PDA

View Full Version : Vì sao Thuyết tương đối không được giải Nobel?



thienthanaoden
09-11-2006, 09:10 AM
http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2006/10/3B9EF7F1/
----------------------------------------------------------------------

http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2006/10/3B9EF7F1/73.jpg

Năm 1922, Einstein được trao giải Nobel Vật lý nhưng không phải cho Thuyết tương đối, công trình vĩ đại nhất trong cuộc đời khoa học của ông. Sự kiện này đã trở thành một trong những bí ấn gây tranh cãi nhất trong lịch sử giải Nobel.

Sau nhiều năm tham khảo các tài liệu lưu trữ, nghiên cứu lịch sử khoa học Robert Marc Friedman đã tìm ra một sự thật bất ngờ: Việc Einstein không được trao giải Nobel cho tuyết tương đối không xuất phát từ quan điểm khoa học, mà là hành động có chủ ý của một số người thành kiến với Einstein nhằm hạ thấp uy tín của cá nhân ông.

Thuyết tương đối rộng là thành tựu lớn nhất của Einstein. Tuy nhiên, nó ra đời vào lúc bản thân ông không được cộng đồng khoa học trong nước Đức ủng hộ, đó là thời điểm trong và sau Chiến tranh thế giới thứ 2. Einstein là một người Do Thái theo chủ nghĩa hòa bình, đã dám chối bỏ tư cách công dân Đức, tham gia vào các nhóm cấp tiến và công khai ủng hộ chủ nghĩa xã hội. Xuất phát từ định kiến này, một số nhà khoa học hàng đầu của Đức lúc đó đã gọi công trình của ông là trò bịp bợm vô căn cứ.

May mắn thay, vẫn còn có người tin rằng có thể kiểm chứng lý thuyết của Einstein, đó là nhà thiên văn học người Anh Arthur Stanley Eddington. Tận dụng 6 phút quý giá của hiện tượng nhật thực toàn phần ngày 29/5/1919, Eddington đã chứng minh được rằng, thuyết tương đối là hoàn toàn chính xác.

Ngày 6/11 cùng năm, sau khi Eddington công bố kết quả quan sát của ông, chỉ qua 1 đêm, Einstein đã trở thành một cái tên được nhắc đến trên toàn thế giới. Một số thành viên của Ủy ban điều hành giải Nobel đã nghĩ đến việc đưa Einstein vào danh sách những ứng cử viên cho lễ trao giải năm 1920.

Nhưng rốt cục, theo nhận xét trong cuộc họp chung của toàn ủy ban, Einstein là một người có tư tưởng khoa học và chính trị cực đoan, lại không tự tiến hành các thực nghiệm nên không xứng đáng được tôn vinh. Giải thưởng năm 1920 đã được trao cho một nhà khoa học Thụy Sĩ chưa từng được nhắc đến với một nghiên cứu mờ nhạt đến mức cả thế giới phải ngạc nhiên.

Năm 1922, danh tiếng của Einstein đã lớn đến mức Ủy ban điều hành giải Nobel bắt đầu lo rằng, uy tín của họ có thể bị tổn hại nếu vẫn tiếp tục phớt lờ một tài năng kiệt xuất như vậy. Nhưng mặt khác, họ cũng không muốn thừa nhận những gì mà chính mình đã bác bỏ những năm trước.

Giải pháp cuối cùng là Einstein vẫn được trao giải Nobel vật lý nhưng không phải cho thuyết tương đối mà cho một công trình khác ít quan trọng hơn, cũng ra đời từ năm 1905: hiệu ứng quang điện. Theo tuyên bố chính thức, Einstein được nhận giải Nobel bị treo của năm 1921, còn người nhận giải Nobel của năm 1922 là Niels Bohr với một lý thuyết lượng tử mới.

