hoaln
03-11-2008, 07:04 PM
Trương Nhân Tuấn
Tìm hiểu về Ải Nam Quan qua một vài tài liệu
Nhân ông Lê Công Phụng trả lời phỏng vấn nhà báo Lý Kiến Trúc về biên giới hai nước Việt - Trung đầu tháng 10 năm 2008, một số bạn có đặt cho tôi câu hỏi: Việt Nam có mất Ải Nam Quan không? Xin gởi bài viết sau đây, hy vọng làm sáng tỏ vấn đề.
http://farm4.static.flickr.com/3272/2998472357_72e29b558f.jpg?v=0
Hình Nam Quan trên chụp từ hướng Trung Quốc về Việt Nam
1. Ý nghĩa các danh từ Quan 關, Ải 隘 và Ca 卡
Theo một tài liệu bằng tiếng Pháp, dịch từ ba trang mang số 15, 16 và 17 ở quyển thứ nhứt của bộ Long Châu ký lược (Longtcheou Ki lio – Abrégé des Anales de Longtcheou), thì người Hoa sử dụng đến ba danh từ khác nhau để chỉ cửa ngõ thông thương giữa hai nước Việt-Trung. Ðó là: QUAN, ẢI và CA (hay Tạp). [Long Châu là một châu quan trọng ở biên giới thuộc tỉnh Quảng Tây, phủ Thái Bình, về phía Ðông giáp châu Bằng Tường, giáp với Việt Nam về phía Bắc Lạng Sơn và phía Ðông Nam tỉnh Cao Bằng]. Long Châu ký lược là sơ lược về lịch sử ở vùng Long Châu. Theo tài liệu này, số cửa ngõ thông thương từ Long Châu sang Việt Nam gồm có 2 cửa “QUAN”, 14 cửa “ẢI” và 3 cửa “Ca” (thời nhà Thanh còn gọi là “thủ tạp” để chỉ các nơi canh phòng). Hai cửa QUAN là Bình Nhi Quan 苹 而 關 và Thủy Khẩu Quan 水 口 關 . 14 cửa Ải là Yêm Bố 淹 布 (có bộ “khẩu” 口 đứng trước chữ “bố”), Long Sương 龍 廂, (Ná Lang 那 懶,), Cảm Môn 敢 門, (Na Tuyết 那 雪 ), Na Duệ 那 曳 (Bản Khô 板 枯 ), Khiếu Canh 叫更, (có bộ “sơn” 山 trên chữ “canh”) (Bản Ma 板 厤 ), Bế Thôn 閉 村, Na Hoài 那 懷 (Na Ai 那 哀), Ná Hà 那何, Long Mính 龍 茗 (Na Thông那), Hợp Thạch 合 石 (Long Cống 龍 貢). Ba cửa CA là Hồ Tông 葫淙, Khiếu Khâm 叫欽 và Bách Bố 百布.
Như vậy có những khác biệt, ngoài cách viết, về ý nghĩa của QUAN, ẢI và CA. Cả ba cùng có ý nghĩa là cửa thông thương giữa hai nước nhưng chúng khác nhau ở tầm quan trọng. Thật vậy, trong số các ngõ thông thương sang Việt Nam, từ Long Châu, hai ngõ quan trọng nhất là Bình Nhi và Thủy Khẩu. Theo thứ tự sắp xếp hành chánh và theo mức độ nhân sự qua lại, các cửa “Quan” có tầm quan trọng hơn hết, sau đó là cửa “Ải”, cuối cùng là cửa “Ca” hay “Tạp”. Cửa “Ca” là một cửa biên giới thường xuyên bị đóng. Một ghi nhận, Bình Nhi Quan và Thủy Khẩu Quan đều là hai cửa chặn hai con sông. Cửa Bình Nhi ở trên sông Kỳ Cùng và cửa Thủy Khẩu ở trên sông Bằng Giang. Tuy nhiên, Nam Quan (thuộc châu Bằng Tường) tọa lạc trên trên “la route mandarine”, tức quan lộ, là cửa thông thương chính thức giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Sứ thần chính thức của hai bên hầu như đều đi qua cửa này. Như thế, “quan” chỉ chung cho cửa thông thương trên bộ hay trên sông.
