đồng cảm của mọi người.

7. Mai hoa tam lộng (梅花三弄): nhạc khúc thuộc loại "tá vật vịnh hoài", mượn hình ảnh tinh khiết,sự thơm ngát và sức kiên cường chống chọi với cái lạnh của hoa mai để tán tụng những người có tiết tháo cao thượng.Nửa đầu khúc nhạc giai điệu du dương, thanh u gợi lên sự cao quý và trạng thái tĩnh tại an tường của hoa mai. Nửa đoạn sau vội vàng, hấp tấp biểu hiện động thái bất khuất của hoa mai.Giai điệu tiết tấu hai đoạn đầu và cuối như là bất đồng, tương phản rõ rệt...

8. Dương xuân bạch tuyết (阳春白雪): “Dương xuân bạch tuyết” dùng tiếng đàn miêu tả cảnh mùa xuân sang, tuyết đang tan ra. Ở thời điểm giao mùa vẫn còn cái hơi lạnh của mùa đông nhưng đã có cái ấm áp của mùa xuân. Tiếng đàn trầm bổng khoan hòa, nhẹ nhàng như nước chảy bên tai, làm người nghe quên cả trời đất, cảm thấy trong lòng nhẹ nhàng sảng khoái, mơ màng như thấy có những tia nắng ấm áp lan tỏa lên thân mình, xa xa những lớp tuyết đang từ từ tan ra trên một cành mai gầy...
9. Hồ gia thập bát phách (胡笳十八拍): “Hồ gia thập bát phách” kể về về cố sự “Văn Cơ quy hán”. Trong khung cảnh chiến loạn thời mạt Hán, Thái Diễm ( Thái Văn Cơ) lưu lạc ở đất Hung Nô 20 năm. Nàng thân tuy là sống bên cạnh của nhà vua, nhưng lòng thì luôn hoài niệm về cố hương. Lúc Tào Tháo phái người đón nàng về cố hương, nàng không nỡ rời xa hai đứa con nhỏ, niềm vui hồi hương bị nỗi đau cốt nhục chia ly bao phủ làm tâm tình nàng cực kỳ mâu thuẫn…
10. Cao sơn lưu thủy (高山流水): Trong mười bài cổ khúc thì mình thích khúc này nhất. Khúc ý thanh tân tao nhã, liên miên bất tuyệt, nghe ra núi cao, vực sâu, biển rộng, sông dài, lòng người nghe tựa hồ như cánh nhạn đang bay khắp non xanh nước thẳm. Khúc “Cao sơn lưu thủy” gắn liền với điển tích Sở Bá Nha – Chung Tử Kỳ. Tương truyền Bá Nha hay tấu khúc này, nhưng chỉ một mình Tử Kỳ là hiểu được. Một lần Bá Nha gảy đàn, lòng nhớ tới núi cao, Tử Kì liền bảo “Thiện tại hồ cổ cầm, nguy nguy hồ nhược Thái Sơn” (Đánh đàn hay thay, vòi vọi tựa Thái Sơn). Đến lúc Bá Nha nghĩ đến vực sâu, Tử Kì nhận ngay ra rằng “Đăng đăng hồ nhược lưu thủy” (Cuồn cuộn như nước chảy).
Khi Tử Kỳ lâm bệnh chết, Bá Nha chỉ gẩy đàn thêm một lần duy nhất trước mộ người tri âm rồi đập đàn vào tảng đá, không bao giờ cầm đến cây đàn nữa.
Bản “Cao sơn lưu thủy” lưu truyền ngày nay chủ yếu là bản do Xuyên Phái đời Thanh gia công và phát triển, được Đường Di Minh đời nhà Thanh ghi lại trong “Thiên văn các cầm phổ” (năm 1876). Ông đã hết sức phát huy các thủ pháp cổn, phất, xước, chú, khiến hình tượng núi cao, nước chảy thêm rạng rỡ, nên mới có danh xưng “Thất thập nhị cổn phất lưu thủy”.