cungdanbuon
07-02-2007, 08:17 PM
Hồi đi học cấp 3 tớ thích nhất phần thuyết tương đối hẹp Einstein
bố tớ kể ngày trước học đại học thuyết tương đối rộng của Einstein thầy cô dạy sinh viên nghe thế thôi chứ chẳng ai hiểu j hết

cungdanbuon
07-02-2007, 08:32 PM
Thủ nghĩ nhé ( cái này tớ nghĩ lâu rồi nhưng ko biết có đúng ko ) người ta quan sát được hình ảnh của 1 ngôi sao cách trái đất hàng nghìn năm ánh sáng nghĩa là sao là hình ảnh con người nhìn thấy là hình ảnh của ngôi sao đó cách đấy cả nghìn năm rồi còn hiện tai nó thế nào thì ko biết . muốn biết thì lại phải đợi 1000 năm nữa cho hình ảnh bây j của ngôi sao lại truyền tới trái đất : như thế thì hoàn toàn có thể nhìn lại được quá khử của mình
và có thể ở 1 nơi nào đó ngoài vũ trụ kia có những người ngoài hành tinh đang quan sát trái đất và họ thấy trái đất với những con khủng long đang ăn cỏ

Sagi
07-02-2007, 08:54 PM
anh ko hay quan tâm mấy vấn đề này nhưng thấy chú nói cũng có li',chỉ ko hiểu ở chỗ tại sao lại nhìn đc quá khứ

cungdanbuon
08-02-2007, 09:13 AM
tai sao không chỉ cần đứng ở 1 nơi nào đó cách trái đất 1 năm ánh sáng chẳng hạn đương nhiên nhìn thấy hình ảnh của trái đất cách đó 1 năm rồi

Sagi
08-02-2007, 01:06 PM
:bo: :bo: hehe,gà wa,đợi đến khi đến đc nơi cách trái đất 1 năm as thì khi nhìn về cũng chỉ thấy như lúc mình mới đi thôi,(mới là gs V đi đến hành tinh kia=Vas)

cungdanbuon
09-02-2007, 10:02 AM
Tao nói là đứng ở 1 nơi cách trái đất 1 năm ánh sáng cơ mà tao nói đi hồi nào
Còn đến bằng cách nào thì xét sau

Quynhchemistry
09-02-2007, 11:04 AM
Lại một vụ cãi nhau, hay nhỉ?
Những người làm khoa học cũng khổ nhỉ?

cungdanbuon
09-02-2007, 11:09 AM
tại thằng Giang nó gây sự trước chứ có phải tớ già mồm đâu
Nhưng công nhận là dạo này mình cũng già mồm hơn xưa rồi hay sao đó

Sagi
23-02-2007, 12:22 PM
tại thằng Giang nó gây sự trước chứ có phải tớ già mồm đâu
Nhưng công nhận là dạo này mình cũng già mồm hơn xưa rồi hay sao đó

ghê gớm,xưa đã già nay còn già hơn là điều hiển nhiên

thienthanaoden
26-02-2007, 10:40 AM
Thủ nghĩ nhé ( cái này tớ nghĩ lâu rồi nhưng ko biết có đúng ko ) người ta quan sát được hình ảnh của 1 ngôi sao cách trái đất hàng nghìn năm ánh sáng nghĩa là sao là hình ảnh con người nhìn thấy là hình ảnh của ngôi sao đó cách đấy cả nghìn năm rồi còn hiện tai nó thế nào thì ko biết . muốn biết thì lại phải đợi 1000 năm nữa cho hình ảnh bây j của ngôi sao lại truyền tới trái đất : như thế thì hoàn toàn có thể nhìn lại được quá khử của mình
và có thể ở 1 nơi nào đó ngoài vũ trụ kia có những người ngoài hành tinh đang quan sát trái đất và họ thấy trái đất với những con khủng long đang ăn cỏ

Bắt đầu phân tích câu nói của Hưng cửng nào!

Bởi ánh sáng truyền tới chúng ta mất hàng nghìn năm cơ mà, nên cáu chúng ta thấy chỉ là wa' khứ của nó, tất nhiên là nếu mún biết hình ảnh của nó hiện tại thì phaior đợi theo lý thuyết là hàng nghìn năm nữa! Tuy nhiên, k ai biết trước được tương lai cả, biết đâu trong vòng hàng nghìn năm ấy con người tìm ra phương tiện wan sát hơn cái kính Hubber hiện nay thì lại có thể nhìn tốt hơn thì sao?

Còn việc nhìn lại wa' khứ của mình đối với chúng ta là điều k thể!( cái này là do đọc trên mạng thui), chỉ có thể với ....người ngoài hành tinh! Theo nghiên cứu của các nhà KH thì khi con người tìm ra một phương tiện nào đi nhanh hơn tốc độ của ánh sáng, leo lên đó và có thể trở về với wa' khứ! Đó mới chỉ là giả định chứ chưa có ai kiểm nghiệm cả! Thực ra thì trong một vài Phòng thí nghiệm nào đó người ta đã làm = cách nào đó và đã thành công khi cho các điện tử ( hay là j` đó tớ k nhớ lắm) di chuyển với vận tốc gấp vài lần ánh sáng!