Dựa trên logic này, có thể người Việt ta gọi khác người Hoa về những địa danh do người Hoa đặt ra. Người Hoa gọi là Nam Quan thì chúng ta gọi là “Ải” Nam Quan. Chữ “ải” được thêm vào. Ðôi khi, trong một số tài liệu, người Hoa gọi Nam Quan là Nam Ải, ải Rô là Rô Ải (Yo Ai), cũng như Bình Nhi Quan là Bình Nhi Ải (vì nơi này sông uốn qua một hẻm núi hiểm trở hình chữ C), nhưng không bao giờ ta thấy họ gọi là Nam Quan là Nam Quan Ải hay Bình Nhi Quan là Bình Nhi Quan Ải. Ta gọi Ải Nam Quan, cũng như gọi “cửa ngọ môn”. Môn là cửa, gọi “cửa ngọ môn” ta lập lại chữ “cửa” hai lần, một lần tiếng Việt, một lần tiếng Hán. Ải Nam Quan cũng vậy, ta cũng lặp lại hai lần một ý nghĩa của: quan và ải. Và ta có thể tìm thấy nhiều trường hợp tương tự. Người Việt ta gọi thế là theo thói quen hay là một “ngoại lệ văn hóa” (exception culturelle) Việt Nam? Riêng người Pháp, trong công việc phân định biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa, như tài liệu trên đã ghi nhận, đã có một nhận thức về sự khác biệt giữa Quan, Ải và Ca. Họ dịch lần lượt là Porte, Passage và Barrière. Porte có nghĩa thông thường là cửa. Passage có rất nhiều nghĩa, trong trường hợp này có thể là nơi mà mọi người qua lại. Barrière cũng có nhiều nghĩa, nhưng ở đây có thể là nơi qua lại có rào hay vật cản. Tuy nhiên, sau này, có thể vì để dễ dàng trong công việc, quan, ải hay ca đều được các nhân viên phân giới dịch bằng chữ “porte”, có nghĩa là “cửa”. Nhưng dầu thế nào chữ “porte” (quan) và “passage” (ải) không bao giờ đi chung với nhau trong một danh tự ghép chỉ định một địa danh như trường hợp Ải Nam Quan mà dân ta thường dùng. (Trường hợp danh từ ghép quan-ải thì có nghĩa tương tự như biên cương, biên tái, biên viễn, biên thùy, biên ngung... chỉ cho những nơi xa xôi “quan tái” lạnh lẽo, những vùng tuyến đầu hay nơi trận mạc). Trong loạt bút ký của bác sĩ Néis mang tựa đề Sur le frontière du Tonkin viết năm 1887, đăng trên Le Tour du Monde, các địa danh Nam Quan, ải Rô, ải Loa v.v... được dịch là Porte de Chine de Nam Quan, Porte de Chine d’Ai Ro, Porte De Chine d’Ai loa v.v... Tất cả những cửa thông thương đều được ông bác sĩ này gọi là “Porte de Chine”, “Cửa Tàu”. Nhưng Nam Quan là cửa thông thương quan trọng hơn cả, hơn nữa, cửa Nam Quan được Tàu xây đồ sộ sau này, có lẽ vì thế mà khi nói đến Porte de Chine thì người ta chỉ liên tưởng đến Nam Quan.
Về phương diện chiết tự, chữ Ải 隘, tác giả chỉ mới biết chữ Hán do tự học, còn rất sơ lược, xin để phần này cho các chuyên gia bổ túc thêm.
Về ý nghĩa địa lý của danh từ Ải: Ải là hẻm núi; là đường hẹp đi giữa hai trái núi hay đồi. Từ Ải 隘 tiếng Hán cũng có nghĩa là nơi hiểm trở, thu hẹp lại. Ngày xưa khi lưu thông chỉ còn là đi bộ, hay đi ngựa, hàng hóa được người gánh gồng hay chở bằng xe ngựa, xe trâu... muốn vượt qua núi thì người ta chỉ có hai cách: hoặc là leo núi để vượt qua; hoặc nếu núi cao, không vượt được, thì tìm cách len lỏi theo các chân núi tìm hẻm núi để đi qua. Các đường hẻm núi người ta gọi là ẢI (passe). Những con đường (ải) này nhiều khi đi vòng vo rất dài. Ngày hôm nay với cơ khí nặng, người ta có thể thu ngắn đoạn đường bằng cách đục núi làm hầm thông qua (tunnel), hay ủi những con đường đi lượn quanh trên sườn núi để vượt qua núi. Ðường này gọi là ÐÈO (col). Giống nhau giữa đèo và ải là cả hai cùng là con đường qua núi. Khác nhau giữa đèo và ải là đường đèo leo lên lưng chừng núi, hay vượt thẳng qua núi, còn đường ải thì len lỏi dưới chân núi để qua núi mà không leo lên núi. Chiều dài của đèo và ải có thể dài ngắn khác nhau.
