memories01_04
18-09-2006, 01:10 PM
Thế nào là bán phá giá?
Theo Hiệp định chống bán phá giá của WTO, một sản phẩm được coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự trong nước theo các điều kiện buôn bán thông thường. Theo khái niệm như vậy thì có thể xem xét việc đánh thuế chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của một nước đến một quốc gia nội địa nếu xét thấy:
- Giá xuất khẩu thấp hơn giá bán hàng hoá đó ở thị trường nội địa.
- Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất.
- Giá xuất khẩu sang nước tiến hành điều tra chống bán phá giá thấp hơn giá xuất khẩu hàng hoá đó sang thị trường một nước khác.
Trong trường hợp hàng nhập khẩu từ các nước không có nền kinh tế thị trường mở, nước nhập khẩu có thể lấy mức giá của nước thứ ba để so sánh khi xác định xem đánh thuế chống bán phá giá hay không.
Các quy định về chống bán phá giá của EU căn bản là giống như của WTO, chỉ khác biệt về hai điểm: (l ) biện pháp cưỡng chế và (2) các quy định bên trong của EU. Các quy định của EU rất ngặt nghèo, chẳng hạn bên kiện phải là ngành công nghiệp hoặc một nhóm nhà sản xuất bị thiệt hại do hành vi bán phá giá, phải đưa ra đủ bằng chứng chứng minh tổng các thiệt hại này lớn hơn 25% cả ngành, và mức độ bán phá giá của hàng nhập khẩu của từng nước bị kiện phải lớn hơn 2% thị phần.Luật chống bán phá giá của Mỹ thì quy định hành vi chống phá giá là:
- Bán một món hàng xuất ra nước ngoài mà giá thấp hơn giá đang thịnh hành ở thị trường trong nước. Đây là biểu hiện của sự việc được gọi là sự kỳ thị giá cả trên thị trường quốc tế.
- Bán một món hàng mà giá thấp hơn giá thành của chính nó, tức là hoàn toàn không có khả năng thu hồi chi phí sản xuất.
Như vậy, bán phá giá xảy ra khi các nhà xuất khẩu nước ngoài bán hàng hoá của họ trên thị trường thế giới ở mức giá thấp hơn mức giá tại thị trường nội địa của họ hay họ bán các sản phẩm với giá thấp hơn chi phí sản xuất.
.
Lý do nào đã khiến các công ty theo đuổi và thực hiện hành vi bán phá giá?Thực tiễn thương mại cho thấy có những lý do tối đa hoá lợi nhuận khiến một công ty muốn thực hiện định giá phân biệt. Ví dụ, một công ty sản xuất một triệu bật lửa một năm bằng một nhà máy duy nhất với chỉ làm ca ban ngày. Giả sử nó định ra giá bật lửa này trong thị trường nội địa 1 đồng một chiếc và lãi được 0,1 đồng/chiếc. Các biến phí (bao gồm nguyên vật liệu, lương công nhân, ...) là 0,7 đồng/ chiếc và các định phí (khấu hao nhà máy, trang thiết bị, ...) là 0,2 đồng/chiếc. Nếu nhà máy bán hết 1 triệu bật lửa mỗi năm, lãi 0,1 đồng/chiếc thì rõ ràng đã bù đắp xong mọi định phí từ doanh thu bán hàng tại thị trường nội địa. Bây giờ, công ty nảy ra ý tưởng có thể bán thêm bật lửa sang thị trường nước láng giềng với bất cứ giá nào cao hơn biến phí 0,7 đồng/chiếc và thấp hơn 1 đồng 1/chiếc để kiếm thêm tiền lời.