Cứ hy vọng đi, he he, ai mà biết sau này có tạo được cỗ máy thời jan như của Đoremon hay k?

Sagi
01-03-2007, 04:13 PM
trở về quá khứ là điều ko thể,chỉ có thể nhìn mà ko thể sờ và cảm nhận đc.Hôm nay vừa đc giảng giải V tỉ lệ thuận với m,khi V=Vas thì hẳn là m rất lớn,vậy why mấy hạt foton as lại gần như ko trọng lg

thienthanaoden
02-03-2007, 07:09 PM
Uh, sory, tại lúc đó cuống nên k nhớ nổi tên ổng là gì, hì hì!

Thêm 1 ít thông tin về hành trình đi ngược wa' khứ nha!

thienthanaoden
02-03-2007, 07:10 PM
Hành trình đi tìm máy thời gian (phần 1)

Trong nhiều thập kỷ kể từ khi cuốn tiểu thuyết lừng danh Máy thời gian ra đời năm 1895, vấn đề này vẫn chỉ mang nhiều tính văn học giả tưởng. Song những năm gần đây, du hành thời gian đã trở thành cái gì đó giống như một "nghề thủ công" trong giới các nhà vật lý lý thuyết.

Đối với các nhà lý thuyết, chủ đề này vốn vẫn mang nhiều ý nghĩa tiêu khiển. Nhưng lần này họ đã "tiêu khiển" một cách nghiêm túc. Thông suốt được mối quan hệ nhân quả là một vấn đề cơ bản để xây dựng một lý thuyết thống nhất của vật lý. Nếu du hành không giới hạn trong thời gian là khả dĩ, thậm chí chỉ là trên nguyên tắc, thì một lý thuyết thống nhất như vậy có thể bị ảnh hưởng trầm trọng.

Có hai cách để bơi

Cho đến nay, những hiểu biết tốt nhất của chúng ta về thời gian đều dựa trên các lý thuyết tương đối của Einstein. Lý thuyết đặc biệt tiên đoán một hiệu ứng được gọi là sự giãn nở thời gian, xảy ra khi hai người quan sát chuyển động tương đối với nhau. Hiệu ứng này chỉ thể hiện rõ rệt đối với chúng ta khi các chuyển động là gần với tốc độ ánh sáng. Thậm chí ở tốc độ của máy bay phản lực, sự giãn nở thời gian cũng chỉ vài phần tỷ giây. Tuy nhiên, các đồng hồ nguyên tử là đủ chính xác để phát hiện sự giãn nở đó và xác nhận rằng thời gian thực sự bị giãn ra do chuyển động. Như vậy, du hành vào tương lai là một thực tế đã được chứng minh, cho dù hiệu ứng xảy ra trong cuộc sống hằng ngày là không lớn.

Để thấy rõ hơn về hiệu ứng này, chúng ta phải nhìn vượt ra bên ngoài những trải nghiệm thường ngày. Có những hạt sơ cấp trong tia vũ trụ chuyển động rất nhanh nhưng thời gian sống rất nhỏ. Trong "thế giới" (hệ quy chiếu) riêng của những hạt này, chúng chỉ có nhiều lắm là vài phút trước khi "chết" để băng qua khoảng cách thiên hà và đến với trái đất. Chúng ta đứng trên hệ quy chiếu trái đất và thấy rằng, chúng dường như phải mất đến hàng nghìn năm để làm việc đó. Nếu không có sự giãn nở của thời gian, những tia vũ trụ này sẽ không thể có mặt trên trái đất.

Tăng tốc độ là một cách giúp chúng ta "bơi" nhanh hơn dòng chảy thời gian. Trường hấp dẫn cũng là một cách khác. Trong lý thuyết tương đối tổng quát, Einstein đã tiên đoán rằng trường hấp dẫn làm chậm thời gian, nghĩa là đồng hồ ở tầng thượng sẽ chạy nhanh hơn ở tầng trệt chút xíu, vì càng lên cao trường hấp dẫn của trái đất càng nhỏ đi. Tương tự như vậy, đồng hồ trong không gian chạy nhanh hơn đồng hồ dưới đất. Lần này, hiệu ứng cũng rất nhỏ nhưng vẫn có thể đo được bằng những đồng hồ nguyên tử. Thực ra, sự cong vênh thời gian do hấp dẫn đã được ứng dụng rất tốt cho hệ thống định vị toàn cầu. Nếu không có ứng dụng này, một số thủy thủ, tài xế taxi và các tên lửa hành trình có lẽ sẽ gặp rắc rối.