Trong 10 khúc nhạc trên thì ngoại trừ vài khúc dùng cho đàn tỳ bà, tiêu, còn đa phần đều là những khúc được tấu trên cổ cầm. Người Trung Quốc coi cây đàn cổ cầm như một báu vật văn hóa. Ngày nay, người chơi đàn vẫn giữ được những lễ tiết của văn hóa cổ xưa như việc đốt mỗi lư trầm đặt trước giá đàn mỗi khi tấu một bản nhạc. Năm 2003 Nghệ thuật âm nhạc cổ cầm của Trung Quốc đã được tổ chức UNESCO tôn vinh là Kiệt tác văn hóa truyền khẩu phi vật thể của nhân loại (trước đó năm 2001, UNESCO đã phong cho nghệ thuật Kinh Kịch và năm 2005, phong tặng cho công phu Thiếu Lâm) cùng đợt tôn vinh này nghệ thuật Nhã nhạc cung đình Huế ở Việt Nam cũng đã được công nhận.

(st từ blog của zip)

TrungX
21-02-2009, 11:21 AM
:-" có mấy khúc thất truyền mje nó rồi :-" tiếc quá

mà bác xem cái nào còn thì tìm post lên đây luôn đi :-"

nobita85uct
21-02-2009, 11:33 AM
:-" có mấy khúc thất truyền mje nó rồi :-" tiếc quá

mà bác xem cái nào còn thì tìm post lên đây luôn đi :-"

có link nhưng hdv nó ngừng cho đăng ký thành viên nên không tải được.
vứt tạm ra đây.ai có acc thì hộ anh em nhé ;;)

http://hdvnbits.org/details.php?id=1533 :adi_hvt13:

nobita85uct
26-03-2009, 02:06 AM
1. Cao sơn lưu thủy

http://streaming.timnhanh.com/e0ae2f2642ae1e1adcbc0bee53b6e1d9/49ca7f30/music/mp3/20090326/nobita85uct/1238007910676908682.mp3

Phổ cầm sớm nhất của nhạc khúc này cọ̀n được ghi trong “Thần kỳ bí phổ”. Giải thích về nhạc khúc này sách viết: “Cao sơn lưu thuỷ ban đầu chỉ có một đoạn, đến đời Đường nó được phân thành hai khúc nhạc giống nhau, không phân đoạn, đến đời Tống người ta mới phân Cao sơn thành 4 đoạn, lưu thuỷ thành 8 đoạn”. “Cao sơn lưu thuỷ” gắn liền với một giai thoại về mối tình tri âm tri kỉ giữa Sở Bá Nha và Chung Tử Kỳ.

Thời Xuân Thu ở nước Sở có người tên Bá Nha, họ Sở, vốn tinh thông âm luật, tài đánh đàn tuyệt kĩ hơn người. Nhưng Bá Nha luôn buồn rầu vì thấy mình vẫn chưa thể xuất thần diễn tả những cảm nhận về vạn vật. Khi sư phụ của ông biết điều đó đã đưa ông lên thuyền tới đảo Bồng Lai.

Ở nơi đây, Bá Nha được thấy vẻ hùng vĩ và tráng lệ của thiên nhiên, cảm nhận những đợt sóng dạt dào của biển lớn… Nghe những âm thanh lúc mạnh mẽ ồn ào, lúc nhẹ nhàng dịu dàng của sóng hòa lẫn với tiếng kêu của Hải Âu, bên tai Bá Nha như đang tấu lên khúc nhạc tuyệt vời của thiên nhiên. Ông lấy đàn và tự nhiên tấu lên khúc nhạc, những ý tứ dào dạt tuôn ra, dường như tất cả những huyền diệu của tự nhiên đã hòa vào trong tiếng đàn.

Thế nhưng không ai hiểu được âm nhạc của Bá Nha, vì vậy mà ông luôn cảm thấy vô cùng cô đơn, một nỗi lòng trầm tư không thể cùng ai chia sẻ.

Đến một đêm, Bá Nha trên thuyền đi ngắm cảnh núi sông, thấy trăng thanh gió mát lòng ông lại tràn đầy cảm xúc. Khi tấu đàn lên, những âm thanh mượt mà, du dương như tràn ngập cả không gian huyền diệu. Bỗng nhiên Bá Nha cảm thấy có người đang nghe tiếng đàn của mình, nhìn quanh chỉ thấy một tiều phu đứng bên núi liền mời lên thuyền.