2. Ải Nam Quan theo Phương Đình địa dư chí
Theo Phương Ðình địa dư chí của cụ Nguyễn Văn Siêu (Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 2001, tr. 451): “Ải Nam Quan ở địa phận hai xã Ðồng Ðăng và Bảo Lâm châu Văn Uyên. Phía Bắc giáp địa giới châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, 2 bên tả hữu núi đá cao ngất, ở giữa mở một cửa quan, cánh cửa có khóa, chỉ khi có việc sứ mới mở, tên là cửa Nam Quan (một tên là Ðại Nam Quan, một tên là Trấn Di Quan, lại có tên là Trấn Nam Quan”.
Cũng theo cụ Nguyễn Văn Siêu (tr. 180), trích từ Ðịa chí loại tạp khảo: “Cửa Trấn Nam (Chấn Nam) ở trên đường từ Ung Châu đến Lạng Sơn, được mở vào thời nhà Tống, thuộc động Bằng Tường, phủ Tư Minh. Theo Ðại Nam nhứt thống chí Trấn Nam Quan ở trong nội địa nước Tàu, dựng dưới thời Gia Tĩnh nhà Minh” (1522-1566).
Theo Thanh nhứt thống chí, năm 1726, tức năm thứ 2 triều Ung Chính, cửa được “tu bổ” lại: “Cửa quan dài 110 trượng (khoảng 50m), có đề 3 chữ Trấn Nam Quan, nghĩa là cửa quan để phòng giữ phương Nam. Ðằng sau cửa có đài Chiêu Ðức và đình Tham Ðường, là nơi đón tiếp sứ bộ nước ta”.
Vì vậy, có lẽ ải Trấn Nam được thông mở dưới thời Tống. Ðến triều Minh thì cửa ải có xây một “cửa” (ngoại sách hay quan ngoại) và cửa được tu bổ lại vào triều Ung Chính nhà Thanh 1726. Cửa ải có nhiều tên khác nhau: Ðại Nam Quan, Trấn Nam Quan, Trấn Di Quan v.v...
Cũng theo Phương Đình địa dư chí của Nguyễn Văn Siêu (tr. 57): “Tháng 6 năm thứ 5 triều Vĩnh Lạc, đổi Kê Lang Quan làm Trấn Di Quan… Trấn Di Quan thuộc huyện Kê Lăng, Pha Lũy Môn thuộc huyện Uyên… Năm thứ 9 ngày 4 ngày Quí Mão, huyện Kê Lăng phủ Lạng Sơn được đổi thành huyện Trấn Di, Kê Lăng Ðệ Vận Sở thành Trấn Di Ðệ Vận Sở, Pha Lũy Quan Tuần Kiểm tư huyện Thủy Lãng châu Thất Uyên thuộc về huyện Uyên».
Trong phần An Nam bị lục (tr. 98), phủ Lạng Sơn được mô tả: “ở phía Bắc Giao Châu, cách 530 dặm, năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Lạc, đổi đặt, có 7 châu: Thượng Văn, Hạ Văn, Thất Nguyên, Vạn Nhai, Quảng Nguyên, Thượng Tư, Hạ Tư và 5 huyện là: Khâu Ôn, Trấn Di, Uyên huyện, Ðan Ba, Thoát huyện.”
Theo hai tài liệu trên thì tên đầu tiên của Trấn Di Quan, tức Trấn Nam Quan (hay Ðại Nam Quan, Hữu Nghị Quan sau này), là Kê Lăng Quan và hai cửa quan Trấn Nam và Pha Lũy hoàn toàn khác nhau. Cửa Trấn Nam, thuộc huyện Trấn Di, là một cửa biên giới còn Pha Lũy thuộc huyện Uyên. Theo tài liệu Chu Tử Bôn (ghi lại phía dưới), Pha Lũy là một trạm để sứ bộ nước ta, trước khi sang Tàu, ngừng ở đây sửa soạn vật triều cống.