Bây giờ nhà máy có thể làm thêm ca đêm và sản xuất 0,5 triệu chiếc bật lửa nữa. Các định phí, theo giả định, đã được trang trả xong từ việc bán 1 triệu chiếc bật lửa đầu tiên. Nếu bán 0,5 triệu bật lửa này sang thị trường nước láng giềng với giá 0,9 đồng/chiếc thì cũng làm tăng lợi nhuận của công ty thêm 100.000 đồng. Dĩ nhiên, việc bán sản phẩm ca đêm không ảnh hưởng tới giá bán của một triệu bật lửa ban đầu. Điều này ít nhiều dẫn đến việc phân khúc thị trường, nghĩa là phải tìm kiếm một thị trường khác hẳn với thị trường ca ngày. Mặt khác, công ty phải đảm bảo rằng người mua ở thị trường mới không dễ gì chuyển hàng ngược lại thị trường thứ nhất (ví dụ định giá ở thị trường mới sao cho chênh lệch giá không đủ bù đắp chi phí vận chuyển theo chiều ngược lại). Nếu không, giá bán của thị trướng thứ nhất sẽ bị ảnh hướng theo chiều hướng giảm giá. Một số các liệu chuẩn phổ biến 1 để xác định việc bán phá giá
[COLOR="Green"]Sản phẩm tương tự: Về cơ bản, việc bán phá giá có liên quan đến vấn đề phân biệt về giá giữa các thị trường. Nói chung, bán phá giá nảy sinh khi một sản phẩm được bán để xuất khẩu ở một nước giá thấp hơn giá sản phẩm này được bán ở trên thị trướng nội địa. Sự khác biệt giữa các giá này, tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá xuất khẩu, được định nghĩa là biên phá giá (dumping margin).
Phương thức tìm sản phẩm tương tự:
Khi sản phẩm xuất khẩu không có các sản phẩm đồng nhất được bán trên thị trường chính quốc thì áp dụng các phương thức tìm ra sản phẩm tương tự nhất theo các bước:
- Nhận dạng các đặc trưng quan trọng nhất của sản phẩm xuất khẩu được bán ở thị trường Hoa Kỳ và ở thị trường chính quốc( ví dụ như kích cỡ và các nét đặc trưng khác).
- Xác định thứ tự ưu tiên của các đặc trưng này một cách nghiêm ngặt căn cứ vào tầm quan trọng của chúng.
- Chọn lựa các giới hạn hoặc phân loại thích hợp đối với mỗi thuộc tính phản ánh các phân nhóm thích hợp những thuộc tính được đo lường (ví dụ như các thông số chủ yếu liên tục; các bộ phận cao, trung bình và thấp).
- Phân loại sản phẩm xuất khẩu này và mỗi sản phẩm trên thị trường chính quốc căn cứ vào tất cả các đặc trưng chỉ ra tính chất xứng hợp theo thứ bậc.
- Căn cứ vào phương thức này mà nhận dạng và chọn lọc sản phẩm trên thị trường chính quốc có tính chất xứng hợp gần nhất với sản phẩm xuất khẩu và loại ra tất cả các sản phẩm trên thị trường chính quốc khác.
Nhưng nếu không có sản phẩm tương tự được bán ở thị trường nước xuất khẩu thì sao? Vấn đề này được WTO quy định chi tiết như sau:
- Nếu không có sản phẩm tương tự được bán ở nước xuất khẩu.
- Hoặc nếu việc bán trong nước này không cho phép có được sự so sánh hợp lý do điều kiện đặc biệt của thị trường đó.
- Hoặc nếu số lượng bán ra tại thị trường trong nước của nước xuất khẩu quá nhỏ (thông thường, số lượng này được xem là đủ lớn, nếu chiếm từ 5% trở lên số lượng bán sản phẩm đang xem xét tới nước nhập khẩu), thì giá bán tại thị trường trong nước ở mệnh đề kéo theo trên được thay bằng: thứ nhất, mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang nước thứ ba thích hợp với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hoá tương tự; hoặc thứ hai, xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hoá cộng thêm một khoản hợp lý chi phí quản trị, bán hàng, các chi phí chung và một khoản lợi nhuận. Trong trường hợp này, ta có thể nhận xét rằng đã có một bước chuyển từ sự ‘‘phân biệt đối xử qua giá‘‘ sang quyết định xem hàng xuất khẩu có bị bán với ‘‘giá dưới chi phí’‘ hay không?