Sau khi Bá Nha tấu khúc nhạc ca ngợi vẻ đẹp của non cao (”cao sơn”), người tiều phu nói: “巍巍乎志在高山” (Phiên âm: “Nguy nguy hồ chí tại cao sơn”. Tạm dịch: “Vòi vọi tựa núi cao”)

Bá Nha lại tấu khúc nhạc diễn tả những ngọn sóng lớn đuổi nhau ào ạt xô bờ (”lưu thủy”), người tiều phu lại bình: “洋洋乎志在流水” (Phiên âm: “Dương dương hồ chí tại lưu thủy”. Tạm dịch: “Cuồn cuộn như nước chảy”)

Bá Nha xúc động nói: “Đây thực là tri âm của ta!” Người tiều phu đó chính là Chung Tử Kì.

Khi Tử Kì lâm bệnh chết, Bá Nha chỉ gẩy đàn thêm một lần duy nhất trước mộ người tri âm rồi đập đàn vào tảng đá, không bao giờ cầm đến cây đàn nữa.

Ngay từ thời Xuân Thu Chiến Quốc(thế kỉ 4 tr.CN), Liệt Ngự Khấu, người nước Trịnh, trong Thang vấn, sách Liệt Tử có ghi rằng:

“Bá Nha chơi đàn tuyệt hay, Chung Tử Kỳ nghe đàn càng giỏi. Bá Nha chơi đàn, chí tại núi cao, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay! vời vợi tựa Thái sơn’. Chí để nơi dòng nước chảy, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay! mênh mang như sông nước’. Bất luận là chí tại cao sơn hay chí tại lưu thuỷ, Bá Nha trong mỗi khúc nhạc đều biểu hiện chủ đề hoặc ư tưởng của mình, nhờ đó Chung Tử Kỳ có thể lĩnh hội được ý tứ đó. Nghe nhạc vốn dĩ là cảm cái khúc ý mà người chơi gửi gắm, đạo lý này vốn dĩ đă có từ ngàn xưa vậy.

Một ngày, Bá Nha cùng Chung Tử Kỳ chơi núi Thái sơn, gặp trời mưa to, hai người dừng lại dưới một mỏm núi đá. Bá Nha trong tâm phiền muộn bèn tấu một khúc nhạc. Khúc nhạc ban đầu biểu hiện cảnh mưa rơi xuống một dòng suối trên núi, tiếp đó khúc nhạc mô phỏng âm thanh của nước lên cuồn cuộn cùng đất đá đổ nát. Mỗi khúc nhạc vừa hoàn thành, Chung Tử Kỳ đều ngay lập tức nói ngay được ý tứ mỗi bài. Bá Nha thấy thế bỏ đàn mà rằng: “Giỏi thay! Các hạ có thể nghe thấu cái chí thú trong khúc nhạc, ý của các hạ cũng là ý của ta vậy”. Từ đó hai người trở thành một cặp nhân sinh tri kỷ mà đời sau vẫn ca ngợi.

Nhưng mà sách Liệt Tử hoàn toàn không nói tới chuyện Bá Nha vì Chung Tử kỳ mất mà từ đó không bao giờ chơi đàn nữa.

Vào khoảng thế kỷ thứ III tr.CN sách Lã Thị Xuân Thu, thiên Bản vị cũng ghi lại câu chuyện tương tự:

“Bá Nha chơi đàn, Chung Tử Kỳ nghe. Đàn chơi mà chí để tại Thái sơn, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay tiếng đàn! Cao cao như núi Thái Sơn’. Khi chí để nơi dòng nước chảy, Chung Tử Kỳ nói: ‘Hay thay tiếng đàn! Mênh mang như nước chảy’. Chung Tử Kỳ chểt, Bá Nha quẳng đàn dứt dây đến tận cuối đời không chơi đàn. Từ đó trên nhân thế không có ai có thể gọi là cầm giả nữa”.
Lã Thị Xuân Thu nhìn chung giống với sách Liệt Tử, chỉ khác kểt cục này: sau Chung Tử Kỳ chết, Bá Nha “đến cuối đời không chơi đàn nữa”. Lã Thị Xuân Thu tuy không phải là một cuốn sử có độ xác tín cao, nhưng so với Liệt Tử trước đó thì nội dung không phải là hoàn toàn vô căn cứ. Vì thế chuyện Bá Nha vì Tử Kỳ mà không chơi đàn nữa đă trở thành một câu chuyện đẹp được lưu truyền.