Tuy nhiên, An Nam bị lục (tr. 102), phần ghi về phủ Lạng Sơn, có nhắc cửa Lưu Quan: “Ải Lưu Quan ở phía Bắc, thuộc địa giới châu Văn Uyên, lai về phía Nam là Kê Lăng Quan, xa hơn nữa là Cần Trạm. Năm thứ 2 triều Vĩnh Lạc, Hoàng Thông đưa Trần Thiên Bình về An Nam, tiến qua hai cửa quan là Ải Lưu và Kê Lăng, sắp đến Cần Trạm, đường núi hiểm trở, cây cối rậm rạp, quân đi không thành hàng lối, quân phục của An Nam kéo ra giết chết Thiên Bình và quan Ðại Lý Khanh là Tiết Phẩm… Tướng quân Trương Phụ xuất phát từ huyện Bằng Tường, qua Pha Lũy Dịch tiến quân đánh vỡ 2 cửa Ải Lưu và Kê Lăng đến Cần Trạm, lùng soát hai bên đường, phục binh đều trốn hết, bây giờ mới tiến đóng ở chợ Xương Giang, đặt cầu nổi cho quân sang đến khi nước An Nam yên, mới đổi Khê Lăng làm Trấn Di Quan.”
Theo mô tả thì ở về phía Bắc Kê Lăng Quan còn có Ải Lưu và cửa quan này cũng thuộc Văn Uyên. Khi Trương Phụ đem quân sang nước ta thì trước tiên đi từ Bằng Tường, qua Pha Lũy Dịch, sau đó cửa ải Lưu và cuối cùng qua Kê Lăng để vào đóng tại chợ Xương Giang.
Nhưng cũng từ sách Phương Đình dẫn trên, trang 104-105: “Pha Lũy Dịch ở phía Bắc châu Vạn Uyên 100 dặm, cũng gọi là Pha Lũy Quan. Từ Bằng Tường vào An Nam tất phải qua đường này, nay gọi là Pha Dữ Trạm. Dư Trình ký chép: Từ của quan (Ðại Nam Quan?) thuộc địa giới châu Bằng Tường, đi về phía Nam 30 dặm đến trạm Pha Lôi (Pha Lũy?), lại qua trạm Ðông Bộc, trạm Bất Bộc, trạm Bất Bác, lại 100 dặm đến trạm Bộc Thượng, lại qua trạm Phi Lê, trạm Xương Giang, trạm Chi Kiều, trạm Lã Khôi tất cả 210 dặm qua sông Phú Lương đến thành An Nam.”
Như vậy có một mâu thuẫn lớn về vị trí và tên gọi của Kê Lăng (tức Trấn Di Quan, Trấn Nam Quan hay Ðại Nam Quan), Pha Lũy Dịch (Pha Lôi hay Pha Dữ) và Ải Lưu từ các tài liệu dẫn trên. Ta thấy lúc thì có dữ kiện cho rằng Kê Lăng Quan ở phía Nam Pha Lũy Dịch, lúc thì cho rằng Kê Lăng Quan ở phía Bắc Pha Lũy Dịch.
Việc này có thể giải thích bằng nhiều giả thuyết. Thứ nhứt là do tác giả không có cách nào để tiếp cận tham khảo các bộ địa chí của Việt Nam, ngoài bộ Phương Ðình địa dư chí hiện có. Tác giả không thể kiểm chứng được. Nếu có người chỉ giúp để làm sáng tỏ việc này thì rất mang ơn.
Nếu chỉ trên bộ địa chí này, có thể là do nhà chép sử ngày xưa, tam sao thất bổn. Cũng có thể do ban biên tập quyển Phương Ðình địa dư chí. Ta thấy quyển sách này do nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin Hà Nội phát hành và biên tập là Ðặng Thị Huệ. Lối hành văn vắn tắt của quyển sách làm cho việc sưu khảo khó khăn, lại không ghi chú thêm từ Hán. Nhưng cũng có thể Kê Lăng Quan (được đổi thành Trấn Di Quan vào tháng 6 năm thứ 5 triều Vĩnh Lạc, tức năm 1408) thuộc huyện Kê Lăng, không phải là Trấn Nam Quan, thuộc xã Ðồng Ðăng huyện Văn Uyên, ở vị trí hiện thời. Huyện Kê Lăng được đổi thành huyện Trấn Di và huyện này hoàn toàn khác biệt với huyện Uyên (thời Minh thuộc gọi là Uyên huyện, nhà Lê đổi thành Văn Uyên). Có lẽ huyện Trấn Di sau này được đổi tên hay sáp nhập vào một huyện khác. Nếu đoán theo tương đối của vị trí và cách phát âm thì Kê Lăng Quan (Trấn Di Quan) chính là ải Chi Lăng. Huyện Trấn Di có thể đã đổi thành huyện Chi Lăng. Nếu thế Trấn Nam Quan (tức Ðại Nam Quan) không thể có tên Trấn Di Quan như cụ Nguyễn Văn Siêu (và một số sử gia Việt Nam) đã viết.