Ở bề mặt sao neutron, trường hấp dẫn mạnh đến mức, thời gian bị chậm khoảng 30% so với thời gian ở trái đất. Nếu chúng ta đứng trên một ngôi sao như vậy mà quan sát thì những sự kiện trên trái đất sẽ giống như một bộ phim tua nhanh. Ta sẽ thấy trẻ con chỉ được nghỉ 7 ngày Tết thay vì 10 ngày, và sẽ có khoảng 2 ngày Tết thay vì 3. Thậm chí, có người ở sao Neutron sẽ ngạc nhiên mà hỏi rằng tại sao trên trái đất, bánh chưng chóng hỏng và hoa đào chóng tàn đến thế?

Một lỗ đen có thể bóp méo thời gian đến hết cỡ, ở "bề mặt" của nó, thời gian sẽ đứng lại so với trái đất. Nếu liên tưởng đến thời gian ở mỗi nơi là một dòng sông, thì ở đây không phải "tất cả các dòng sông đều chảy". Nếu một nhà du hành có thể mon men đến bờ của cái "dòng sông không chảy" ấy, giả tưởng rằng anh ta không bị làm sao (lực hấp dẫn của lỗ đen có thể xé tan mọi thứ) thì khi quay lại trái đất, anh ta sẽ đi rất xa vào tương lai.

Bơi ngược dòng?

http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2007/02/3B9F32CB/ein.jpg
Einstein và Kurt Godel. Ảnh: edge.org.

Năm 1948, Kurt Godel ở Viện nghiên cứu cấp cao Princeton đã đưa ra một nghiệm của phương trình hấp dẫn Einstein mô tả một vũ trụ quay. Trong vũ trụ này, một nhà du hành có thể đi xuyên qua không gian để trở về quá khứ. Điều này có được là do cơ chế tác động của trường hấp dẫn đối với ánh sáng. Sự quay của vũ trụ sẽ kéo theo ánh sáng (và do đó là cả mối quan hệ nhân quả của các sự vật) tham gia vào sự vận động của nó. Điều này cho phép một thực thể vật chất đi theo một vòng kín trong không gian, và đó cũng là một vòng kín trong thời gian, ở đây không cần bất cứ quá trình nào vượt quá tốc độ ánh sáng trong môi trường giữa các hạt. Người ta coi nghiệm của Godel chỉ là một sự kỳ lạ toán học, vì các quan sát không hề cho thấy bất cứ dấu hiệu nào của một vũ trụ quay. Tuy nhiên, cái nghiệm đó dù sao cũng đã minh họa rằng, đi ngược lại thời gian là không bị cấm trong lý thuyết tương đối. Thực ra Einstein cũng từng thú nhận rằng ông rất trăn trở về việc lý thuyết của mình cho phép sự du hành vào quá khứ trong một số tình huống nhất định.

Có những nghiên cứu khác cũng cho thấy khả năng trở lại quá khứ. Chẳng hạn, vào năm 1974, Frank J. Tipler ở Đại học Tulane đã tính toán rằng, một hình trụ có mật độ khối lượng lớn và dài vô hạn, khi quay quanh trục của nó với tốc độ gần ánh sáng cũng sẽ có thể kéo theo ánh sáng vào một vòng kín và đưa các nhà du hành trở về quá khứ của họ. Năm 1991, J.Richard Gott ở Đại học Princeton đã phỏng đoán rằng, những dây vũ trụ - những cấu trúc mà các nhà vũ trụ học tin là được tạo ra trong những giai đoạn ban đầu của Big Bang - có thể đem lại những kết quả tương tự. Nhưng vào giữa thập kỷ 1980, bối cảnh hiện thực nhất cho một cỗ máy thời gian chính là dựa trên khái niệm về wormhole (lỗ sâu).

http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2007/02/3B9F32CB/

thienthanaoden
02-03-2007, 07:12 PM
Hành trình đi tìm máy thời gian (phần cuối)

http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2007/02/3B9F32E5/worm.jpg
Mô hình wormhole. Ảnh: casa.colorado.edu

Một đường hầm đi xuyên qua một quả đồi đương nhiên là ngắn hơn đường đi trên bề mặt. Tương tự như thế, một wormhole có thể là con đường ngắn hơn con đường thông thường trong không gian.