Bá Nha lúc sinh thời là một người nổi tiếng. Tuân Huống (tức Tuân Tử) trong thiên Khuyến học cũng từng đề cập đến Bá Nha: “Cổ nhân chơi đàn thì cá cũng phải ngoi lên nghe, Bá Nha chơi đàn thì sáu ngựa dừng ăn”. Tuy lời lẽ có vẻ khoa trương nhưng tài năng của một đại âm nhạc gia như Bá Nha là không thể nghi ngờ.

Sau sách Liệt Tử và Lã Thị Xuân Thu, đời Tây Hán có Hàn Thi ngoại truyện, Hoài Nam Tử, Thuyết Uyển, Đông Hán có Phong tục thông nghĩa, Cầm tháo, Âm phủ giải đề… đều viện dẫn câu chuyện này. Trong các tác phẩm này đều miêu tả Bá Nha với nội dung hết sức phong phú.

Thí dụ như Sái Ung đời Đông Hán trong sách Cầm Tháo viết câu chuyện Bá Nha bái sư học thủ pháp “di tình” của cổ cầm.

Đến đời nhà Minh, Phùng Mộng Long trong phần khai quyển thiên thứ nhất là “Du Bá Nha suất cầm tạ tri âm”. Trong thiên tiểu thuyết này Bá Nha trở thành nhạc quan Du Bá Nha còn Chung Tử Kỳ trở thành tiều phu ở đất Hán Dương. Từ một điển tích thời cổ hơn trăm chữ đến đây từ nhân vật, địa điểm, đến tình tiết nhất nhất đều đã trở thành một thoại bản tiểu thuyết.

Cao sơn lưu thuỷ luôn gắn liền với thiên cổ giai thoại về Bá Nha và Chung Tử Kỳ. Nó có thể lưu truyền hơn hai nghìn năm cũng là nhờ nó đã dung hội được những phẩm chất tinh túy của văn hoá Trung Hoa. Đoạn giai thoại kể trên có thể nói là thể hiện được đầy đủ nhất văn hoá tinh thần về “thiên nhân hợp nhất, vật ngã lưỡng vong” của người Trung Quốc cổ đại.

Vào đời Minh, Chu Quyền Thành trong sách Thần kỳ bí phổ đối với câu chuyện này đã giải thích rất kỹ: “Hai khúc Cao sơn, lưu thuỷ vốn chỉ là một khúc. Ban đầu chí để nơi núi cao, ý nói người nhân vui ở núi. Sau đó chí để tại dòng nước chảy, ý nói kẻ trí vui ở sông nước” (”Nhân giả lạc sơn, trí giả lạc thuỷ”)

Cao sơn lưu thuỷ đã ẩn chứa sự mênh mang của trời đất cũng như hồn cốt của sông núi, có thể nói đã đạt được cảnh giới tối cao của việc biểu hiện những chủ đề cổ nhạc Trung Quốc. Nhưng mà bản thân khúc nhạc Cao sơn lưu thuỷ của Bá Nha hoàn toàn không được lưu truyền hậu thế, người đời sau không hề được lĩnh hội cách xử lý tuyệt diệu của Bá Nha trong khúc nhạc. Sở dĩ người đời sau không ngớt lưu truyền câu chuyện đằng sau Cao sơn lưu thuỷ hoàn toàn là dùng tâm mà hướng đến khúc nhạc.

Giai thoại này được lưu truyền nguyên nhân trực tiếp là vì mối tình tri âm tương tri, tương giao giữa hai người. Tri âm đã mất, Bá Nha đương nhiên đoạn huyền, tuyệt âm. Nhạc Phi trong Tiểu trùng san chỉ một từ “Người tri âm thực ít, đàn không đứt thì biết lấy ai nghe” đã phản ánh chính xác tâm trạng của Bá Nha lúc bấy giờ.