Tìm hiểu về Ải Nam Quan qua một vài tài liệu
Nhân ông Lê Công Phụng trả lời phỏng vấn nhà báo Lý Kiến Trúc về biên giới hai nước Việt - Trung đầu tháng 10 năm 2008, một số bạn có đặt cho tôi câu hỏi: Việt Nam có mất Ải Nam Quan không? Xin gởi bài viết sau đây, hy vọng làm sáng tỏ vấn đề.
http://farm4.static.flickr.com/3272/2998472357_72e29b558f.jpg?v=0
Hình Nam Quan trên chụp từ hướng Trung Quốc về Việt Nam
1. Ý nghĩa các danh từ Quan 關, Ải 隘 và Ca 卡
Theo một tài liệu bằng tiếng Pháp, dịch từ ba trang mang số 15, 16 và 17 ở quyển thứ nhứt của bộ Long Châu ký lược (Longtcheou Ki lio – Abrégé des Anales de Longtcheou), thì người Hoa sử dụng đến ba danh từ khác nhau để chỉ cửa ngõ thông thương giữa hai nước Việt-Trung. Ðó là: QUAN, ẢI và CA (hay Tạp). [Long Châu là một châu quan trọng ở biên giới thuộc tỉnh Quảng Tây, phủ Thái Bình, về phía Ðông giáp châu Bằng Tường, giáp với Việt Nam về phía Bắc Lạng Sơn và phía Ðông Nam tỉnh Cao Bằng]. Long Châu ký lược là sơ lược về lịch sử ở vùng Long Châu. Theo tài liệu này, số cửa ngõ thông thương từ Long Châu sang Việt Nam gồm có 2 cửa “QUAN”, 14 cửa “ẢI” và 3 cửa “Ca” (thời nhà Thanh còn gọi là “thủ tạp” để chỉ các nơi canh phòng). Hai cửa QUAN là Bình Nhi Quan 苹 而 關 và Thủy Khẩu Quan 水 口 關 . 14 cửa Ải là Yêm Bố 淹 布 (có bộ “khẩu” 口 đứng trước chữ “bố”), Long Sương 龍 廂, (Ná Lang 那 懶,), Cảm Môn 敢 門, (Na Tuyết 那 雪 ), Na Duệ 那 曳 (Bản Khô 板 枯 ), Khiếu Canh 叫更, (có bộ “sơn” 山 trên chữ “canh”) (Bản Ma 板 厤 ), Bế Thôn 閉 村, Na Hoài 那 懷 (Na Ai 那 哀), Ná Hà 那何, Long Mính 龍 茗 (Na Thông那), Hợp Thạch 合 石 (Long Cống 龍 貢). Ba cửa CA là Hồ Tông 葫淙, Khiếu Khâm 叫欽 và Bách Bố 百布.
Như vậy có những khác biệt, ngoài cách viết, về ý nghĩa của QUAN, ẢI và CA. Cả ba cùng có ý nghĩa là cửa thông thương giữa hai nước nhưng chúng khác nhau ở tầm quan trọng. Thật vậy, trong số các ngõ thông thương sang Việt Nam, từ Long Châu, hai ngõ quan trọng nhất là Bình Nhi và Thủy Khẩu. Theo thứ tự sắp xếp hành chánh và theo mức độ nhân sự qua lại, các cửa “Quan” có tầm quan trọng hơn hết, sau đó là cửa “Ải”, cuối cùng là cửa “Ca” hay “Tạp”. Cửa “Ca” là một cửa biên giới thường xuyên bị đóng. Một ghi nhận, Bình Nhi Quan và Thủy Khẩu Quan đều là hai cửa chặn hai con sông. Cửa Bình Nhi ở trên sông Kỳ Cùng và cửa Thủy Khẩu ở trên sông Bằng Giang. Tuy nhiên, Nam Quan (thuộc châu Bằng Tường) tọa lạc trên trên “la route mandarine”, tức quan lộ, là cửa thông thương chính thức giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Sứ thần chính thức của hai bên hầu như đều đi qua cửa này. Như thế, “quan” chỉ chung cho cửa thông thương trên bộ hay trên sông.