Sau khi xem xét vấn đề này, khái niệm giá bán tại thị trường trong nước ở trên được hiểu tổng quát thành giá trị thông thường - đó là: giá bán tại thị trường trong nước, hoặc giá bán sang nước thứ ba, hoặc ‘‘mức chi phí suy định’‘.
Mệnh đề so sánh ở trên chỉ được xem xét trong một khoảng thời gian nhất định - thông thường là một năm. Như vậy. vấn đề đặt ra tiếp theo là các mức giá trong thời kỳ ấy được ấn định như thế nào?
Thông thường, việc xác định có bán phá giá hay không trong suốt giai đoạn xem xét hay điều tra sẽ dựa trên cơ sở:
- So sánh giữa giá trị thông thường bình quân gia quyền với bình quân gia quyền giá xuất khẩu có thể so sánh được.
- Hoặc so sánh giá trị thông thường với giá xuất khẩu từng giao dịch.
- Hoặc so sánh giá thị trường thông thường bình quân gia quyền với giá xuất khẩu từng giao dịch, nếu như các cơ quan có thẩm quyền (của nước nhập khẩu ) xác định rằng cơ cấu giá xuất khẩu (của nước xuất khẩu) đối với những người mua nhập khẩu khác nhau, khu vực khác nhau và thời điểm khác nhau của nước nhập khẩu có sự chênh lệch đáng kể và khi có thể đưa ra giải thích về việc tại sao sự khác biệt này không cho phép tính toán một cách đầy đủ khi so sánh bằng phương pháp sử dụng bình quân gia quyền.
Khi so sánh giữa giá trị thông thường với giá xuất khẩu phải tiến hành ở cùng một khâu của quá trình mua bán, thường là tại khâu xuất xưởng.
‘’Thị trường’’ và ‘‘phi thi trường‘‘: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế có môi trường kinh doanh tự do, giá cả tự do ... không phụ thuộc vào Nhà nước; trong khi các nước không có nền kinh tế thị trường thì không được như vậy, nhà nước có những ảnh hưởng và bảo hộ nhất định. Vì vậy chi phí sản xuất cho sản phẩm sẽ không là chi phí thực, không tính được giá thực tế.
- Đối với nền kinh tế được thừa nhận là kinh tế thị trường (như trường hợp mới nhất là nước Nga vừa được Mỹ công nhận), các uỷ ban của Mỹ sẽ căn cứ vào những chứng từ liên quan để tính giá thành một sản phẩm đang bị nghi vấn bán phá giá.
- Đối với nền kinh tế chưa được Mỹ thừa nhận là nền kinh tế thị trường (như trường hợp Việt Nam), các cơ quan điều tra có khuynh hướng cho rằng giá thành sản phẩm là không thực vì chính phủ thường có chế độ trợ cấp cho sản phẩm trong nước và xuất khẩu. Do đó họ sẽ lấy giá thành sản phẩm hay chi phí sản xuất (của mặt hàng đang được điều tra) của một nước có nền kinh tế thị trường để áp đặt cho nước chưa được thừa nhận là có nền kinh tế thị trường. Và thông thường các nước này sẽ bị áp dụng một mức đánh thuế cao hơn nếu bị chứng minh là bán phá giá.
Ở Việt Nam việc chống bán phá giá chưa được quan tâm một cách đúng mức, mặc dù các biểu hiện về bán phá giá đã manh nha và trên thực tế chúng ta cũng đã phải đối mặt với các vụ kiện từ phía đối tác nước ngoài trong khá nhiều trường hợp bị tình nghi là có bán phá giá trong các thương vụ kinh tế ty đa quốc gia (MNC) đã thực hiện chiến lược bán phá giá và sử dụng các hình thức quảng cáo, khuyến mãi rầm rộ để giành thị trường nhằm thôn tính các doanh nghiệp nội
Theo Hiệp định chống bán phá giá của WTO, một sản phẩm được coi là bán phá giá nếu giá xuất khẩu thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự trong nước theo các điều kiện buôn bán thông thường. Theo khái niệm như vậy thì có thể xem xét việc đánh thuế chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu của một nước đến một quốc gia nội địa nếu xét thấy:
- Giá xuất khẩu thấp hơn giá bán hàng hoá đó ở thị trường nội địa.
- Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất.
- Giá xuất khẩu sang nước tiến hành điều tra chống bán phá giá thấp hơn giá xuất khẩu hàng hoá đó sang thị trường một nước khác.
Trong trường hợp hàng nhập khẩu từ các nước không có nền kinh tế thị trường mở, nước nhập khẩu có thể lấy mức giá của nước thứ ba để so sánh khi xác định xem đánh thuế chống bán phá giá hay không.
Các quy định về chống bán phá giá của EU căn bản là giống như của WTO, chỉ khác biệt về hai điểm: (l ) biện pháp cưỡng chế và (2) các quy định bên trong của EU. Các quy định của EU rất ngặt nghèo, chẳng hạn bên kiện phải là ngành công nghiệp hoặc một nhóm nhà sản xuất bị thiệt hại do hành vi bán phá giá, phải đưa ra đủ bằng chứng chứng minh tổng các thiệt hại này lớn hơn 25% cả ngành, và mức độ bán phá giá của hàng nhập khẩu của từng nước bị kiện phải lớn hơn 2% thị phần.Luật chống bán phá giá của Mỹ thì quy định hành vi chống phá giá là:
- Bán một món hàng xuất ra nước ngoài mà giá thấp hơn giá đang thịnh hành ở thị trường trong nước. Đây là biểu hiện của sự việc được gọi là sự kỳ thị giá cả trên thị trường quốc tế.
- Bán một món hàng mà giá thấp hơn giá thành của chính nó, tức là hoàn toàn không có khả năng thu hồi chi phí sản xuất.
Như vậy, bán phá giá xảy ra khi các nhà xuất khẩu nước ngoài bán hàng hoá của họ trên thị trường thế giới ở mức giá thấp hơn mức giá tại thị trường nội địa của họ hay họ bán các sản phẩm với giá thấp hơn chi phí sản xuất.
.
Lý do nào đã khiến các công ty theo đuổi và thực hiện hành vi bán phá giá?Thực tiễn thương mại cho thấy có những lý do tối đa hoá lợi nhuận khiến một công ty muốn thực hiện định giá phân biệt. Ví dụ, một công ty sản xuất một triệu bật lửa một năm bằng một nhà máy duy nhất với chỉ làm ca ban ngày. Giả sử nó định ra giá bật lửa này trong thị trường nội địa 1 đồng một chiếc và lãi được 0,1 đồng/chiếc. Các biến phí (bao gồm nguyên vật liệu, lương công nhân, ...) là 0,7 đồng/ chiếc và các định phí (khấu hao nhà máy, trang thiết bị, ...) là 0,2 đồng/chiếc. Nếu nhà máy bán hết 1 triệu bật lửa mỗi năm, lãi 0,1 đồng/chiếc thì rõ ràng đã bù đắp xong mọi định phí từ doanh thu bán hàng tại thị trường nội địa. Bây giờ, công ty nảy ra ý tưởng có thể bán thêm bật lửa sang thị trường nước láng giềng với bất cứ giá nào cao hơn biến phí 0,7 đồng/chiếc và thấp hơn 1 đồng 1/chiếc để kiếm thêm tiền lời.