Trong giả tưởng khoa học, các wormhole đôi khi được gọi là các cổng sao (stargates), chúng mang lại một con đường tắt giữa hai điểm cách xa nhau trong không gian. Chui qua một wormhole giả thuyết này, bạn có lẽ sẽ đến được những thời điểm muộn hơn ở phía bên kia của thiên hà. Các wormhole phù hợp một cách tự nhiên với lý thuyết tương đối tổng quát, trong đó, trường hấp dẫn làm cong cả thời gian lẫn không gian. Các nhà lý thuyết đã đưa ra một không gian với những cấu trúc nối kết nhau bởi những "đường hầm" wormhole. Một đường hầm đi xuyên qua một quả đồi đương nhiên là ngắn hơn đường đi trên bề mặt. Tương tự như thế, một wormhole có thể là con đường ngắn hơn con đường thông thường trong không gian.

Khái niệm wormhole từng được sử dụng cho một thiết bị tưởng tượng trong tiểu thuyết Contact của Carl Sagan, viết năm 1985. Ngay sau Sagan, Kip S. Thorne và cộng sự ở Viện công nghệ California đã tìm cách chứng minh xem, liệu các wormhole có phù hợp với vật lý chính thống hay không. Xuất phát điểm của họ là một wormhole tương tự với một lỗ đen mang trường hấp dẫn khủng khiếp. Nhưng ở đây có một sự khác nhau, đường vào lỗ đen sẽ chẳng dẫn tới đâu cả, còn một wormhole thì có cả đường vào lẫn ra.

Máy thời gian wormhole

Để con đường wormhole có thể đi được, nó phải chứa cái mà Thorne gọi là vật chất kỳ cục. Cái thứ vật chất này sẽ sinh ra sự phản hấp dẫn để chống lại lực hấp dẫn khổng lồ của một hệ có khối lượng lớn. Phản hấp dẫn, hay lực đẩy hấp dẫn, có thể được sinh ra bởi năng lượng âm hoặc áp suất âm. Các trạng thái năng lượng âm được biết là tồn tại trong những hệ lượng tử nhất định. Điều đó cho thấy rằng, vật chất kỳ cục của Thorne không bị bác bỏ bởi các định luật vật lý mặc dù Thorne vẫn chưa nói rõ ràng về việc liệu có đủ vật liệu phản hấp dẫn để ổn định wormhole hay không.

Ngay khi Thorne và cộng sự nhận ra rằng, nếu một wormhole ổn định được tạo ra, khi đó nó có thể sẵn sàng để trở thành một cỗ máy thời gian. Khi một nhà du hành đi qua nó, anh ta không những sẽ đi đến một nơi khác trong vũ trụ mà còn đi đến một điểm khác trong thời gian, tương lai hoặc quá khứ.

Để một wormhole hoạt động như máy thời gian, một trong những cái miệng của nó có thể được đặt gần bề mặt một sao neutron. Trường hấp dẫn của sao sẽ làm chậm thời gian ở một miệng wormhole sao cho sự sai khác thời gian giữa hai cái miệng của wormhole sẽ được tích tụ dần. Nếu cả hai cái miệng được đặt tại những nơi thích hợp trong không gian, sự sai khác thời gian này sẽ được giữ ổn định.

Giả sử rằng sai khác là 10 năm. Một nhà du hành chui qua wormhole theo một chiều và nhảy đến 10 năm sau trong tương lai. Một nhà du hành khác đi theo chiều ngược lại và trở về 10 năm trước trong quá khứ. Bằng việc bay thật nhanh để trở về xuất phát điểm trong không gian thông thường, nhà du hành thứ hai có thể trở về nhà trước thời điểm anh ta chui vào wormhole. Nói cách khác, một vòng kín trong không gian có thể trở thành một vòng kín trong thời gian. Có một hạn định là, nhà du hành không thể trở về thời điểm trước khi wormhole lần đầu tiên được tạo ra.