Dựa trên logic này, có thể người Việt ta gọi khác người Hoa về những địa danh do người Hoa đặt ra. Người Hoa gọi là Nam Quan thì chúng ta gọi là “Ải” Nam Quan. Chữ “ải” được thêm vào. Ðôi khi, trong một số tài liệu, người Hoa gọi Nam Quan là Nam Ải, ải Rô là Rô Ải (Yo Ai), cũng như Bình Nhi Quan là Bình Nhi Ải (vì nơi này sông uốn qua một hẻm núi hiểm trở hình chữ C), nhưng không bao giờ ta thấy họ gọi là Nam Quan là Nam Quan Ải hay Bình Nhi Quan là Bình Nhi Quan Ải. Ta gọi Ải Nam Quan, cũng như gọi “cửa ngọ môn”. Môn là cửa, gọi “cửa ngọ môn” ta lập lại chữ “cửa” hai lần, một lần tiếng Việt, một lần tiếng Hán. Ải Nam Quan cũng vậy, ta cũng lặp lại hai lần một ý nghĩa của: quan và ải. Và ta có thể tìm thấy nhiều trường hợp tương tự. Người Việt ta gọi thế là theo thói quen hay là một “ngoại lệ văn hóa” (exception culturelle) Việt Nam? Riêng người Pháp, trong công việc phân định biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa, như tài liệu trên đã ghi nhận, đã có một nhận thức về sự khác biệt giữa Quan, Ải và Ca. Họ dịch lần lượt là Porte, Passage và Barrière. Porte có nghĩa thông thường là cửa. Passage có rất nhiều nghĩa, trong trường hợp này có thể là nơi mà mọi người qua lại. Barrière cũng có nhiều nghĩa, nhưng ở đây có thể là nơi qua lại có rào hay vật cản. Tuy nhiên, sau này, có thể vì để dễ dàng trong công việc, quan, ải hay ca đều được các nhân viên phân giới dịch bằng chữ “porte”, có nghĩa là “cửa”. Nhưng dầu thế nào chữ “porte” (quan) và “passage” (ải) không bao giờ đi chung với nhau trong một danh tự ghép chỉ định một địa danh như trường hợp Ải Nam Quan mà dân ta thường dùng. (Trường hợp danh từ ghép quan-ải thì có nghĩa tương tự như biên cương, biên tái, biên viễn, biên thùy, biên ngung... chỉ cho những nơi xa xôi “quan tái” lạnh lẽo, những vùng tuyến đầu hay nơi trận mạc). Trong loạt bút ký của bác sĩ Néis mang tựa đề Sur le frontière du Tonkin viết năm 1887, đăng trên Le Tour du Monde, các địa danh Nam Quan, ải Rô, ải Loa v.v... được dịch là Porte de Chine de Nam Quan, Porte de Chine d’Ai Ro, Porte De Chine d’Ai loa v.v... Tất cả những cửa thông thương đều được ông bác sĩ này gọi là “Porte de Chine”, “Cửa Tàu”. Nhưng Nam Quan là cửa thông thương quan trọng hơn cả, hơn nữa, cửa Nam Quan được Tàu xây đồ sộ sau này, có lẽ vì thế mà khi nói đến Porte de Chine thì người ta chỉ liên tưởng đến Nam Quan.
Về phương diện chiết tự, chữ Ải 隘, tác giả chỉ mới biết chữ Hán do tự học, còn rất sơ lược, xin để phần này cho các chuyên gia bổ túc thêm.
Về ý nghĩa địa lý của danh từ Ải: Ải là hẻm núi; là đường hẹp đi giữa hai trái núi hay đồi. Từ Ải 隘 tiếng Hán cũng có nghĩa là nơi hiểm trở, thu hẹp lại. Ngày xưa khi lưu thông chỉ còn là đi bộ, hay đi ngựa, hàng hóa được người gánh gồng hay chở bằng xe ngựa, xe trâu... muốn vượt qua núi thì người ta chỉ có hai cách: hoặc là leo núi để vượt qua; hoặc nếu núi cao, không vượt được, thì tìm cách len lỏi theo các chân núi tìm hẻm núi để đi qua. Các đường hẻm núi người ta gọi là ẢI (passe). Những con đường (ải) này nhiều khi đi vòng vo rất dài. Ngày hôm nay với cơ khí nặng, người ta có thể thu ngắn đoạn đường bằng cách đục núi làm hầm thông qua (tunnel), hay ủi những con đường đi lượn quanh trên sườn núi để vượt qua núi. Ðường này gọi là ÐÈO (col). Giống nhau giữa đèo và ải là cả hai cùng là con đường qua núi. Khác nhau giữa đèo và ải là đường đèo leo lên lưng chừng núi, hay vượt thẳng qua núi, còn đường ải thì len lỏi dưới chân núi để qua núi mà không leo lên núi. Chiều dài của đèo và ải có thể dài ngắn khác nhau.