Bây giờ nhà máy có thể làm thêm ca đêm và sản xuất 0,5 triệu chiếc bật lửa nữa. Các định phí, theo giả định, đã được trang trả xong từ việc bán 1 triệu chiếc bật lửa đầu tiên. Nếu bán 0,5 triệu bật lửa này sang thị trường nước láng giềng với giá 0,9 đồng/chiếc thì cũng làm tăng lợi nhuận của công ty thêm 100.000 đồng. Dĩ nhiên, việc bán sản phẩm ca đêm không ảnh hưởng tới giá bán của một triệu bật lửa ban đầu. Điều này ít nhiều dẫn đến việc phân khúc thị trường, nghĩa là phải tìm kiếm một thị trường khác hẳn với thị trường ca ngày. Mặt khác, công ty phải đảm bảo rằng người mua ở thị trường mới không dễ gì chuyển hàng ngược lại thị trường thứ nhất (ví dụ định giá ở thị trường mới sao cho chênh lệch giá không đủ bù đắp chi phí vận chuyển theo chiều ngược lại). Nếu không, giá bán của thị trướng thứ nhất sẽ bị ảnh hướng theo chiều hướng giảm giá. Một số các liệu chuẩn phổ biến 1 để xác định việc bán phá giá
[COLOR="Green"]Sản phẩm tương tự: Về cơ bản, việc bán phá giá có liên quan đến vấn đề phân biệt về giá giữa các thị trường. Nói chung, bán phá giá nảy sinh khi một sản phẩm được bán để xuất khẩu ở một nước giá thấp hơn giá sản phẩm này được bán ở trên thị trướng nội địa. Sự khác biệt giữa các giá này, tính theo tỷ lệ phần trăm trên giá xuất khẩu, được định nghĩa là biên phá giá (dumping margin).
Phương thức tìm sản phẩm tương tự:
Khi sản phẩm xuất khẩu không có các sản phẩm đồng nhất được bán trên thị trường chính quốc thì áp dụng các phương thức tìm ra sản phẩm tương tự nhất theo các bước:
- Nhận dạng các đặc trưng quan trọng nhất của sản phẩm xuất khẩu được bán ở thị trường Hoa Kỳ và ở thị trường chính quốc( ví dụ như kích cỡ và các nét đặc trưng khác).
- Xác định thứ tự ưu tiên của các đặc trưng này một cách nghiêm ngặt căn cứ vào tầm quan trọng của chúng.
- Chọn lựa các giới hạn hoặc phân loại thích hợp đối với mỗi thuộc tính phản ánh các phân nhóm thích hợp những thuộc tính được đo lường (ví dụ như các thông số chủ yếu liên tục; các bộ phận cao, trung bình và thấp).
- Phân loại sản phẩm xuất khẩu này và mỗi sản phẩm trên thị trường chính quốc căn cứ vào tất cả các đặc trưng chỉ ra tính chất xứng hợp theo thứ bậc.
- Căn cứ vào phương thức này mà nhận dạng và chọn lọc sản phẩm trên thị trường chính quốc có tính chất xứng hợp gần nhất với sản phẩm xuất khẩu và loại ra tất cả các sản phẩm trên thị trường chính quốc khác.
Nhưng nếu không có sản phẩm tương tự được bán ở thị trường nước xuất khẩu thì sao? Vấn đề này được WTO quy định chi tiết như sau:
- Nếu không có sản phẩm tương tự được bán ở nước xuất khẩu.
- Hoặc nếu việc bán trong nước này không cho phép có được sự so sánh hợp lý do điều kiện đặc biệt của thị trường đó.
- Hoặc nếu số lượng bán ra tại thị trường trong nước của nước xuất khẩu quá nhỏ (thông thường, số lượng này được xem là đủ lớn, nếu chiếm từ 5% trở lên số lượng bán sản phẩm đang xem xét tới nước nhập khẩu), thì giá bán tại thị trường trong nước ở mệnh đề kéo theo trên được thay bằng: thứ nhất, mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được xuất khẩu sang nước thứ ba thích hợp với điều kiện là mức giá có thể so sánh được này mang tính đại diện thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hoá tương tự; hoặc thứ hai, xác định thông qua so sánh với chi phí sản xuất tại nước xuất xứ hàng hoá cộng thêm một khoản hợp lý chi phí quản trị, bán hàng, các chi phí chung và một khoản lợi nhuận. Trong trường hợp này, ta có thể nhận xét rằng đã có một bước chuyển từ sự ‘‘phân biệt đối xử qua giá‘‘ sang quyết định xem hàng xuất khẩu có bị bán với ‘‘giá dưới chi phí’‘ hay không?