Vấn đề cực khó trong việc tạo ra một máy thời gian wormhole là đầu tiên phải làm thế nào để có được một wormhole. Có lẽ không gian vốn được xâu chuỗi một cách tự nhiên bởi những cấu trúc như vậy, chúng là những tàn dư của Big Bang. Nếu như vậy, một nền siêu văn minh có thể sử dụng chúng. Mặt khác, các wormhole có thể còn tồn tại tự nhiên ở những kích thước vô cùng nhỏ, vào cỡ cái gọi là độ dài Planck. Về nguyên tắc, một wormhole tí hon như vậy có thể được ổn định hóa bởi một xung năng lượng và ở một mức độ nào đó, nó sẽ được phình to ra đến các kích thước có thể sử dụng được.

Những nghịch lý

Giả sử rằng, chúng ta có thể vượt qua được những khó khăn kỹ thuật, việc chế tạo cỗ máy thời gian sẽ gặp phải hàng loạt nghịch lý nhân quả không thể chấp nhận được. Các nghịch lý này nảy sinh khi những kẻ du hành thời gian cố gắng làm thay đổi quá khứ, điều này rõ ràng là không thể. Thử xét trường hợp một nhà du hành thời gian đi tới tương lai 1 năm sau và đọc được một công thức toán học mới trên tờ Tia sáng chẳng hạn. Khi quay trở lại thời điểm ban đầu của mình, anh ta sẽ dạy công thức đó cho một sinh viên, và người sinh viên này lại viết nó trong một bài báo đăng trên tờ Tia sáng. Tất nhiên, bài báo đó chính là bài nhà du hành đọc được. Khi ấy, câu hỏi được đặt ra là: thông tin về công thức đến từ đâu? Không phải từ nhà du hành, vì ông ta đã đọc được nó, cũng không phải từ cậu sinh viên, vì cậu đã học nó từ nhà du hành. Thông tin dường như không đến từ đâu cả, không từ nguyên cớ nào cả.

Những hệ quả quái gở của du hành thời gian đã dẫn một số nhà khoa học đi đến dứt khoát từ bỏ ý niệm về nó. Stephen Hawking ở Đại học Cambridge đã đề xuất một "phỏng đoán bảo vệ trình tự thời gian", coi các vòng nhân quả là "ngoài vòng pháp luật". Vì lý thuyết hấp dẫn được biết là cho phép các vòng nhân quả, sự bảo vệ trình tự thời gian sẽ đòi hỏi thêm một thừa số khác nào đó can thiệp vào, nhằm ngăn cản sự du hành về quá khứ. Thừa số đó có thể là gì? Có một đề xuất rằng, các quá trình lượng tử sẽ tham gia vào việc cứu nguy này. Sự tồn tại của một máy thời gian sẽ cho phép các hạt trở về quá khứ của chúng. Các tính toán ngụ ý rằng, sự nhiễu loạn lượng tử sẽ có thể làm hỏng wormhole.

Sự bảo vệ trình tự thời gian vẫn chỉ là phỏng đoán, do đó việc du hành thời gian vẫn là một điều khả dĩ. Lời giải cuối cùng cho vấn đề này có lẽ phải chờ đến sự thống nhất thành công của cơ học lượng tử với hấp dẫn. Thậm chí, chúng ta vẫn có thể tưởng tượng được rằng, các thế hệ máy gia tốc sau này sẽ có thể tạo ra những wormhole ở cấp độ dưới nguyên tử. Chúng có thể tồn tại đủ lâu để làm các hạt gần đó bay vào các vòng nhân quả. Điều này vẫn còn xa so với tưởng tượng của Wells về máy thời gian, nhưng nó sẽ làm thay đổi vĩnh viễn bức tranh của chúng ta về hiện thực vật lý.

http://vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2007/02/3B9F32E5/

Sagi
17-04-2007, 04:36 PM
http://www.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2007/04/3B9F5201/ttd.jpg

Những kết quả ban đầu từ con tàu thăm dò do NASA thiết kế nhằm kiểm chứng hai lý thuyết quan trọng của Einstein đã cho thấy nhà bác học vĩ đại đúng ít nhất 1 trong 2 trường hợp.

Còn 8 tháng nữa mới có thể xác định liệu Einstein có đúng trong trường hợp còn lại hay không, các chuyên gia phát biểu sau khi phân tích dữ liệu từ tàu Gravity Probe B, được phóng đi tháng 4 năm 2004.