2. Ải Nam Quan theo Phương Đình địa dư chí
Theo Phương Ðình địa dư chí của cụ Nguyễn Văn Siêu (Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 2001, tr. 451): “Ải Nam Quan ở địa phận hai xã Ðồng Ðăng và Bảo Lâm châu Văn Uyên. Phía Bắc giáp địa giới châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, 2 bên tả hữu núi đá cao ngất, ở giữa mở một cửa quan, cánh cửa có khóa, chỉ khi có việc sứ mới mở, tên là cửa Nam Quan (một tên là Ðại Nam Quan, một tên là Trấn Di Quan, lại có tên là Trấn Nam Quan”.
Cũng theo cụ Nguyễn Văn Siêu (tr. 180), trích từ Ðịa chí loại tạp khảo: “Cửa Trấn Nam (Chấn Nam) ở trên đường từ Ung Châu đến Lạng Sơn, được mở vào thời nhà Tống, thuộc động Bằng Tường, phủ Tư Minh. Theo Ðại Nam nhứt thống chí Trấn Nam Quan ở trong nội địa nước Tàu, dựng dưới thời Gia Tĩnh nhà Minh” (1522-1566).
Theo Thanh nhứt thống chí, năm 1726, tức năm thứ 2 triều Ung Chính, cửa được “tu bổ” lại: “Cửa quan dài 110 trượng (khoảng 50m), có đề 3 chữ Trấn Nam Quan, nghĩa là cửa quan để phòng giữ phương Nam. Ðằng sau cửa có đài Chiêu Ðức và đình Tham Ðường, là nơi đón tiếp sứ bộ nước ta”.
Vì vậy, có lẽ ải Trấn Nam được thông mở dưới thời Tống. Ðến triều Minh thì cửa ải có xây một “cửa” (ngoại sách hay quan ngoại) và cửa được tu bổ lại vào triều Ung Chính nhà Thanh 1726. Cửa ải có nhiều tên khác nhau: Ðại Nam Quan, Trấn Nam Quan, Trấn Di Quan v.v...
Cũng theo Phương Đình địa dư chí của Nguyễn Văn Siêu (tr. 57): “Tháng 6 năm thứ 5 triều Vĩnh Lạc, đổi Kê Lang Quan làm Trấn Di Quan… Trấn Di Quan thuộc huyện Kê Lăng, Pha Lũy Môn thuộc huyện Uyên… Năm thứ 9 ngày 4 ngày Quí Mão, huyện Kê Lăng phủ Lạng Sơn được đổi thành huyện Trấn Di, Kê Lăng Ðệ Vận Sở thành Trấn Di Ðệ Vận Sở, Pha Lũy Quan Tuần Kiểm tư huyện Thủy Lãng châu Thất Uyên thuộc về huyện Uyên».
Trong phần An Nam bị lục (tr. 98), phủ Lạng Sơn được mô tả: “ở phía Bắc Giao Châu, cách 530 dặm, năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Lạc, đổi đặt, có 7 châu: Thượng Văn, Hạ Văn, Thất Nguyên, Vạn Nhai, Quảng Nguyên, Thượng Tư, Hạ Tư và 5 huyện là: Khâu Ôn, Trấn Di, Uyên huyện, Ðan Ba, Thoát huyện.”
Theo hai tài liệu trên thì tên đầu tiên của Trấn Di Quan, tức Trấn Nam Quan (hay Ðại Nam Quan, Hữu Nghị Quan sau này), là Kê Lăng Quan và hai cửa quan Trấn Nam và Pha Lũy hoàn toàn khác nhau. Cửa Trấn Nam, thuộc huyện Trấn Di, là một cửa biên giới còn Pha Lũy thuộc huyện Uyên. Theo tài liệu Chu Tử Bôn (ghi lại phía dưới), Pha Lũy là một trạm để sứ bộ nước ta, trước khi sang Tàu, ngừng ở đây sửa soạn vật triều cống.