Việc quẳng đàn của Bá Nha thể hiện rất rõ chí của ông ta. Thứ nhất là việc làm thể hiện sự tôn trọng đối với người bạn đã mất, thứ nữa là vì tuyệt học của chính mình người đời không ai có khả năng lĩnh hội được mà biểu hiện sự buồn khổ và cô độc. Nghĩ như thế thì Bá Nha tất là người thị tài ngạo vật, trác tuyệt khác người, khúc nhạc của Bá Nha là cao khúc nhưng cũng vì thế mà cô độc, phàm phu tục tử không thể lĩnh hội được sự linh diệu của nhạc khúc. Bá Nha vì cảm thấy thấu đáo sự cô độc, vì phát hiện ra rằng tri âm nơi trần thế thực khó tìm mà nhất thời cảm khái.

Cao sơn lưu thuỷ sở dĩ được các chư tử thời Xuân thu chiến Quốc nhiều lần ghi chép là vì bối cảnh của văn hoá sĩ đương thời.

Thời Tiên Tần là giai đoạn bách gia tranh minh, nhân tài rất nhiều. Rất nhiều kẻ sĩ thời đó quan niệm rất đơn giản, hoàn toàn không nhất thiết phải trung với nước chư hầu mình sinh sống. Việc lưu động kẻ sĩ giữa các nước nhiều không kể xiết, họ luôn mong ngóng sự tri ngộ của bậc minh chủ. Họ hy vọng có thể gặp được người tri âm như mình, có thể hiểu được mộng vương công chư hầu của mình, từ đó mà phát huy sở học của mình. Đó chính là mơ ước suốt mấy ngàn năm của người đọc sách.

Nhưng mà có thế đạt được mục tiêu ấy có mấy người? Hầu hết họ đều một đời uổng phí tài năng không gặp được tri âm mà hoàn toàn vô danh, cũng có người ẩn thân nơi chợ nghèo, người thì đợi già chốn sơn lâm.

Từ đó có thể thấy, Cao sơn lưu thuỷ được lưu truyền rất rộng thời Tiên Tần chính vì điển tích phía sau nó ngụ ý một cuộc gặp gỡ kỳ diệu của đời người, cũng là sự bộc lộ sự oán trách thế nhân bạc bẽo, ngu dốt không biết đến nhân tài. Sở dĩ hàng nghìn năm sau nó vẫn khơi gợi được tiếng nói chung của không ít người cũng chính ở những tình cảm trong đó.

Bản “Cao sơn lưu thủy” lưu truyền ngày nay chủ yếu là bản do Xuyên Phái đời Thanh gia công và phát triển, được Đường Di Minh đời nhà Thanh ghi lại trong “Thiên văn các cầm phổ” (năm 1876). Ông đã hết sức phát huy các thủ pháp cổn, phất, xước, chú khiến hình tượng núi cao, nước chảy thêm rạng rỡ, nên mới có danh xưng “Thất thập nhị cổn phất lưu thủy”.

Bản nhạc này được phân thành 9 đoạn và một vĩ thanh, cụ thể là 4 bộ phận lớn: khởi, thừa, chuyển, hợp.

Phần khởi (đoạn 1 đến đoạn 3), thông qua giai điệu thâm trầm, hồn hậu, uyển chuyển và âm bội sáng rõ, đã biểu hiện được những cảnh tượng kì diệu của núi cao trùng điệp, suối chảy khe sâu một cách rõ ràng, tươi sáng.
Phần thừa (4 và 5), dàn trải không dứt, giai điệu đậm màu sắc ca hát, giống như những giọt nước chảy trong khe suối tập hợp thành dòng nước mạnh.
Phần chuyển (6 và 7), nhờ vào khúc điệu có thứ tự bội âm đi xuống và âm giới của 5 thanh đi lên, âm hóa với xung động mạnh, kết hợp với các thủ pháp cổn, phất, như một dòng thác chảy ào ạt xuống, dồn vào sông biển cuộn trào sóng lớn.
Phần hợp (đoạn 8 và vĩ thanh), vận dụng một phần âm điệu của phần thừa và phần chuyển tạo thành hiệu quả hô ứng, tạo nên dư âm như sóng trào trên sông biển, khiến người nghe có thể cảm nhận dư vị hết sức ngỡ ngàng và thú vị.
Thời nhà Đường, “Cao sơn lưu thủy” phân ra thành hai khúc, không phân đoạn.

Đến thời Tống lại phân cao sơn thành 4 đoạn, lưu thủy thành 8 đoạn, thiên về lưu thủy, khiến cho người nghe có cảm giác biển lớn đang vỗ sóng bên tai, âm vang mãi không thôi.