Con tàu này sử dụng 4 con quay hồi chuyển cực kỳ chính xác để đo 2 hiệu ứng theo thuyết tương đối rộng của Einstein: hiệu ứng võng và hiệu ứng kéo lê - vặn xoắn.

(Gravity Probe B mang theo 4 quả cầu nhỏ có kích cỡ bằng quả bóng bàn, cấu tạo từ thạch anh và được đặt trong một buồng chân không. Khi vào đến vũ trụ, con tàu sẽ dóng nó thẳng hàng với "ngôi sao dẫn đường" IM Pegasi, và trục quay của các quả cầu thạch anh cũng hướng về phía ngôi sao này. Sau một năm, người ta sẽ theo dõi hướng của chúng. Nếu Einstein đúng, sẽ xuất hiện những thay đổi nhẹ trong trục quay của quả cầu - là kết quả của những hiệu ứng mà ông đã mô tả.

Anne Kinney, giám đốc bộ phận thiên văn và vật lý của NASA, cho biết để đảm bảo độ chính xác của phép thử, những quả cầu này được làm lạnh tới gần độ không tuyệt đối, trong buồng chân không lớn nhất từng được đưa vào vũ trụ, và cách ly khỏi bất kỳ xáo trộn nào trong môi trường yên tĩnh nhất từng được thiết lập.)


Hãy hình dung một quả bóng bowling nặng, đặt trên một tấm lưới cao su. Sức nặng của quả bowling sẽ làm võng tấm lưới, khiến cho tấm cao su ở chỗ tiếp xúc bị cong đi. Theo thuyết tương đối rộng, điều tương tự cũng xảy ra với những vật thể lớn như trái đất - nó làm cong không - thời gian xung quanh mình.

Với hiệu ứng kéo lê - vặn xoắn: Nếu ta xoay quả bóng bowling, nó sẽ kéo tấm cao su quay theo. Tương tự như vậy, khi trái đất quay, nó kéo không - thời gian chuyển động theo mình, mặc dù vô cùng chậm.


http://www.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/04/3B9D1DD4/h2.jpg
Mô hình cho thấy trái đất làm cong không thời gian xung quanh nó.


Trên lý thuyết, trong khoảng thời gian 1 năm, hai hiệu ứng này sẽ khiến góc quay của các con quay hồi chuyển dịch đi hàng phút.

Dữ liệu mà tàu Gravity Probe B cung cấp đã khẳng định rõ ràng hiệu ứng võng của Einstein. Các nhà khoa học từ Đại học Stanford đang tiếp tục xử lý tín hiệu về hiệu ứng kéo lê - vặn xoắn. Họ dự kiến thông báo kết quả cuối cùng của thí nghiệm vào tháng 12 năm nay, sau 8 tháng phân tích nữa.

Trước đó, một nhóm nghiên cứu khác từng tuyên bố hiệu ứng kéo lê - vặn xoắn mà Einstein đưa ra là đúng, nhờ khai thác mô hình trường hấp dẫn do tàu GRACE của NASA, phóng lên hồi tháng 3/2002, cung cấp. Song các nhà nghiên cứu e ngại rằng mô hình này chưa chắc chắn có chính xác tuyệt đối hay không. Vì thế, dữ liệu của tàu Gravity Probe B được cho là tin cậy hơn.


http://www.vnexpress.net/Vietnam/Khoa-hoc/2004/04/3B9D1DD4/h4.jpg
1- Sự tự quay của trái đất; 5- Không thời gian
2- Cấu trúc tàu thăm dò Gravity B; 3 - khoang chân không
4- Các quả cầu thạch anh
7- Trục quay chuẩn của quả cầu hướng về sao IM Pegasi
6- Sau một năm trục quay bị xê dịch theo phỏng đoán của Einstein.




(vnexpress.net)

Sagi
17-04-2007, 04:43 PM
Chắc chỉ không lâu nữa đâu,mọi việc sẽ được sáng tỏ phần nào
Tuy nhiên việc đi đến tương lai chắc chỉ có thể là lí thuyết thôi,mình thấy nó mơ hồ lắm

dj3uB3o
04-05-2008, 12:43 PM
hồi trước xem Tivi cũng thấy người ta nói về việc dùng các lỗ đen vũ trụ để di chuyển giữa các thiên hà và cả thời jan nữa......