Tuy nhiên, An Nam bị lục (tr. 102), phần ghi về phủ Lạng Sơn, có nhắc cửa Lưu Quan: “Ải Lưu Quan ở phía Bắc, thuộc địa giới châu Văn Uyên, lai về phía Nam là Kê Lăng Quan, xa hơn nữa là Cần Trạm. Năm thứ 2 triều Vĩnh Lạc, Hoàng Thông đưa Trần Thiên Bình về An Nam, tiến qua hai cửa quan là Ải Lưu và Kê Lăng, sắp đến Cần Trạm, đường núi hiểm trở, cây cối rậm rạp, quân đi không thành hàng lối, quân phục của An Nam kéo ra giết chết Thiên Bình và quan Ðại Lý Khanh là Tiết Phẩm… Tướng quân Trương Phụ xuất phát từ huyện Bằng Tường, qua Pha Lũy Dịch tiến quân đánh vỡ 2 cửa Ải Lưu và Kê Lăng đến Cần Trạm, lùng soát hai bên đường, phục binh đều trốn hết, bây giờ mới tiến đóng ở chợ Xương Giang, đặt cầu nổi cho quân sang đến khi nước An Nam yên, mới đổi Khê Lăng làm Trấn Di Quan.”
Theo mô tả thì ở về phía Bắc Kê Lăng Quan còn có Ải Lưu và cửa quan này cũng thuộc Văn Uyên. Khi Trương Phụ đem quân sang nước ta thì trước tiên đi từ Bằng Tường, qua Pha Lũy Dịch, sau đó cửa ải Lưu và cuối cùng qua Kê Lăng để vào đóng tại chợ Xương Giang.
Nhưng cũng từ sách Phương Đình dẫn trên, trang 104-105: “Pha Lũy Dịch ở phía Bắc châu Vạn Uyên 100 dặm, cũng gọi là Pha Lũy Quan. Từ Bằng Tường vào An Nam tất phải qua đường này, nay gọi là Pha Dữ Trạm. Dư Trình ký chép: Từ của quan (Ðại Nam Quan?) thuộc địa giới châu Bằng Tường, đi về phía Nam 30 dặm đến trạm Pha Lôi (Pha Lũy?), lại qua trạm Ðông Bộc, trạm Bất Bộc, trạm Bất Bác, lại 100 dặm đến trạm Bộc Thượng, lại qua trạm Phi Lê, trạm Xương Giang, trạm Chi Kiều, trạm Lã Khôi tất cả 210 dặm qua sông Phú Lương đến thành An Nam.”
Như vậy có một mâu thuẫn lớn về vị trí và tên gọi của Kê Lăng (tức Trấn Di Quan, Trấn Nam Quan hay Ðại Nam Quan), Pha Lũy Dịch (Pha Lôi hay Pha Dữ) và Ải Lưu từ các tài liệu dẫn trên. Ta thấy lúc thì có dữ kiện cho rằng Kê Lăng Quan ở phía Nam Pha Lũy Dịch, lúc thì cho rằng Kê Lăng Quan ở phía Bắc Pha Lũy Dịch.
Việc này có thể giải thích bằng nhiều giả thuyết. Thứ nhứt là do tác giả không có cách nào để tiếp cận tham khảo các bộ địa chí của Việt Nam, ngoài bộ Phương Ðình địa dư chí hiện có. Tác giả không thể kiểm chứng được. Nếu có người chỉ giúp để làm sáng tỏ việc này thì rất mang ơn.
Nếu chỉ trên bộ địa chí này, có thể là do nhà chép sử ngày xưa, tam sao thất bổn. Cũng có thể do ban biên tập quyển Phương Ðình địa dư chí. Ta thấy quyển sách này do nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin Hà Nội phát hành và biên tập là Ðặng Thị Huệ. Lối hành văn vắn tắt của quyển sách làm cho việc sưu khảo khó khăn, lại không ghi chú thêm từ Hán. Nhưng cũng có thể Kê Lăng Quan (được đổi thành Trấn Di Quan vào tháng 6 năm thứ 5 triều Vĩnh Lạc, tức năm 1408) thuộc huyện Kê Lăng, không phải là Trấn Nam Quan, thuộc xã Ðồng Ðăng huyện Văn Uyên, ở vị trí hiện thời. Huyện Kê Lăng được đổi thành huyện Trấn Di và huyện này hoàn toàn khác biệt với huyện Uyên (thời Minh thuộc gọi là Uyên huyện, nhà Lê đổi thành Văn Uyên). Có lẽ huyện Trấn Di sau này được đổi tên hay sáp nhập vào một huyện khác. Nếu đoán theo tương đối của vị trí và cách phát âm thì Kê Lăng Quan (Trấn Di Quan) chính là ải Chi Lăng. Huyện Trấn Di có thể đã đổi thành huyện Chi Lăng. Nếu thế Trấn Nam Quan (tức Ðại Nam Quan) không thể có tên Trấn Di Quan như cụ Nguyễn Văn Siêu (và một số sử gia Việt Nam) đã viết.