Sau khi xem xét vấn đề này, khái niệm giá bán tại thị trường trong nước ở trên được hiểu tổng quát thành giá trị thông thường - đó là: giá bán tại thị trường trong nước, hoặc giá bán sang nước thứ ba, hoặc ‘‘mức chi phí suy định’‘.
Mệnh đề so sánh ở trên chỉ được xem xét trong một khoảng thời gian nhất định - thông thường là một năm. Như vậy. vấn đề đặt ra tiếp theo là các mức giá trong thời kỳ ấy được ấn định như thế nào?
Thông thường, việc xác định có bán phá giá hay không trong suốt giai đoạn xem xét hay điều tra sẽ dựa trên cơ sở:
- So sánh giữa giá trị thông thường bình quân gia quyền với bình quân gia quyền giá xuất khẩu có thể so sánh được.
- Hoặc so sánh giá trị thông thường với giá xuất khẩu từng giao dịch.
- Hoặc so sánh giá thị trường thông thường bình quân gia quyền với giá xuất khẩu từng giao dịch, nếu như các cơ quan có thẩm quyền (của nước nhập khẩu ) xác định rằng cơ cấu giá xuất khẩu (của nước xuất khẩu) đối với những người mua nhập khẩu khác nhau, khu vực khác nhau và thời điểm khác nhau của nước nhập khẩu có sự chênh lệch đáng kể và khi có thể đưa ra giải thích về việc tại sao sự khác biệt này không cho phép tính toán một cách đầy đủ khi so sánh bằng phương pháp sử dụng bình quân gia quyền.
Khi so sánh giữa giá trị thông thường với giá xuất khẩu phải tiến hành ở cùng một khâu của quá trình mua bán, thường là tại khâu xuất xưởng.
‘’Thị trường’’ và ‘‘phi thi trường‘‘: Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế có môi trường kinh doanh tự do, giá cả tự do ... không phụ thuộc vào Nhà nước; trong khi các nước không có nền kinh tế thị trường thì không được như vậy, nhà nước có những ảnh hưởng và bảo hộ nhất định. Vì vậy chi phí sản xuất cho sản phẩm sẽ không là chi phí thực, không tính được giá thực tế.
- Đối với nền kinh tế được thừa nhận là kinh tế thị trường (như trường hợp mới nhất là nước Nga vừa được Mỹ công nhận), các uỷ ban của Mỹ sẽ căn cứ vào những chứng từ liên quan để tính giá thành một sản phẩm đang bị nghi vấn bán phá giá.
- Đối với nền kinh tế chưa được Mỹ thừa nhận là nền kinh tế thị trường (như trường hợp Việt Nam), các cơ quan điều tra có khuynh hướng cho rằng giá thành sản phẩm là không thực vì chính phủ thường có chế độ trợ cấp cho sản phẩm trong nước và xuất khẩu. Do đó họ sẽ lấy giá thành sản phẩm hay chi phí sản xuất (của mặt hàng đang được điều tra) của một nước có nền kinh tế thị trường để áp đặt cho nước chưa được thừa nhận là có nền kinh tế thị trường. Và thông thường các nước này sẽ bị áp dụng một mức đánh thuế cao hơn nếu bị chứng minh là bán phá giá.
Ở Việt Nam việc chống bán phá giá chưa được quan tâm một cách đúng mức, mặc dù các biểu hiện về bán phá giá đã manh nha và trên thực tế chúng ta cũng đã phải đối mặt với các vụ kiện từ phía đối tác nước ngoài trong khá nhiều trường hợp bị tình nghi là có bán phá giá trong các thương vụ kinh tế ty đa quốc gia (MNC) đã thực hiện chiến lược bán phá giá và sử dụng các hình thức quảng cáo, khuyến mãi rầm rộ để giành thị trường nhằm thôn tính các doanh nghiệp nội